Hướng Về Hà Nội (Hoàng Dương)

Hà Nội luôn là đề tài muôn thưở trong thi ca và âm nhạc. Riêng với dòng nhạc xưa, có lẽ bản ‘Hướng Về Hà Nội’ của Hoàng Dương là một tác phẩm tiêu biểu nhất cho tâm trạng ngậm ngùi của những ai phải xa rời mảnh đất đã có quá nhiều kỷ niệm. [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu ca khúc bất hủ này đến người yêu nhạc.

Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

huong-ve-ha-noi--1--hoang-duong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

HOÀNG DƯƠNG VỚI CA KHÚC “HƯỚNG VỀ HÀ NỘI”
(Nguồn: tác giả Trương Văn Khoa Bài viết trên Tạp Chí Non Nước – Liên Hiệp các Hội Văn Học & Nghệ Thuật Thành phố Đà Nẵng phát hành tháng 11/2012)

Hơn 50 năm trước, vào một đêm bom đạn tơi bời của người Pháp dội về Hà Nội , từ bên kia thành phố, nhạc sĩ Hoàng Dương đã xúc cảm viết nên ca khúc “Hướng về Hà Nội” trong nỗi nhớ vô bờ của một thời ly hương, loạn lạc…

Nhạc sỹ Hoàng Dương. Ảnh: internet.
Nhạc sỹ Hoàng Dương. Ảnh: internet.

Hoàng Dương, tên đầy đủ là Ngô Hoàng Dương, con trai của Nhà văn – Nhà báo Trúc Khê Ngô Văn Triện (danh nhân văn hóa Hà Nội).  Hoàng Dương là một nghệ sĩ đàn cello, người có công đầu xây dựng bộ môn cello, khoa đàn dây tại Nhạc viện Hà Nội. Với nhiều đóng góp lớn trong nền âm nhạc nước nhà, PGS Hoàng Dương được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú và Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007 trong lĩnh vực sáng tác. Hoàng Dương viết nhiều tác phẩm khí nhạc như: Hát ru, Mơ về trái núi Thiên Thai (cello và piano), Tiếng hát sông Hương (cello và dàn nhạc)…Đối với ca khúc, ông viết không nhiều với các nhạc phẩm: Hướng về Hà Nội, Chiều cuối năm, Tiếc thu, Ôi giấc mơ xưa. Trong đó, 2 ca khúc nổi tiếng được mọi người biết đến là “Hướng về Hà Nội” với điệu slow và “Tiếc thu” điệu tango, cả hai đều có âm hưởng buồn, giọng “mineur”.

Trong sự nghiệp âm nhạc của mình, nhạc sĩ Hoàng Dương chịu ảnh hưởng từ tính cách và lãng mạn của cha mình. Ngày ấy, Trúc Khê làm báo ở Hà Nội, cuối tuần, ông lại về Từ Liêm với vợ và các con. Nhà nghèo nhưng cha của Hoàng Dương vẫn thiết kế một ngọn núi và con sông nhỏ uốn luợn trong vườn để cùng những người bạn như Tản Đà, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư… ngắm trăng uống rượu rồi làm thơ. Những sinh hoạt của các thi sĩ cùng với kho sách trong nhà với những tác giả như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, Verlaine, Lamarrtine, Baudelaire… đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn, sự nghiệp sáng tác của Hoàng Dương sau này. Lúc tản cư lên chiến khu, qua nhóm hát Thái Thanh, Thái Hằng, ông bắt đầu nhập môn âm nhạc, tiếp xúc với các nhạc cụ phương Tây và học guitar từ đó. Thế nhưng, “duyên nợ” violon cell cứ đeo đuổi ông cho đến ngày Thủ đô được giải phóng. Năm 1954, ông bắt tay vào học violon cell và truyền lại cho người con trai đầu của mình niềm đam mê ấy, đó chính là nhạc sĩ Ngô Hoàng Quân, Giám đốc Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam. Người con trai thứ của nhạc sĩ, tiến sĩ violon, đang giảng dạy tại Nhạc viện Quốc gia Hà Nội.

Hoàng Dương tâm sự, vào những năm (1953 – 1954), khi ông đang hoạt động cách mạng tại đội tuyên truyền văn nghệ Thành bộ Hà Nội, chiến tranh nổ ra hết sức quyết liệt, đội của ông phải thường xuyên chạy trốn trước sự truy đuổi của quân thù. Lúc bấy giờ, Hoàng Dương có yêu một người em gái ở nội thành, tình yêu thời chiến chinh lãng mạn và đẹp vô cùng. Một đêm khuya, khi đang túc trực tại nhà của một người dân ở ngoại thành, trong tiếng pháo dội về thành phố, anh bồi hồi nhớ đến người yêu. Không nén được cảm xúc, ông liền ngồi vào bàn, viết lên những dòng nhạc đầu tiên cho bài hát “Hướng về Hà Nội”.

Cảm xúc đến tự nhiên, dạt dào khiến Hoàng Dương viết rất rất nhanh và hoàn tất ca khúc ngay trong đêm hôm đó:

“Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi
Ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi
Hà Nội ơi, phố phường dài ánh trăng mơ
Liễu mềm nhủ gió gây thơ, thấu chăng lòng khách bơ vơ…”

Ca khúc đã vượt qua ranh giới cảm xúc cá nhân và chạm vào nỗi niềm chung của những người đã từng sống ở Hà Nội. Nhà thơ Ý Nhi có lần nói: “Hà Nội của nhạc sĩ Hoàng Dương là một người tình”, là những gì đẹp nhất của tuổi thanh xuân, tuổi cống hiến cho đất nước. “Hướng về Hà Nội” là sự kết tinh tâm trạng của hai lần nhạc sĩ xa Hà Nội. Lần thứ nhất, lúc 14 tuổi (năm 1947), Hoàng Dương cùng với đoàn người nội thành tản cư đến vùng Chợ Đại, Cống Thần. Ngày ấy, hàng đêm nhìn những quầng sáng hắt lên từ Thủ đô, lòng ông lại bồn chồn, nhớ Hà Nội khủng khiếp, mong chờ ngày giải phóng. Lần thứ 2 (1953), Hoàng Dương trở lại hoạt động cách mạng ở nội thành, lúc đó anh yêu một người con gái Hà Nội,  địch phát hiện truy đuổi, Hoàng Dương  bỏ trốn ra ngoại thành….

Hồ Gươm. Ảnh: baogialai.com.vn
Hồ Gươm. Ảnh: baogialai.com.vn

Thính giả thời bấy giờ còn nhớ, khi mới ra đời, cùng với “nỗi buồn tiểu tư sản”, ca khúc “Hướng về Hà Nội” không được biểu diễn công khai trong một thời gian dài. Thậm chí, ca sĩ Ngọc Bảo lại hát “Hướng về Hà Nội” trên đài phát thanh để nhắn gửi bạn bè trong Nam nên càng bị… cấm. Rất may, những ca từ mượt mà và giai điệu ngọt ngào ấy vẫn âm ỉ chảy trong lòng những những người con của Hà Nội. Năm 1954, bài hát được phổ biến rộng rãi và nổi tiếng qua giọng hát của Kim Tước. Ca khúc chất chứa trong lòng một nỗi niềm day dứt khôn nguôi, giai điệu mang đầy tính tự sự cùng với ca từ đẹp, giàu chất thơ khiến người nghe nhớ Hà Nội đến nao lòng:

“…Hà Nội ơi, những ngày vui đã ra đi
Biết người có nhớ nhung chi
Hết rồi giây phút phân ly
Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê,
Tóc thề thả gió lê thê
Biết đâu ngày ấy anh về…”

“Hướng về Hà Nội” man mác nỗi buồn thời chinh chiến nhưng không hề bi lụy. Điểm nhân văn của bài hát là đem đến niềm tin cho công chúng, tin vào ngày mai chiến thắng, ngày trở lại Thủ đô…. Và đó cũng chính là sự đồng điệu của những chàng trai Hà Nội lãng mạn và hào hoa trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Cuộc chiến tranh đầy gian khổ và hy sinh nhưng họ vẫn vẫn thầm mơ về Hà Nội như những gì Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”:

“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”

Một lần, nhà thơ Quang Dũng đến chơi với tài tử Ngọc Bảo. Sau khi được nghe Ngọc Bảo hát bài hát của Hoàng Dương, Quang Dũng đã nhờ Ngọc Bảo nhắn với Hoàng Dương rằng, ông rất muốn nhạc sĩ đến chơi nhà của ông. Mấy ngày sau Hoàng Dương tìm đến, nhà thơ Quang Dũng đã ôm chầm lấy và bảo: “Cảm ơn Dương, mặc dù mới được gặp cậu lần đầu nhưng tâm hồn của chúng ta đã giống nhau. Tớ cảm nhận được rất nhiều sự đồng điệu trong đó”. Cuộc hội ngộ cảm động đó được Hoàng Dương xem như là một kỷ niệm đẹp, sâu sắc nhất trong cuộc đời âm nhạc của ông. 

Năm 1954, ca khúc “Hướng về Hà Nội” được Tinh Hoa Miền Nam xuất bản, ngoài bìa có hình vẽ một thiếu nữ chít khăn “mỏ quạ” màu nâu nhạt do hoạ sĩ Duy Liêm trình bày. Bên trong bài hát, phía trên cùng có câu: “Riêng tặng Hoàng Trọng, bạn thân yêu, gửi đây niềm thương nhớ một mùa chia phôi…”. Nhiều người lúc bấy giờ không biết Hoàng Trọng là ai ? Họ hồ nghi, liệu đó có phải là một “bóng hồng” nào khác ? Thật ra, Hoàng Trọng và Hoàng Dương là bạn văn nghệ với nhau, bản nhạc “Nhạc sầu tương tư” nổi tiếng khi xưa của Hoàng Trọng là do Hoàng Dương viết lời. Ông nói: “Hoàng Trọng là người bạn vong niên đáng kính của tôi. Tôi đã cộng tác với anh trong nhiều bài hát với phần ca từ được anh rất thích”. Sau này, Hoàng Trọng đã giới thiệu những ca khúc của Hoàng Dương cho Kim Tước. Hai ca khúc “Tiếc thu” và “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương đã được nữ danh ca này trình bày lần đầu tiên, được công chúng nồng nhiệt đón nhận qua làn sóng radio Hà Nội.

Kể từ ngày ấy, ca khúc được lan truyền rộng rãi trong và ngoài nước, nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế tái bản nhiều lần mới đáp ứng được sự hâm mộ của độc giả. Những ca sĩ nổi tiếng một thời như Mai Hương, Duy Trác,… đã chinh phục người nghe bằng giai điệu trữ tình của “Hướng về Hà Nội”. Tuy nhiên, để ru hết phần hồn của bản nhạc, chúng ta phải nói đến giọng ca điêu luyện, mê hoặc lòng người của nữ danh ca Lệ Thu sau này. Nhà thơ Ý Nhi, sau khi nghe họ hát, đã cho rằng: “Giọng ca của họ không lôi cuốn tôi ngay lập tức, nhưng rồi một vẻ đẹp thực sự, những giọng ca đó đã chinh phục tôi. Giọng người này, với sự tha thiết trong trẻo, giọng người kia với sự sâu lắng thấm nhuần, cho đến lúc tôi đinh ninh rằng họ là một trong số rất ít các ca sĩ có khả năng trình bày tốt nhất những ca khúc trữ tình nổi tiếng của Việt Nam”.

40 năm sau, những năm cuối cùng của thế kỷ 20, bài hát mới được “minh oan” và đón nhận nhiều sự chia sẻ của khán giả. Năm 1994, trong chương trình “Nữa thế kỷ bài hát Việt Nam” do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Lớn, ca khúc “Hướng về Hà Nội” đã được chọn trong danh mục biểu diễn. Ca sĩ Thu Hà đã giúp nhạc sĩ Hoàng Dương đưa ca khúc trở lại với công chúng, xóa đi lớp bụi thời gian của mấy chục năm về trước. Các nhà phê bình âm nhạc đã không tiếc lời nhận định, “Hướng về Hà Nội” là sự kết tinh tài hoa, lắng đọng trong không gian thời gian và linh thiêng của sông núi:

“…Một ngày, mùa chinh chiến ấy,
Chim đã xa bầy,
mịt mờ bên trời bay…
Một ngày, tả tơi hoa lá,
ngóng trông về xa …
luyến thương hình bóng qua…”

[footer]

Hoa Sứ Nhà Nàng (Hoàng Phương)

[dongnhacxua.com] cũng như người yêu nhạc xưa, đặc biệt là những ai yêu thích dòng nhạc belero không thể không biết đến bản ‘Hoa sứ nhà nàng’. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta biết được về cuộc đời cũng như hoàn cảnh éo le cuối đời của tác giả: nhạc sỹ Hoàng Phương.

Hoa sứ nhà em (tức Hoa sứ nhà nàng) của Hoàng Phương. Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hoa-su-nha-nang--1--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hoa-su-nha-nang--2--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hoa-su-nha-nang--3--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ CHẾT TRONG TẬN CÙNG NGHÈO KHỔ
(Nguồn: tác giả Tư Hoàng đăng trên laodong.com.vn)

Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Phương, nhiều người yêu thích âm nhạc đều biết đó chính là tác giả của nhạc phẩm “vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải phóng, đó là bài hát “Hoa sứ nhà nàng”. Ông chính là tác giả của dòng nhạc Gò Công đã làm mưa làm gió từ Nam chí Bắc suốt thập niên 1980. 

Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn
Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn

Từng sở hữu 2 tiệm vàng, 1 tiệm mua bán đồng hồ, 3 căn nhà phố, nhưng về cuối đời ông sống nghèo khổ trong căn chòi rách nát…

Thành danh trên đất biển Gò Công

Hoàng Phương tên thật là Nguyễn Kim Hoàng, sinh năm 1943 trong một gia đình khá giả tại xóm Cầu Muống, xã Tân Thành, cách thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang) khoảng 17km. Xóm Cầu Muống nằm cách bãi biển Tân Thành khoảng 2,5km, ngày ấy nơi đây nhà dân cư thưa thớt cất dọc theo hai bên trục lộ. Thuở nhỏ, ông học trường tiểu học sơ cấp Tân Thành, sau đó học ở trường Nam Tiểu học Gò Công. Trường Nam Tiểu học Gò Công lúc bấy giờ có một thầy dạy nhạc, đó là nhạc sĩ Lê Dinh.

Thi rớt vào đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường công lập, ông theo học đệ thất trường Bán công Gò Công. Một năm sau, khi đang theo học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ) thì cũng là năm ông ghi danh học nhạc buổi tối với nhạc sĩ Lê Dinh. Sau khi học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ), thi trượt tú tài 1, ông thôi học. Từ đây, ngoài cái nghiệp đam mê ca hát ra, ông đã chọn cho mình cái nghề để sinh sống sau này là học nghề sửa đồng hồ và học nghề thợ bạc.

Từ khi gặp được nhạc sĩ Lê Dinh, được nghe tiếng hát và phong cách biểu diễn của người nhạc sĩ tài ba này thì… âm nhạc như đã có sẵn từ trong máu ông được dịp trỗi dậy. Ông say mê nhạc hơn những bài toán. Một lần vào một đêm mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường, ai đó đã chơi bài “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong. Đó là cái đêm định mệnh thôi thúc Nguyễn Kim Hoàng đến với nghiệp cầm ca. Ông quyết dành dụm tiền để mua cho kỳ được đàn violon và ghi danh học nhạc với nhạc sĩ Lê Dinh.

Một thời gian sau ông tìm đến với guitar, có lẽ đối với ông đàn guitar đa dạng, phong phú hơn, trong những buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè mà mang cây đàn guitar trễ một bên hông, nó có vẻ lãng mạn, tình tứ, mang dáng dấp của một gã du ca lãng tử. Việc gì đến phải đến, ông rời ghế nhà trường khi vừa học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Từ đây ông bước vào một thế giới mới, không còn gò bó bởi thời gian như khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Ông miệt mài hơn, vừa học đàn vừa sáng tác, sự say mê cộng với khả năng thiên phú sẵn có trong ông, để rồi sau bao tháng ngày bên cung bậc bổng trầm và kết quả mà ông đã đạt được hơn sự mong đợi rất nhiều. Năm 1968, nhạc phẩm đầu tay “Hoa sứ nhà nàng” của ông ra đời.

Sau này, Hoàng Phương tiếp tục làm sôi động đời sống âm nhạc miền Nam với dòng nhạc mang tên quê hương ông -“nhạc Gò Công”. Phải nói là Hoàng Phương đã góp một phần không nhỏ để quảng bá “Biển Gò Công” nổi danh khắp cả nước.

Bản “nhạc vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải  phóng

Trước 30.4.1975 đất nước phân ly, chiến tranh mỗi lúc một thêm khốc liệt. Thanh niên lớn lên ở vùng do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kiểm soát bị bắt buộc gia nhập vào quân đội VNCH. Thường những nhạc sĩ thời ấy chỉ “đi lính” cho có lệ, rồi lo lót để được ở Sài Gòn hoạt động âm nhạc.

Sau ngày giải phóng, tất cả những tác giả có tên trong quân đội cũ đều là những người phải đi học tập cải tạo và nhạc của họ không được phép lưu hành. Như Trần Thiện Thanh, ông là một hạ sĩ quan, nhưng hoạt động chính là một nhạc sĩ. Nhiều bản nhạc ông viết về người lính VNCH, như những bản “Người ở lại Charlie”, “Anh không chết đâu em”, “Mùa xuân lá khô”… và nhiều bài viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đều bị cấm sau 30.4.1975.

Cũng có những soạn giả không tham gia vào quân đội Sài Gòn nhưng có làm việc cho chính phủ cũ, nhạc của họ cũng bị cấm do có nhiều bản nhạc ca ngợi chế độ cũ như “Chuyến đò vĩ tuyến”, “Nắng đẹp miền Nam” của nhạc sĩ Lam Phương, “Đò chiều”, “Tàu đêm năm cũ” của Trúc Phương… Có những bản nhạc rất trong sáng, dễ thương, viết về những kỷ niệm của thời học sinh như “Nỗi buồn hoa phượng” của Thanh Sơn, “Niên học sau cùng” của Hàn Sinh cũng bị cấm. Nói chung các dòng nhạc được viết trước ngày 30.4.1975 hầu hết đều bị cấm vì không dính dáng đến thời cuộc thì cũng bị xếp vào loại nhạc ủy mị, “nhạc vàng”.

Chỉ có một tác giả duy nhất – Hoàng Phương – là không dính dáng đến quân đội Sài Gòn, không làm việc cho chế độ cũ, bởi vì ông bị tật – khập khiễng một bên chân. Nhạc của ông chỉ viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương nên được phép lưu hành, trong đó có bản “Hoa sứ nhà nàng”.

Phải nói là trước ngày giải phóng, đời sống âm nhạc ở miền Nam cực kỳ phong phú, từ giới bình dân đến trí thức, ai cũng có thể chọn những bản nhạc thích hợp với “gu” của mình. Giới trí thức thì chọn nhạc của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Dương Thiệu Tước…, ai thất tình triền miên thì kiếm nhạc của Đỗ Lễ, Vũ Thành An…, giới bình dân thì chọn dòng nhạc của Hoàng Phương, Trúc Phương, Lam Phương…, dễ dãi hơn nữa thì tìm nhạc của Vinh Sử, Cô Phượng…, còn người nào phản chiến, coi cuộc chiến là sự ô nhục, huynh đệ tương tàn thì tìm các “Ca khúc da vàng” của Trịnh Công Sơn.

Khi những bản nhạc ăn vào máu vào thịt của tầng lớp mê ca hát bị cấm nghe, cấm hát thì hỏi làm sao mà không buồn cho được. Đây là khoảng thời gian mà nhạc phẩm “Hoa sứ nhà nàng” lên ngôi “nhạc đế”, bản nhạc dễ học, dễ ca, những lời trong bài hát dễ nhớ. Hồi đó,  “Hoa sứ nhà nàng” là nhạc phẩm không thể thiếu trong những tiệc vui, đám cưới thôn quê và những lần họp mặt.

Về cõi vĩnh hằng trong cô đơn và nghèo túng

Trước năm 1975, Hoàng Phương vừa viết nhạc vừa trông coi tiệm buôn bán đồng hồ, về sau ông có mở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân tại thị xã Gò Công. Gia đình ông lúc đó rất khá giả, nhưng vì nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông chọn con đường sống xa gia đình.

Năm 1989, ông bỏ lại tất cả sự nghiệp, kể cả gia đình, vợ và 8 đứa con để bước thêm bước nữa với người yêu mới tên là Mộng Vân (nhỏ hơn ông hai con giáp). Ông cất một căn nhà tạm bợ bằng tre lá, khoảng 15m2 gần bãi biển Tân Thành, gọi là nhà chứ thật ra nó là một căn chòi, nghèo nàn, xơ xác. Càng về sau, cuộc đời ông như buông thả, suốt ngày ông vùi đầu bên ly rượu, có khi mới hừng đông mà người ta đã thấy ông ngà say, một mình lang thang trên bãi biển Tân Thành.

Trong căn lều bé nhỏ ông vẫn sáng tác, một bên là cây đàn guitar và một bên là chai rượu đế, để rồi một thời gian sau đó ông suy sụp hoàn toàn, càng buồn phiền ông càng phẫn chí, ông lại vùi đầu vào ly rượu để lãng quên đời, rượu chè thâu đêm suốt sáng, điếu thuốc lúc nào cũng lấp lóe trên môi… Như cái vòng luẩn quẩn, ngỡ chuốc rượu cho tiêu sầu nào ngờ nỗi buồn như thêm chồng chất… Ông chưa quên được đời nhưng đời đã muốn lãng quên ông… Sau bao ngày đắm chìm trong men rượu, một hôm ông phát hiện ra mình mang một chứng bệnh quái ác – bệnh ung thư gan, thời kỳ cuối.

Hoàng Phương mất ngày 19.10.2002 tại Gò Công. Đám tang được tổ chức đơn sơ trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn của vợ chồng ông trên bãi biển Tân Thành. Khi chết rồi ông vẫn còn nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông còn để lại cho người, cho đời khoảng 10 ca khúc bằng bản thảo viết tay: “Biển khóc”, “Thuyền giấy chiều mưa”, “Hương bâng khuâng”, “Tình hạ buồn”, “Tìm em quán Phượng”, “Bươm bướm ngày thơ”, “Em vẫn chờ”, “Kiếp tơ tằm”, “Mộng tàn”, “Mùa nhạn trắng”… Có phải như một lời cảm ơn (?). Cảm ơn cuộc sống dù đau khổ muộn phiền này!…

CHÂN DUNG TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ QUA KÝ ỨC CON TRAI
(Nguồn: tác giả Hà Nguyễn – Ngọc Lài đăng trên NguoiDuaTin.vn)

Những năm 80-90 của thế kỷ trước, nhạc Gò Công tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc Việt như một hiện tượng nghệ thuật mới lạ. Người khai phá và duy nhất tỏa sáng với dòng nhạc Gò Công là nhạc sĩ Hoàng Phương. Ông được giới nghệ sĩ, thính giả thời bấy giờ vinh danh “Ông hoàng nhạc Gò Công” với những bài hát ca ngợi quê hương Gò Công, cũng như chuyện tình đôi lứa bằng lời hát trong sáng và mặn mà…

Chân dung tác giả Hoa sứ nhà nàng

Thời cực thịnh của nhạc Gò Công, khắp trong Nam ngoài Bắc, người yêu nhạc đổ xô tìm mua băng cassette nhạc Gò Công của nhạc sĩ Hoàng Phương. Những ca khúc viết về tình yêu, về biển của ông trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của đại đa số người yêu nhạc. Những ca khúc: Chuyện tình hoa muống biển, Biển tím, Chuyến xe Tiền Giang, Tình em quán Phượng,… đặc biệt là tình khúc Hoa sứ nhà nàng trở nên phổ biến đến độ hầu như ai cũng thuộc. Cho đến nay, những ca khúc trên của cố nhạc sĩ Hoàng Phương, người được giới nghệ sĩ cùng thời mệnh danh “Ông hoàngnhạc Gò Công” vẫn chinh phục tình yêu âm nhạc của người đời.

Anh Nguyễn Hoàng Tùng, người con trai duy nhất được thừa hưởng những tinh hoa của nhạc sĩ Hoàng Phương cho biết: “Mặc dù, ca khúc Hoa sứ nhà nàng của cha tôi hết sức phổ biến và được nhiều ca sĩ thể hiện thành công nhưng ít ai biết đó là sáng tác của ông. Không như những nhạc sĩ khác, cha không chọn lĩnh vực âm nhạc làm nghề nuôi thân mà chỉ xem đó như một thú chơi tao nhã, thỏa niềm đam mê. Và ông đã biến niềm đam mê đó của mình thành niềm đam mê của người khác khi góp phần đưa nhạc Gò Công đến đỉnh của nó vào những năm 80-90 của thế kỷ trước”.

Theo lời anh, “ông hoàng” vốn xuất thân từ một gia đình có của ăn của để.Gia đình ông vốn không thích cậu con trai theo nghiệp cầm ca mà hướng cậu vào con đường thương nghiệp. Thế nhưng, những tháng năm ngồi trên ghế nhà trường, niềm đam mê âm nhạc dường đã lấn át con chữ trên những trang vở. Ông say đắm các nhạc khúc viết về quê hương vùng biển Gò Công. Cùng lúc ấy, như duyên trời đã định, khi còn đang theo học tại trường Nam Tiểu học Gò Công, cậu bé yêu nhạc đã vô tình được biết nhạc sĩ Lê Dinh. Để thỏa niềm đam mê âm nhạc, ông quyết định ghi danh học nhạc với vị nhạc sĩ tài ba nói trên. Từ đây, con đường đến với âm nhạc của cậu học trò trường làng đã tìm được lối dẫn.

Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)
Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)

Anh Hoàng Tùng kể lại: “Khi còn sống, cha tôi thường kể cho tôi nghe về những năm tháng đầu tiên ông đến với âm nhạc. Tôi còn nhớ ông kể rằng vào một mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường. Ai đó đang chơi bài Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong. Những tiếng đàn, những nốt nhạc đó đã thôi thúc ông tiến đến gần hơn con đường âm nhạc”. Sau đêm định mệnh trên, anh thanh niên Hoàng Phương dốc tiền mua cây violon và ghi danh, nhận nhạc sĩ Lê Dinh làm thầy.

Tuy nhiên, có lẽ cảm thấy mình thích hợp hơn với chất lãng tử, phiêu du của một anh du ca, Hoàng Phương quyết định chuyển sang học guitar. Những tháng ngày đắm mình trong các buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè, nhạc sĩ Hoàng Phương luyện thêm chất giọng, chắt lọc thêm ca từ, điệu nhạc cho các ca khúc của mình. Đam mê, say đắm với âm nhạc một cách kỳ lạ nhưng người nhạc sĩ miệt vườn tài danh chưa một lần chọn con đường âm nhạc làm nghề nuôi thân. Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Cha tôi không lấy việc viết nhạc làm nghề nuôi thân. Thế nên, khi từ giã ghế nhà trường, ông về nhà mở tiệm sửa đồng hồ và sau này chuyển sang buôn bán ở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân”.

Tuy nhiên, tình yêu dành cho âm nhạc của ông vẫn không một ngày nguôi ngoai. Từ những sáng tác đầu tay, các tình khúc chất chứa tình yêu đời, yêu người, yêu quê hương, yêu biển của ông lần lượt ra đời. Đặc biệt, rất nhiều tình khúc của ông được lấy cảm hứng từ chính những mối tình của tác giả.

Tình khúc từ những mối tình chân thật

Năm 1968 đánh dấu sự chuyển mình của anh du ca lãng tử khi Hoàng Phương lên Sài Gòn tham gia vào ban nhạc cùng Vinh Sử, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Cũng chính năm này, ông sáng tác đứa con tinh thần đầu tiên và cũng là ánh sao thắp sáng mãi tên tuổi của người nhạc sĩ – nhạc phẩm Hoa sứ nhà nàng. Những ca từ, xúc cảm về một mối tình dở dang nhanh chóng chiếm được cảm tình thính giả. Anh Hoàng Tùng cho biết: “Nhạc của cha tôi đến từ những tình cảm chân thật, chân chất của một con tim yêu đời, yêu quê hương nồng cháy. Đặc biệt là tình khúc. Hầu như, những tình khúc của ông đều là những chuyện tình có thật của ông ngoài đời. Sinh thời, nhiều chú bác là những nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời cho rằng ca khúc Hoa sứ nhà nàng xuất phát từ mối tình thật của ông. Tuy nhiên, về chuyện này, tôi không nghe ông khẳng định. Là phận con, tôi cũng không dám nhiều lời”.

Theo anh, một trong nhiều tình khúc khác cũng xuất phát từ các mối tình của ông là nhạc phẩm Chiếc cầu chiều mưa. “Nhạc khúc này tôi được biết là khi ông với người tình của mình đi cùng một chiếc cầu trong chiều mưa. Mưa, cầu trơn, hai người ngã nhào. Thế mà ông lại lấy cảm hứng từ kỷ niệm ấy viết nên ca khúc trên”, anh Tùng cho biết thêm. Ngoài những nhạc phẩm trên, theo anh Hoàng Tùng, rất nhiều ca khúc khác được ông sáng tác dựa trên những xúc cảm chân thật từ những mối tình của mình. Anh chia sẻ: “Sinh thời, cha tôi tính tình phóng khoáng lại hào hoa, lãng tử nên cũng rất đa tình. Và những mối tình ấy đã chắp thêm cánh cho những sáng tác trong mảng đề tài tình yêu đôi lứa của ông”.

Tuy nhiên, ngoài ngợi ca tình yêu lứa đôi trong sáng với những cung bậc rất riêng, nhạc sỹ Hoàng Phương còn có một tình yêu đặc biệt với quê hương Gò Công, với biển. Năm 1986 đánh dấu sự trở lại của Hoàng Phương, đưa ông lên ngai vàng ông hoàng nhạc Gò Công với những nhạc phẩm: Trưa hè trên bãi biển; Chung một dòng sông; Gò Công hồng trang sử; Biển thức; Về nông trường Phú Đông; Tiếng chim mùa xuân; Nhà em đó bên kia sông; Biển Gò Công khi em đến; Chiều xuân qua thị trấn Gò Công; Ánh mắt quê hương; Khung trời quê; Khúc Cachiusa hát ở bên sông Tiền; Mỹ Tho thành phố cội nguồn; Mẹ Gò Công; Biển tím; Khung trời quê…

Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Năm đó, bộ Văn hóa cho lưu hành bản Hoa sứ nhà nàng của cha tôi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nghe đứa con tinh thần của mình được phát công khai, ông sướng run người. Như dòng sông được khơi lòng, ông lao vào sáng tác, hồ hởi sáng tác, sáng tác ngợi ca tình yêu, ngợi ca quê hương Gò Công, ngợi ca biển nơi gắn liền với tuổi thơ ông. Thời điểm này nhạc Gò Công đang trên đà đi lên và những sáng tác của ông đã tiếp bước cho nó bay cao hơn, xa hơn”.

Để những sáng tác của mình đến gần hơi thở cuộc sống hơn, gần hơn với nhịp sống của quê hương, ông tìm người thể hiện những ca khúc của mình. “Khi ấy toàn là người không chuyên nên các buổi biểu diễn ca khúc của cha tôi không mấy thành công. Mình không biết cách phối khí, hòa âm nên nghe không ra gì. Thương yêu bà con yêu mến nhạc của mình, cha tôi gác công việc, gom tiền lên TP.HCM tìm nhạc sĩ Quốc Dũng và Lê Hựu Hà. Họ phối khí hòa âm xong, ca sĩ Bảo Yến (vợ Quốc Dũng) hát thử. Thấy hay thế là thu băng cassette. Vậy là người ta ùn ùn đi tìm băng nhạc Gò Công”. Sau này, ông còn bỏ tiền túi ra mời ca sỹ về quê hát cho bà con nghe miễn phí”, anh Hoàng Tùng kể lại.

 

[footer]

Bolero chợ Nọ

Những ai đã từng trải qua thời sinh viên, rồi ở nhà trọ có lẽ không mấy xa lạ với những buổi tối bù khú bên bàn nhậu đơn sơ với vài ba đứa bạn thân. Nhiều khi mồi chỉ là dăm ba gói mỳ tôm mà đàn hát vui vẻ thâu đêm. Gần như là trong tất cả các dịp ấy, khi đã đàn hát qua hết các thể loại thì giai điệu bolero luôn là những bài cuối cùng. Trong niềm cảm xúc đó, [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại một bài viết của tác giả Phi Tân trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần ra ngày 13.09.2014.

“BOLERO CHỢ NỌ”

(Nguồn: tác giả Phi Tân viết trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

Hồi sinh viên, có lần cùng anh bạn ở cùng phòng ký túc xá đại học đạp xe về quê mình chơi. Trên đường từ Huế về làng, ghé vô cái quán cà phê chẹp chẹp ở chợ Tây Thành nghỉ chân và từ chiếc loa của quán giọng ca da diết của Quang Lê cất lên: “Đường xưa lối cũ, có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo. Đường xưa lối cũ có ánh trăng, ánh trăng soi đường đi. Đường xưa lối cũ có tiếng ca, tiếng ca trên sông dài. Đường xưa lối cũ có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru lòng ai”…Anh bạn là người thành phố vỗ đùi cái bép: “Tau nghe bài ni nhiều rồi nhưng chỉ có trong khung cảnh thôn dã như thế này nó mới thấm…”.

Hồi nhỏ mình nghe nói đến thứ nhạc vàng chi đó là loại nhạc cấm kỵ. Nhưng đã cấm thì tất sẽ có người nghe chui. Đầu xóm mình có nhà máy xay xát gạo của chú Khôi. Chú có cái máy cátxét nho nhỏ.

Lâu lâu vài ba người trong xóm tụ tập lại để nghe nhạc vàng. Mà mỗi lần nghe như rứa là chú Khôi phải nổ máy xay xát gạo lên kẻo lỡ ai đi ngoài đường nghe thấy đang mở nhạc thì khổ… Mà nghe lui nghe tới có hai cái băng và mấy bài hát nên mình cũng bập bõm ít lời: “Ai đang đi, trên đường đê, tai lắng nghe muôn câu hò đê mê. Vô đây em, dù trời khuya anh nhớ đưa em về…”.

Mình chỉ biết nhạc hay, dễ hát theo nên hỏi mấy người lớn: “Răng nghe nhạc mà ai cũng sợ sợ rứa?”. Chú Túy nạt: “Mi con nít biết cái chi, lần sau hỏi nữa tau đuổi ra khỏi đây…”.

Xóm quê mình hồi trước sống thiệt chan hòa. Ví như nhà ai có con heo tự nhiên lơ ăn phải mổ thịt là cả xóm cùng chia phần, mỗi người một ít đến mùa đong lúa, chia sẻ cái xui cho hàng xóm. Mỗi lần có dịp vui, cả xóm họp mặt làm vài chai xị đế.

Ôn Thắng là chủ tịch xã nhưng rất hòa đồng: “Uống rượu mà không hát hò thì uổng. Tui thì tui chỉ thuộc mấy bài hát kháng chiến nhưng mấy chú, mấy o cứ hát tự nhiên; bài chi hay, tình cảm nhẹ nhàng thì hát chớ đừng có ngại…”.

Rứa là đêm nớ xóm mình chơi bolero gần suốt sáng. Mà có đàn điếc chi mô, chỉ mấy cái muỗng gõ leng keng mà bài mô bài nấy vô ngọt dễ sợ.

Mình nhớ nhất đoạn chú Dũng hát: “Theo năm tháng hoài mong – Thư gởi đi mấy lần – Đợi hồi âm chưa thấy – Anh ơi nhớ rằng đây – Còn có em đêm ngày – Hằng thương nhớ vơi đầy…” mà o Thẻo mắt ngân ngấn nước, hát nhẩm theo chồng như nhớ về cái thời hẹn hò đã xa.

Hèn chi nhiều người nói: “nghe dạc mà dớ dau!” (nghe nhạc nhớ nhau) là ri đây…

Sao chưa thấy hồi âm (Châu Kỳ - Trương Minh Dũng. Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Sao chưa thấy hồi âm (Châu Kỳ – Trương Minh Dung. Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

sao-chua-thay-hoi-am--1--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Hồi trước thanh niên ở làng muốn đi gò gái thì phải lận lưng dăm ba bài bolero để giao lưu. Eng mô khô khan quá thì cũng cất lên được đôi ba câu kiểu: “Tôi với nàng hai đứa nguyện yêu nhau, tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu”.

Rứa mới có chuyện có eng đi gò không nói năng được chi cả, chỉ ngồi uống nước chè rồi dịp dịp (nhịp nhịp) chân mần đôi ba khúc bolero rứa mà em cũng xuôi lòng mới hay…

Thì mình đã nói rồi bolero là dạc để dớ dau (nhạc để nhớ nhau) dễ đi vào lòng người, phù hợp quang cảnh của làng quê, nó nói hộ lòng thành bằng những ngôn từ và giai điệu đơn giản nhất…

Nói thiệt, muốn khắc họa chân dung của một làng quê xứ Huế thì phải có nhạc bolero. Ở Huế có câu hay “bolero chợ Nọ”. (Chợ Nọ là một chợ nổi tiếng của làng Dương Nỗ, ven Huế thuộc Phú Vang) ý nói nhạc bolero là nhạc quê mùa.

Nhưng bolero cũng là nhạc của phố thị, những phố thị nghèo và buồn: “Buồn vào hồn không tên – Thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời – Đường phố vắng đêm nao quen một người – Mà yêu thương trót trao nhau trọn lời”.

Nhớ cái hồi cuối năm lớp 12, trong nhà mình chong đèn dầu học bài ôn thi đại học, ngoài xóm mấy thằng bạn đi tán gái về cứ lê thê: “Tuổi em cũng như hoa mới nở – Vạn người thầm mong được đưa đón chân em – Xót xa anh còn trắng tay hoài – Sách đèn nợ chưa dứt, nên lận đận truân chuyên” nghe buồn răng là buồn…

Yêu một mình (Trịnh Lâm Ngân). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Yêu một mình (Trịnh Lâm Ngân). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

yeu-mot-minh--1--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com yeu-mot-minh--2--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com yeu-mot-minh--3--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Hàng xóm mình có bác Chiu, nông dân thứ thiệt nhưng mê nhạc bolero như điếu đổ. Ngày mùa dẫn trâu đạp lúa không cần “tắc, ri, hò” mà cứ hát toàn nhạc bolero từ “Trăng rụng xuống cầu” đến “Em gái miền quê cuộc đời trong trắng” mà trâu cứ đi ngon ơ thiệt lạ…

Có lần mình về làng ngồi nhậu với mấy thằng bạn trong xóm rồi xin hát một bài nhạc Trịnh.

Nghe xong có thằng nói: “Tau không nói là bài mi hát không hay nhưng nó không hợp với cuộc nhậu ni! Không hợp với tụi tau, phải hát như ri nì: “Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng, ngày nao súng phải lạnh lùng. Nắng hạ vàng rưng rưng mây trắng. Ôi mây xóa tóc nghiêng nghiêng. Xin đa tạ người em bé bỏng mặn mà, người em bé bỏng thật thà. Nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai. Lời ai ru gió hiu hiu buồn…”.

Tiếng hát nghe não nề trong tiếng ghita bập bùng và cả tiếng gõ muỗng lanh canh hòa nhịp nhưng mà đúng là bài hát quá hợp với cuộc nhậu. Vừa nghe hát vừa tợp một ly rượu gạo nhấm nháp với món trìa xào khế chua mới thấy thấm làm sao…

[footer]

Hạ trắng (Trịnh Công Sơn)

Trong số khoảng 400 ca khúc của Trịnh Công Sơn thì những bản có tựa ngắn gọn gồm 2 từ như “Diễm xưa”, “Tình xa”, “Cát bụi”, v.v. là những bài theo Dòng Nhạc Xưa là đặc sắc nhất trong kho tàng âm nhạc đồ sộ của nhà nhạc sỹ. Trong bài viết “Diễm của những ngày xưa“, chúng tôi đã giới thiệu đối nét để người yêu nhạc xưa hiểu thêm về tình cảm giữa Trịnh Công Sơn và cô Ngô Thị Bích Diễm. Trong bài viết này, Dòng Nhạc Xưa trân trọng gởi đến quý vị bản “Hạ trắng” bất hủ.

Hạ trắng (Trịnh Công Sơn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hạ trắng (Trịnh Công Sơn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
ha-trang--1--trinh-cong-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
ha-trang--2--trinh-cong-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
ha-trang--3--trinh-cong-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

GIẤC MƠ HẠ TRẮNG
(Nguồn: trinh-cong-son.com)

Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một giàn hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó còn có gió Lào. Vừa tắm xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy tích lũy trong cơ thể đều tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần cũng có cảm giác như vừa rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42- 43 độ.

Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ trong người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Ðến lúc tỉnh dậy người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức.

Trong vùng tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết ngay người mang hoa đến là ai.

Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu. Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà cụ về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Tất nhiên, khi ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi phải không. Lúc ấy mọi người mới khóc òa lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình cơm không ăn, trà không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn.

Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau để viết nên bài “Hạ Trắng”.

Trịnh Công Sơn

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Hà Nội ơi!

Trong ký ức của cả một thế hệ những người rời xa miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, có lẽ giai điệu và ca từ của bản “Nỗi lòng người đi” luôn mãi là một cái gì đó không thể phai mờ,; đó vừa là một sự ray rức khi phải chia tay với mảnh đất có quá nhiều kỷ niện, vừa là một sự vỗ về an ủi trong những tháng ngày tha phương ở miền Nam. Trong nỗ lực để lưu lại những khoảng khắc khó quên của lịch dân tộc, [dongnhacxua.com] xin gởi đến quý vị nhạc phẩm “Nỗi lòng người đi” của nhạc sỹ Anh Bằng và một bài viết chân thực của tác giả Hà Tường Cát.

 

Nỗi lòng người đi (Anh Bằng). Ảnh: vietstamp.net
Nỗi lòng người đi (Anh Bằng). Ảnh: vietstamp.net

noi-long-nguoi-di--1--anh-bang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com noi-long-nguoi-di--2--anh-bang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com noi-long-nguoi-di--3--anh-bang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

NGÀY TÔI RỜI HÀ NỘI 60 NĂM TRƯỚC – KỶ NIỆM 60 NĂM DI CƯ
(Nguồn: tác giả Hà Tường Cát đăng trên nguoi-viet.com)

Hà Nội những ngày Tháng Tám, 1954 là khoảng thời gian mọi người đều bối rối, tất bật, và hoang mang với những gì sắp xảy đến. Còn tôi, người viết bài này, khi ấy còn là một chú bé mới lớn, đủ để biết được nhiều chuyện nhưng chưa thể cảm nhận và suy nghĩ về nhiều việc khác.

Ngã 5 trung tâm thành phố từ hồ Hoàn Kiếm đến phố Hàng Ðào không còn nhộn nhịp sau ngày Hiệp Ðịnh Geneva 20 Tháng Bảy, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)
Ngã 5 trung tâm thành phố từ hồ Hoàn Kiếm đến phố Hàng Ðào không còn nhộn nhịp sau ngày Hiệp Ðịnh Geneva 20 Tháng Bảy, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)

Tôi nhớ rằng hiệp định đình chiến ký kết ngày 20 Tháng Bảy ở Geneva không được đón mừng như sự khởi đầu của một giai đoạn hòa bình. Từ nhiều năm, tiếng “đại bác đêm đêm vọng về thành phố” đã là chuyện bình thường không làm mấy ai quan tâm lo lắng. Hệ thống đồn bót do quân đội Liên Hiệp Pháp thành lập làm vòng đai bảo vệ vùng đồng bằng sông Hồng, có thông lệ bắn yểm trợ lẫn cho nhau bằng ít phát trọng pháo vu vơ ngay cả khi không bị tấn công, mà chỉ nhằm mục đích răn đe đối phương hay tạo sự an tâm cho đơn vị bạn.

Giữa đất nước chiến tranh, Hà Nội là một hậu phương hoàn toàn thanh bình. Thời kỳ ấy hiếm có những cuộc đột kích vào thành phố hay nổ bom khủng bố. Chiến tranh chỉ xuất hiện gián tiếp bằng những đơn vị quân đội trở về hậu cứ nghỉ ngơi sau một chiến dịch dài. Lúc đó cái làm cho người dân e ngại là những chú “Tây say,” lính Lê Dương uống rượu đi lang thang phá phách trên đường phố. Tuy nhiên chuyện ấy chỉ xảy ra ở một số khu vực gần các doanh trại và tình trạng gây rối loạn ít khi lên tới mức độ trầm trọng.

Ðối với đám học sinh nhỏ chúng tôi thì chiến tranh là những hình ảnh lạ mắt, có thể là hấp dẫn như phim chiếu bóng. Buổi nào có giờ nghỉ học tình cờ, chúng tôi thường kéo nhau ra chơi ngoài bờ sông và từ trên đê cao thỉnh thoảng nhìn thấy máy bay thả lính nhảy dù xuống bãi tập ở phía xa bên kia sông Hồng.

Cảnh tiêu điều của Chợ Hôm, chợ lớn thứ nhì của Hà Nội sau chợ Ðồng Xuân. (Hình: Hà Tường Cát)
Cảnh tiêu điều của Chợ Hôm, chợ lớn thứ nhì của Hà Nội sau chợ Ðồng Xuân. (Hình: Hà Tường Cát)

Trong mấy tháng đầu năm 1954, tôi theo dõi được trận Ðiện Biên Phủ qua những chiếc máy bay. Những máy bay vận tải DC-3 Dakota của quân đội Pháp, sau này gọi là C-47, lên xuống phi trường quân sự Bạch Mai đều đặn hàng ngày lượn vòng trên phía Nam thành phố và bay qua nhà tôi cả ngày lẫn đêm. Tôi cũng quen để phân biệt được ngay cả các máy bay chiến đấu F6F Hellcat của hải quân và F8F Bearcat của Không Quân, thoạt nhìn rất giống nhau. 

Bay cao hơn ngang qua không phận Hà Nội là những chiếc máy bay oanh tạc B-26 của Không Quân Pháp và sau đó một vài chiếc PB4Y-2 Privateer của Hải Quân Mỹ cất cánh từ phi trường Cát Bi, Hải Phòng. 

Cũng là lần đầu tiên những chiếc “máy bay hai mình” Flying Box Car của Mỹ (C-119 của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa sau này) chở hàng thả dù xuống Ðiên Biên Phủ tiếp tế cho quân đội Pháp, thường xuyên bay ngang bầu trời Hà Nội mỗi ngày. Ngoài ra đám bạn học chúng tôi cũng thường rủ nhau đến bãi đất trống trước bệnh viện quân sự Ðồn Thủy để nhìn thấy tận mắt những chiếc trực thăng tải thương từ Ðiện Biên Phủ trở về khi cứ điểm này chưa bị siết chặt vòng vây. 

Bằng sự tò mò ham thích về các loại máy bay như thế, việc di cư vào miền Nam bằng đường bay được coi như một cơ hội vô cùng thú vị, chứ ở tuổi thiếu niên tôi chưa thể hiểu hay có quan tâm thắc mắc gì về tương lai. Có điều tôi không khỏi có nhiều lưu luyến với những nơi chốn, với nếp sinh hoạt đã quen và một số bạn bè thân ở lại miền Bắc. Thứ tình cảm ấy là do tuy còn bé, tôi đã có nhiều kỷ niệm về Hà Nội hơn những người cùng lứa tuổi. Là con một trong gia đình nên ông bố tôi đi đâu cũng dắt theo, chỉ dẫn tỉ mỉ về thành phố Hà Nội và làng mạc phụ cận, từ Nghĩa Ðô trong các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài thời tiền chiến cho tới làng Vòng nổi tiếng về làm cốm, Trại hàng hoa Ngọc Hà hay làng Nhật Tân chuyên trồng cành đào bán ngày Tết…

Thời gian ấy nhiều người vẫn tin rằng di cư vào Nam chỉ là một cuộc ra đi tạm thời, hai năm sau có tổng tuyển cử sẽ có thể trở về bình thường. Nhưng bố tôi bảo rằng sẽ còn lâu lắm hay không bao giờ trở về nữa. 
Tôi chẳng thắc mắc vì sao ông tin như vậy, và bây giờ chắc chắn hiểu rằng ông không thể nào mường tượng rằng tôi sẽ còn phiêu bạt xa hơn rất nhiều nữa.

Những ngày trước khi rời Hà Nội, tôi thường xách chiếc Kodak 6×9, kiểu máy chụp hình kéo ra như chiếc đàn phong cầm, đi chơi khắp thành phố để cố ghi lại những kỷ niệm. Ðó là những hình ảnh qua cặp mắt của một thiếu niên, nghĩa là rất trẻ con, không có trình độ diễn tả được những nét tiêu biểu trong sinh hoạt của một thành phố đang biến chuyển. 

Chợ Trời ở đường Hồ Xuân Hương gần hồ Thuyền Quang, nơi dân chúng chuẩn bị di cư bán đi các đồ đạc trong nhà, là khu vực đông đảo nhất Hà Nội vào Tháng Tám, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)
Chợ Trời ở đường Hồ Xuân Hương gần hồ Thuyền Quang, nơi dân chúng chuẩn bị di cư bán đi các đồ đạc trong nhà, là khu vực đông đảo nhất Hà Nội vào Tháng Tám, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)

Thành phố đông đúc hơn do dân chúng từ các tỉnh đồng bằng đổ về tìm đường di cư, nhưng sinh hoạt ở những khu phố buôn bán thì sút giảm không còn vẻ rộn rã thường ngày. Nơi tập trung nhộn nhịp nhất là khu vực gần hồ Thiền Quang phía Nam thành phố, một khu nhà dân, không có những cửa hàng thương mại nhưng có hè phố rộng. Nơi đây trở thành Chợ Trời (dân Bắc gọi là Chợ Giời) có lẽ là đầu tiên ở Hà Nội. 

Khác với chợ trời năm 1975 ở Sài Gòn, dân Hà Nội 1954 không có nhiều thứ đồ gia dụng nên hầu hết những món đem ra bán là đồ gỗ, bàn ghế, giường tủ và cả bàn thờ.

Tôi rời bỏ miền Bắc ngày 30 Tháng Tám, 1954, 40 ngày sau Hiệp Ðịnh Geneve và hãy còn thời gian hai tháng để ai muốn ra đi hay ở lại được quyền tự do chọn lựa. Bố tôi nói là đừng nên đi trễ quá, có thể gặp khó khăn và không giải thích gì thêm. Hầu hết những gia đình định di cư vào Nam đều giữ kín ý định cho đến ngày ra đi. Trái lại gia đình tôi thì không làm được điều ấy. Trong khoảng một tháng trước ngày đi, nhà tôi trở thành chỗ tạm trú của nhiều người quen từ Nam Ðịnh, Ninh Bình, Phát Diệm lên Hà Nội tìm đường ra đi. 

Ðến lúc ấy tôi mới dần dần hiểu ra rằng bố tôi là người có nhiều liên hệ với Việt Nam Quốc Dân Ðảng, chẳng biết là đảng viên hay thế nào, vì ông không bao giờ cho biết. Ông nói với con đủ mọi chuyện nhưng trước sau không bao giờ nói chuyện gì liên quan đến chính trị. Sau này khi tôi trưởng thành và ông đã già yếu cũng không khi nào ông tỏ ra thắc mắc với sinh hoạt của tôi và luôn luôn đồng ý về tất các việc gì tôi làm. Ðó là điều khiến tôi rất thân và quý mến ông bố mình.

Buổi tối trước ngày đi, gia đình tôi thuê một chiếc xe “ba gác,” kiểu như xe bò bánh gỗ nhưng do người kéo, chất đầy hành lý, đi đến nơi tập trung ở một trường tư thục nhỏ ngay giữa trung tâm thành phố. Tôi nhớ đã làm một việc dại dột là khi mọi người còn đang bận rộn thu dọn nơi tạm trú qua đêm thì lén ra ngoài và đi bộ chừng hơn một cây số trở về để nhìn lại căn nhà cũ.

Bà mẹ tôi chửi mắng nặng nề khi thấy tôi về sau khoảng một giờ vắng mặt đâu mất khiến mọi người đều sợ tôi “bị người ta bắt thì sao.” Như thường lệ, ông bố tôi bình thản can thiệp, nói rằng việc qua rồi không có gì lo lắng nữa. Nhưng nghĩ lại tôi mới cảm thấy hơi sợ, không phải vì cho rằng có ai muốn bắt mình, nhưng nhớ lại cảnh đường phố vắng lặng dù mới là chập tối, các nhà đều đóng cửa sớm, sinh hoạt khác hẳn bình thường trước kia.

Chúng tôi lên máy bay từ phi trường Gia Lâm và bay ngang thành phố thân thiết một lần chót cho tới gần 40 năm sau mới có lần thấy lại. Ðó là một máy bay vận tải C-46 hai động cơ cánh quạt chở được trên 50 người, nghĩa là gần gấp đôi loại C-47 quen biết hơn với mọi người. Thân máy bay ghi tên hiệu CAT (Civil Air Transport) có vẻ như một máy bay hàng không dân dụng, thật ra hầu hết sứ mạng của nó là những hoạt động bí mật. Ðây là kiểu máy bay gắn bó với chiến tranh Việt Nam sau này, thường không sơn chữ số và dấu hiệu gì trên thân, thi hành những phi vụ thả dù biệt kích, đồ tiếp liệu hoặc chuyên chở hàng hóa và nhân viên cho các cơ quan dân sự hay tình báo Hoa Kỳ.

Bố tôi (quần áo trắng đội mũ) đứng chờ danh sách di cư vào Nam tại sở học chính Bắc Việt, Hà Nội, cuối Tháng Bảy, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)
Bố tôi (quần áo trắng đội mũ) đứng chờ danh sách di cư vào Nam tại sở học chính Bắc Việt, Hà Nội, cuối Tháng Bảy, 1954. (Hình: Hà Tường Cát)

Qua khung cửa sổ máy bay là hình ảnh của những nơi sẽ trở thành rất thân thuộc với tôi trong hơn 30 năm kế tiếp, từ bờ biển, sông ngòi, núi rừng Trường Sơn cho đến các chiếc tàu biển trên dòng sông uốn cong bên thành phố Sài Gòn có những nhà mái ngói đỏ.

Tuy nhiên khác nhạc sĩ Vũ Thành và nhiều người ở thế hệ ông chỉ có “Giấc Mơ Hồi Hương,” sau này tôi có thể trở lại nơi cũ dù trong những hoàn cảnh và điều kiện khác với mong ước. Ðiều tình cờ chua chát là tôi trở về gần quê cũ, 23 năm sau cũng đúng vào ngày 30 Tháng Tám, trên đoàn xe chở “tù cải tạo” xuất phát từ trại T-20 đi ngược quốc lộ 1 về hướng Bắc. 

Lần thứ nhất tôi thực sự trở lại Hà Nội là năm 1989 khi làm việc trong văn phòng của một nhóm tư vấn đầu tư ở Sài Gòn, và được cử đi thương lượng cho một hãng Pháp có dự án mua lại các xe điện cũ ở Hà Nội để thay thế bằng xe bus. Năm ấy thành phố chưa thay đổi nhiều ngoại trừ một số cư xá mới xây cất cho cán bộ công nhân và những “chuồng cọp” trên các tầng lầu. Trong thời chiến tranh, dân Hà Nội ở những căn hộ do chính quyền phân phối cấp phát, tìm cách tăng diện tích bằng cách lấn ra ngoài các bao lơn được quây xung quanh bằng lưới sắt và họ đặt cho cái tên là “chuồng cọp.” Chưa phát triển theo đường lối kinh tế tư bản nên thành phố năm ấy còn sạch sẽ vì chẳng có nhiều hàng hóa tiêu dùng và rác.

Nhưng tới năm 2010 khi Hà Nội kỷ niệm “1000 năm Thăng Long” thì nhiều cảnh vật đã hoàn toàn khác. Ðường phố đầy người và xe cộ, nhất là xe máy hai bánh, hàng quán mọc lên vô trật tự khắp nơi và những nét cổ xưa chỉ còn rải rác len lỏi ở một đôi chỗ. Giống như Sài Gòn, Hà Nội có rất nhiều quán cà phê từ hạng sang trọng và đẹp cho đến những quán nằm trong các ngõ phố hay trên tầng lầu hiểm hóc. Ðó là nơi hấp dẫn du khách tò mò và người như tôi, muốn trao đổi tìm hiểu những khía cạnh sinh hoạt của người mới và người cũ.

Một buổi tối vào Cà Phê Giảng, tên quen thuộc của dân Hà Nội ngày xưa, bây giờ không còn là căn nhà nhỏ bé ở phố Cầu Gỗ mà là cửa hàng ba tầng lầu gần hồ Hoàn Kiếm, tôi có dịp ngồi nói chuyện với một nhóm sinh viên vừa mãn giờ học về. Họ không còn cắn hạt hướng dương bỏ rác đầy sàn mà phần lớn đều bận bịu với máy điện thoại di động trong tay. Tình cờ một cô bé nhận xét: “Bác nói tiếng Hà Nội chuẩn lắm.” Tôi bật cười hỏi lại theo em thế nào là chuẩn? Ðúng là có một thời gian người dân miền Nam, trong đó có tôi, cảm thấy thứ tiếng của dân “Bắc Kỳ 75” rất khó nghe. Nhưng rồi tôi thành thật giải thích với họ: “Chẳng có thứ tiếng Hà Nội nào là chuẩn. Thời vua Lý Thái Tổ 1000 năm xưa khác, thời Tây trước 1954 khác và sau này khác. Không có người Hà Nội truyền thống đâu, hầu hết họ là người từ những nơi khác đến thành phố làm việc ở mỗi thời kỳ của lịch sử. Như thế tôi coi giọng Hà Nội ngày nay không giống tôi mới là Hà Nội chuẩn.”

Tôi hiểu nhiều người sẽ không đồng ý với tôi về suy nghĩ ấy. Nhưng thời gian đem đến mọi thay đổi và muốn hay không muốn, phải chấp nhận thực tế là nói chuyện 60 năm cũ thì được, chứ người ta không thể trở lại với sinh hoạt của 60 năm hay 1000 năm trước.

[footer]

Thiên Thai (Văn Cao): Tiếng Ca Trù Trên Sông Hương

Đây là bài viết của tác giả Trác Như gởi cho [dongnhacxua.com] và thể hiện ý riêng của tác giả về nhạc phẩm bất hủ ‘Thiên Thai’ của nhạc sỹ Văn Cao. Xin cảm ơn sự quý mến của Trác Như dành cho [dongnhacxua.com] và xin mạn phép đăng lại để bạn đọc gần xa có thêm thông tin thú vị.

thien-thai--0--van-cao--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
Thiên Thai (Văn Cao). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

thien-thai--1--van-cao--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com thien-thai--2--van-cao--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

TIẾNG CA TRÙ TRÊN SÔNG HƯƠNG
(Nguồn: tác giả Trác Như gởi cho [dongnhacxua.com])

Năm 1940, một chàng trai Hải Phòng lưu lạc đến tận sông Hương ở Huế để rồi thai nghén một ý nhạc kéo dài cả mấy năm. Sông và núi ở Huế đã khiến Văn Cao mơ đến chốn tiên cảnh đã từng khiến hai chàng Lưu và Nguyễn quên cả lối về. Nguồn cảm hứng trên tưởng có lúc đã phôi pha  nhưng không ngờ lại trổi dậy khi người thanh niên 18 tuổi  trở về Hải Phòng và bất chợt nghe được điệu ca trù trên dòng sông Phi Liệt năm 1941. (1)
 
Ca khúc Thiên Thai chính thức được nhà xuất bản Tinh Hoa phát hành ở Huế năm 1944 (2). Tuy sông Hương là nguồn sữa nuôi nấng giấc mộng bồng lai, nhạc sĩ đã chọn điển tích Trung Hoa làm bối cảnh cho bài hát, và sau cùng thì thanh âm phong phú và lả lơi của các ả đào đất Cảng đã giúp cảm xúc ông chín mùi để hoàn tất tác phẩm cổ điển này.
 
Chưa hề được nghe giọng ca của Kim Tiêu, người nghệ sĩ đầu tiên trình bày bản này thuở chiến tranh chống Pháp, chỉ biết trong các thập niên 60 và 70, hai tiếng hát gắn bó với Thiên Thai nhất vẫn là Thái Thanh và Hà Thanh. Tiếng hát Thái Thanh là một cọ vẽ có khả năng diễn đạt đủ loại ánh sáng và gam màu khác nhau. Những chấn động trong cảm xúc mà Thái Thanh mang đến cho Thiên Thai rất tương xứng với sự đa dạng và tinh tế của nhạc phẩm này, như Phạm Duy đã từng phân tích: “Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure này qua chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều mầu sắc của khung cảnh thần tiên này”. (2)
 
Hà Thanh (trái) & Thái Thanh (phải). Ảnh: tác giả Trác Như.
Hà Thanh (trái) & Thái Thanh (phải). Ảnh: tác giả Trác Như.
Hà Thanh thì ngược lại: trầm lặng và nhẹ nhàng hơn. Hà Thanh cho thính giả cơ hội để có những suy diễn riêng tư. Khác với bức tranh lộng lẫy mà tiếng hát Thái Thanh tạo ra, phần trình bày của Hà Thanh dường như có thể dùng để minh họa cho quan điểm của Nguyễn Đình Toàn: “Cái thế giới thần thoại của cổ tích không phải chỉ được Văn Cao minh họa bằng những màu sắc tuyệt vời mà hình như ông còn tạo dựng bằng pha lê nữa. Mọi góc cạnh đều rắn, chắc. Màu sắc của nó còn có thể biến đổi tùy thuộc chủ quan của người thưởng ngoạn nữa.” (3) Cái đẹp của thiên thai trong trường hợp này là cái  đẹp của vô tướng và tại đây  hạnh phúc chính là sự vắng mặt của những ràng buộc và bi lụy. Một thế giới không nhơ không sạch, không có bắt đầu và cũng chẳng có kết đoạn.
 
Nếu như Thái Thanh là tiếng ca trù đã giúp Văn Cao cụ thể hóa Thiên Thai thì Hà Thanh, tiếng hát đã được nhà văn Mai Thảo gọi là  “tiếng hát trên trời cao” (4), là dòng Hương luôn hiện hữu để lặng lẽ nuôi sống cái cảm hứng thuở ban đầu của người nhạc sĩ này. Ca khúc Thiên Thai chính là kết quả của những tiếng ca trù trên dòng Hương Giang vậy.
 
Tuy đã hơn một lần ghé qua xứ Huế, tôi chưa từng đặt chân đến Hải Phòng, quê hương của Văn Cao, người đã từng gọi mình là “người sông Ngự”. Tuy vậy, tôi có cảm giác Hải Phòng là những gì đối ngược với Huế.  Một bên nồng cháy, một bên thơ thẩn. Một bên reo hò bên sóng biển, một bên ngồi nhìn dòng sông trôi lững lờ. Một bên đỏ rực phượng vỹ, một bên thầm thì những rặng thùy dương. Mỗi bên là một nửa của Thiên Thai, nuôi nấng cho nhau những giấc mộng của “ngày tháng chưa tàn qua một lần”.
 
(1)  “Văn Cao – Người đi dọc biển” – Nguyễn Thụy Kha
(2) Hồi Ký – Phạm Duy
(3) “Nhạc sĩ Văn Cao” – Nguyễn Đình Toàn
(4) “Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại”- casihathanh.wordpress.com
 
Trác Như
6/2014

[footer]

Phản đối Trung Quốc bành trướng trên biển Đông: Gần lắm Trường Sa

Mấy ngày gần đây, Trung Quốc lại ngang ngược đưa dàn khoan vào thềm lục địa của Việt Nam, một hành động leo thang trong nỗ lực thôn tính cả vùng biển Đông. Cũng như hàng triệu người có lương tri, nhất là những người con dân tộc Việt, [dongnhacxua.com] xin góp một tiếng phản đối thông qua một nhạc phẩm ra đời cách đây đã hơn 30 năm: ‘Gần lắm Trường Sa’ của nhạc sỹ Hình Phước Long.

ĐÔI NÉT VỀ BÀI HÁT ‘GẦN LẮM TRƯỜNG SA’ CỦA NHẠC SỸ HÌNH PHƯỚC LONG
(Nguồn: BaiCaDiCungNamThang.net)

Đã gần 30 năm trôi qua kể từ khi bài hát ra đời, nhưng giai điệu thân thương, quen thuộc bài hát “Gần lắm Trường Sa” của nhạc sĩ Hình Phước Long vẫn không bị lãng quên mà ngày càng đi sâu vào lòng người. Bài hát chẳng những là “bài ruột” của người lính Hải quân mà còn là bài hát được nhiều người trên khắp mọi miền Tổ quốc yêu thích. Và mỗi lần biển Đông “dậy sóng” thì giai điệu bài hát lại vang xa, càng nhắc nhở chúng ta luôn hướng về nơi ấy- nơi quần đảo xa xôi đang có những người lính ngày đêm chắc tay súng canh giữ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Nhạc sỹ Hình Phước Long. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net
Nhạc sỹ Hình Phước Long. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

Nhạc sĩ Hình Phước Long, sinh năm 1950, tại huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tỉnh Khánh Hòa quê ông ngoài thành phố biển Nha Trang xinh đẹp, còn là nơi đặt bản doanh của Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 4 với vịnh Cam Ranh nổi tiếng về vị trí chiến lược quân sự, nên ông có dịp chứng kiến nhiều hình ảnh cũng như hoạt động của lực lượng Hải quân Nhân dân.

Về hoàn cảnh ra đời bài hát ông cho biết: Trong một lần dự trại sáng tác được tổ chức tại TP Nha Trang, vào năm 1982 của thế kỷ trước, một chiều khi ông đạp xe dọc đường Trần Phú đã bất ngờ bắt gặp hình ảnh một cô gái mặc áo dài đang đứng dõi mắt về hướng biển khơi. Hình ảnh một người con gái đứng cô đơn giữa trời và biển trong ánh hoàng hôn dần buông, đã làm trái tim người nhạc sĩ xúc động thật sự và ông đã tự đặt cho mình câu hỏi: Phải chăng cô gái ấy có người yêu là lính Hải quân đang làm nhiệm vụ tận ngoài quần đảo Trường Sa và cô đang gửi nỗi nhớ thương của mình về phương trời xa xăm ấy?

Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa nằm cách Cam Ranh trên 459Km, nơi mà ông chưa từng đặt chân tới mà chỉ nghe kể lại rằng nơi ấy điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, chỉ có cây phong ba, cánh chim hải âu làm bạn với những người lính trong sóng cuồng, bão giật… Và từ hình ảnh bất chợt ấy, cảm thông với nỗi niềm của một tình yêu đôi lứa phải tạm xa nhau vì nhiệm vụ, một giai điệu mang hơi hướng dân ca đã chợt lóe lên trong đầu ông:

“Không xa đâu Trường Sa ơi! Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh/ Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em…”

Và với cảm xúc tuôn trào, không lâu sau đó ông hoàn thành bài hát “Gần lắm Trường Sa”, qua giọng hát của ca sĩ Anh Đào, trên sân khấu của đoàn Ca múa nhạc Hải Đăng và sau này của những ca sĩ nổi tiếng khác như Thanh Thúy, Long Nhật, Khánh Hòa… bài hát đã nhanh chóng lan tỏa khắp nơi. Dù lúc ấy chưa đặt chân đến Trường Sa nhưng những gì ông mô tả rất thật, rất gần gũi với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của những người lính đảo:

“Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương.
Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh gành trúc san hô.
Trường Sa ơi! Biển đảo quê hương, đôi mắt biên cương, vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão giật, đảo quê hương!”

Bài hát không chỉ thay lời một người con gái gửi lòng thương nhớ về người yêu là lính thủy mà là cả một hậu phương lớn đang ngày đêm cùng hướng về nơi ấy.

“Anh ơi có nghe lời người từ phố biển, khi ngọn triều dâng cao.
Khi cánh hải âu về, khi nắng sáng mùa, nơi gành trúc san hô.
Chiều Nha Trang, sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo, Trường Sa ơi!”

Đến năm 1984, nhạc sĩ Hình Phước Long mới có dịp theo đoàn ra thăm Trường Sa. Những người lính Hải quân đã được tận mắt chứng kiến và nghe chính tác giả hát bài “Gần lắm Trường Sa” cho các anh nghe. Đã gần 30 năm trôi qua kể từ khi bài hát ra đời, nhưng với giai điệu thân thương, quen thuộc, bài hát “Gần lắm Trường Sa” của nhạc sĩ Hình Phước Long ngày càng đi sâu vào lòng người. Bài hát chẳng những là “bài ruột” của người lính Hải quân mà còn là bài hát được nhiều người trên khắp miền Tổ quốc yêu thích. Và mỗi lần biển Đông “dậy sóng” do các âm mưu đen tối gây ra, thì giai điệu bài hát lại vang xa, càng nhắc nhở chúng ta luôn hướng về nơi ấy- nơi quần đảo xa xôi có những người lính đang ngày đêm chắc tay súng canh giữ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đến nay nhạc sĩ Hình Phước Long đã sáng tác 15 ca khúc về Trường Sa, nhưng có lẽ bài hát “Gần lắm Trường Sa” ông sáng tác năm 1982 đã góp phần làm cho Trường Sa- không xa, là một bài hát đưa tên tuổi nhạc sĩ sáng tác, lẫn ca sĩ thể hiện sống mãi với thời gian.

Anh Tiến (TP Vĩnh Long)

Gần lắm Trường Sa
Sáng tác: Hình Phước Long
Trình bày: Hoài Thanh

Mỗi cánh thư về từ đảo xa
Anh thường nói rằng: “Trường Sa xa lắm em ơi !”
Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội thân yêu
Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng, quanh đảo trúc san hô
Trường Sa ơi ! Biển đảo quê hương
Vẫn đứng hiên ngang giữa sóng cồn bão dạt, đảo quê hương
Canh giữ đêm ngày giữa biển khơi
Thương nhớ sao vơi người chiến sỹ Trường Sa ơi !

Không xa đâu Trường Sa ơi !
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em

Mong cánh thư về từ đảo xa
Nơi thành phố này Trường Sa vẫn bên em
Anh ơi có nghe lời người từ phố biển
Khi ngọn triều dâng cao, khi cánh hải âu về
Sóng vỗ điệp trùng quanh đảo trúc san hô
Trường Sa ơi ! Biển đảo quê hương
Vẫn thấy anh đang giữa sóng cồn giữ đảo, đảo quê hương
Canh giữ đêm ngày giữa biển khơi
Thương nhớ sao vơi người chiến sĩ Trường Sa ơi !

Không xa đâu Trường Sa ơi !
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em

[footer]

Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng) và niềm đam mê nhạc vàng nơi đất Bắc

Trong bài viết về nhạc phẩm có số phận long đong ‘Gửi người em gái miền Nam’, [dongnhacxua.com] có nhắc đến anh Nguyễn Văn Lộc, mà bạn bè hay gọi là Lộc ‘vàng’ vì anh là người đã khai trương quán Lộc Vàng, một trong những phòng trà trình diễn nhạc vàng đầu tiên trên đất Bắc. Cũng vì tình yêu nhạc vàng bất tận mà bản thân anh đã vướng vòng lao lý trong một vụ án chấn động miề Bắc ngày đó. 

YÊU NHẠC VÀNG: MÁU VÀ NƯỚC MẮT
(Nguồn: tác giả Nguyễn Tuấn Ngọc đăng trên Facebook)

Với nhiều người Hà Nội, vụ án Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước, họ vẫn chưa quên được. Người đàn ông Nguyễn Văn Lộc năm xưa trong vụ án này bây giờ là chủ quán Lộc vàng tại ven đường Hồ Tây.

Anh Lộc châm thuốc cho anh Toán "xổm" trước khi anh Toán mất. ảnh Nguyễn Đình Toán
Anh Lộc châm thuốc cho anh Toán “xổm” trước khi anh Toán mất. ảnh Nguyễn Đình Toán

Hồi đó anh Lộc và những người bạn vì quá mê nhạc tiền chiến nên đã thành lập nhóm nhạc để tụ tập hát nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – từ Linh, Đặng Thế Phong…và các nhạc sỹ miền Nam như Ngô thụy Miên, từ Công Phụng…Ngày 27/3/1968, nhóm nhạc anh bị bắt và tạm giam ở Hỏa lò 3 năm. Vào các ngày 6,7,8 tháng 1 năm 1971 Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên toàn xét xử gồm 7 thành viên. Tòa tuyên án Toán “xổm” 15 năm tù, Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù, anh Lộc 10 năm tù… Sau khi hiệp định Paris được ký kết, anh Lộc được giảm án xuống còn 8 năm tù . Năm 1976 anh ra tù.

Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc
Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc

Anh thương nhất là anh Toán “xổm” ra tù, mất hết tất cả, không nơi nương tựa, sống nhờ cậy bàn bè và sau đó anh nằm chết ở vệ đường vào năm 1994.

Anh Lộc tại quán Lộc vàng. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Lộc.
Anh Lộc tại quán Lộc vàng. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc.

Tôi chưa nghe người nào hát nhạc phẩm: gửi người em gái của Đoàn chuẩn- từ linh hay bằng anh. Một giọng hát quá trữ tình và sâu lắng. Anh đã hát đúng bản gốc của tác phẩm này, vì anh cho biết nhạc phẩm đang được thu âm và hát lại bây giờ đã bị thay lời quá nhiều, nhất cả khi các ca sỹ hải ngoại hát.

Hàng ngày, người đàn ông này vẫn hát lại những ca khúc củ của một dòng nhạc đã đi qua bầu trời văn nghệ Việt Nam với biết bao trầm luận. Nó cũng giống như số phận của anh Lộc khi trót mang kiếp cầm ca.

[footer]

Giang hồ Sài Gòn đi vào nghệ thuật

Tiếp nối dòng văn nghệ về thế giới ngầm của Sài Gòn ngày trước, [dongnhacxua.com] xin đăng lại một bài viết trên VietnamNet.vn để úy vị có nhiều thông tin hữu ích.

CHUYỆN GIANG HỒ SÀI GÒN ĐI VÀO NGHỆ THUẬT
(Nguồn: VietnamNet.vn)

Thực ra, không phải bây giờ đất Sài Gòn, nay là TP.HCM, mới có nhiều tội phạm. Từ xa xưa, Sài Gòn được ví von là “Hòn ngọc viễn Đông” là lãnh địa làm ăn của giới tội phạm cả nước tập trung về đây.

Trước năm 1975, có thể xem là thời điểm “thịnh” nhất của tội phạm xã hội. Hồi ấy, người ta gọi chúng là “giang hồ”, “du đãng”…

Từ hảo hán thời loạn đến tội phạm

Thế giới giang hồ Sài Gòn, có thể tạm phân chia làm 3 giai đoạn lớn kéo dài gắn bó với những biến cố lịch sử của nước ta.

Thời Pháp thuộc, đã manh nha xuất hiện tầng lớp tội phạm cướp giật, quậy phá ở nhiều địa phương.

Sài Gòn lúc đó đang trong giai đoạn mới hình thành, là đô thị mới, kinh tế – thương mại phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất ở Đông Dương.

Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn
Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn

Bởi vậy, Sài Gòn không chỉ là “đất lành” cho những người có ý chí làm ăn, tìm cơ hội thay đổi cuộc đời mà cũng là ‘đất sống” cho giới tội phạm quy tụ về “làm ăn”, giành giật lãnh địa, thanh toán nhau. Nhiều nhân vật du đãng có tiếng tăm được chính quyền thời bấy giờ trọng dụng, như Bảy Viễn…

Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ, có tổ chức tinh vi, chặt chẽ là giai đoạn từ những năm 60 đến năm 1975. Bằng những trận thư hùng đẫm máu, thế giới giang hồ Sài Gòn đã định hình thế “tứ trụ” do 4 băng nhóm nổi tiếng thống lĩnh, sử sách gọi nhóm “tự trụ” này bằng cái tên mỹ miều du nhập từ Hong kong “Tứ đại thiên vương” là Lê Đại (Đại Cathay) – Huỳnh Tỳ – Ngô Văn Cái – Nguyễn Kế Thế.

4 “đại vương” này chia nhau cai quản thế giới ngầm Sài Gòn một thời gian dài. Trong đó, băng của Đại Cathay dù sinh sau đẻ muộn nhưng nổi đình nổi đám nhất, đến mức như huyền thoại.

Tương truyền, Đại Cathay đã dám tung quả đấm như trời giáng vào bụng của Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – sau này là trung tướng, phó tổng thống, thủ tướng Việt Nam cộng hòa trong vũ trường – chúng tôi sẽ nói rõ ở những phần sau.

Chế độ Việt Nam cộng hòa thời kỳ bấy giờ phải đối phó vô cùng vất vả. Có những lúc giữa quân cảnh và giới giang hồ phải bắt tay nhau để “chung sống”.

Vì bản tính ngông nghênh, Đại Cathay đã bị tiêu diệt. 3 “đại vương” còn lại vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày giải phóng miền Nam. Chúng đã bị chính quyền Cách mạng trừng phạt, dẹp triệt để, đem lại bình yêu cho nhân dân TP.HCM.

Lịch sử giang hồ Sài Gòn ngoài “tứ đại thiên vương” còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Bạch Hải Đường, Điềm Khắc Kim, Quý “tử hình” (anh ruột Lai anh và Lai em, 2 tên bị tử hình trong vụ án “Năm Cam và đồng bọn”), anh em võ sĩ Hồng Cương- Hồng Trực cai quản khu Cô Bắc – Cô Giang v.v…

Trương Văn Cam, tức Năm Cam đã có mặt trong thế giới giang hồ Sài Gòn vào những năm 1964 – 1965. Tuy nhiên, y chỉ là vô danh tiểu tốt, nương tựa vào ông anh rể là Bảy Si, lúc này đã có số má.

Lúc ấy không ai có thể biết trước rằng 30 năm sau Năm Cam sẽ trở thành ông trùm xã hội đen trên đất Sài Gòn.

Lúc ấy, Lâm chín ngón đã là tay chân thân tín của Đại Cathy, gặp Năm Cam không thèm ngó bằng nửa con mắt.

Có lẽ Năm Cam cũng không thể nghĩ có ngày hắn lại ngồi “chiếu trên” với bậc đàn anh cao vời vợi như Lâm chín ngón.

“Thành tích” lớn nhất của kẻ vô danh Năm Cam lúc bấy giờ là cứu Huỳnh Tỳ chạy thoát trong một cuộc đấu súng với lính dù…

Sau ngày giải phóng miền Nam, những chiến dịch của lực lượng Công an TP.HCM từ năm 1975 đến những năm 1980 đã xóa sổ cơ bản các thủ lĩnh khét tiếng và làm tan rã nhiều băng nhóm giang hồ còn sót lại. Những kẻ cầm đầu đều bị pháp luật trừng trị.

Tuy nhiên, như những loài cỏ độc, trên mảnh đất Sài Gòn – TP.HCM luôn phải đối phó với nạn lưu manh, cướp giật lúc rộ lên, lúc lắng xuống.

Những băng nhóm quy mộ như thời trước 1975 không còn đất sống thì xuất hiện nhiều băng nhóm nhỏ lẻ luôn là thách thức với lực lượng công an TP.

Vụ Năm Cam là bài học không thể quên vì sự sơ hở, mất cảnh giác đã để sống dậy tổ chức tội phạm quy mô, mang đậm chất tội phạm mafia, không còn phảng phất chất “du đãng”, “giang hồ” như trước kia.

Giang hồ đi vào …nghệ thuật

Ông trùm mafia Ý ở đảo Sicin trở thành bất hủ khi thành nhân vật chính trong tác phẩm Bố già (The Godfather) nổi tiếng của nhà văn Mỹ gốc Ý tên Mario Puzo.

Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn
Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn

Tác phẩm sau đó được dựng thành phim cũng nổi tiếng không kém. Nhân vật chính Don Vito Corleone trong phim là hiện thân của ông trùm tên Don Vito Cascio Ferr di cư từ Ý qua Mỹ những năm đầu thế kỷ 20, đã gây dựng nên tổ chức maphia đầu tiên trên xứ cờ hoa.

Ở Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng đã lấy nguyên mẫu một tội phạm ngoài đời đi vào tác phẩm “Bỉ vỏ”. Đây là tác phẩm văn học đầu tiên ở nước ta viết về thế giới giang hồ ở đất Hải Phòng.

Thế nhưng, tội phạm trong thế giới giang hồ thông qua thế giới nghệ thuật, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp trẻ là hiện tượng có một không hai lại xảy ra ở Sài Gòn trước năm 1975.

Đó là băng giang hồ của Đại Cathay cũng các quân sư và người tình đều trở thành những nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm nổi tiếng ở miền Nam thời bấy giờ.

Tác phẩm “Điệu ru nước mắt” của nhà văn Duyên Anh lấy nguyên mẫu trùm Đại Cathay làm nhân vật chính, được thi vị hóa thành kẻ giang hồ hào hoa, lãng tử.

Tương truyền, trong quá trình cuốn “Điệu ru nước mắt” được viết, Đại Cathay đã cung cấp thuốc phiện và khách sạn yên tĩnh cho nhà văn.

Tuy nhiên, sách ra đời, dù bán rất chạy nhưng Đại Cathay không hài lòng vì vài tình tiết không được như ý, nhà văn Duyên Anh phải trốn lên Đà Lạt sống một thời gian.

Đại Cathay ngoài đời tuy không được ăn học nhưng có đội ngũ quân sư là những trí thức, nghệ sĩ có tên tuổi giúp và băng nhóm của y bớt vẻ cục súc, độc ác như băng ba tàu Huỳnh Tỳ, Hoàng Cái Thế… Quân sư Hoàng là một nhạc sĩ ghi-ta cũng là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Vết thù trên lưng ngựa hoang”.

Tác phẩm này nổi tiếng đến mức được dựng thành phim. Nhạc sĩ tài ba Phạm Duy đã phổ nhạc bài hát cùng tên cho bộ phim này.

Lệ Hải, người tình của Đại Cathay là nhân vật xuất thân từ nhà giàu, theo tiếng gọi giang hồ đã chọn thế giới này làm lẽ sống. Cuộc tình ngắn ngủi giữa Đại Cathay và Lệ Hải được giới giang hồ đồn đại đẹp như bài thơ tình lãng mạn.

Sau đó, người đẹp Lệ Hải qua tay bao nhiêu đấng mày râu khác, có kẻ là trí thức giang hồ, có kẻ là anh hùng hảo hán và có cả …nhà thơ!

Bài hát “Loài yêu nữ mang tên em” do ca sĩ Elvis Phương trình diễn nổi tiếng một thời xuất thân từ bài thơ của nhà thơ Văn Mạc Thảo: “Ta gọi tên em là yêu nữ – Là loài yêu mị gái hồ ly” được nhạc sĩ Ngọc Chánh phổ nhạc.

Nữ văn sĩ nổi tiếng ăn khách Lệ Hằng cũng vào cuộc, từ nhân vật Lệ Hải đã viết nên tiểu thuyết “Bản tăng gô cuối cùng” xuất bản nhiều lần trước năm 1975!

Ngoài những người trong băng Đại Cathy lên sách, tiểu thuyết, thơ và phim thì các nhân vật khác như Điềm Khắc Kim, Bạch Hải Đường là những nhân vật trong các vở cải lương cùng tên. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Hùng Cường, Minh Vương đã vào vai tướng cướp Bạch Hải Đường.

Tuy nhiên, cần nói thêm, nhân vật tướng cướp Bạch Hải Đường trong vở cải lương và ngoài đời cách nhau rất xa!

Duy Chiến

[footer]

Hoa trắng thôi cài trên áo tím (Kiên Giang – Huỳnh Anh)

Tiếp nối dòng nhạc Huỳnh Anh, [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến quý vị nhạc phẩm ‘Hoa trắng thôi cài trên áo tím’, phổ từ bài thơ cùng tên của thi sỹ Kiên Giang.

hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--0--kien-giang--huynh-anh
Hoa trắng thôi cài trên áo tím (Huỳnh Anh – Kiên Giang). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--1--kien-giang--huynh-anh hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--2--kien-giang--huynh-anh hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--3--kien-giang--huynh-anh

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ VÀ NHẠC: HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên Thanh Niên 14/11/2011)

Nhà thơ Kiên Giang - Ảnh: Đào Trung Phụng
Nhà thơ Kiên Giang – Ảnh: Đào Trung Phụng

Hơn nửa thế kỷ trước, bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím của nhà thơ Kiên Giang ra đời (1958) đã làm xôn xao dư luận một thời. Bài thơ còn được biết đến nhiều hơn khi được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc. 

Kiên Giang là nhà thơ, soạn giả cải lương (tác giả các vở tuồng Áo cưới trước cổng chùa, Sơn nữ Phà Ca…), nhà báo – chứng nhân còn sót lại của sự kiện “Ngày ký giả đi ăn mày” (xảy ra vào năm 1974, báo giới miền Nam xuống đường với nón lá, bị, gậy của dân “cái bang” để chống đối chính quyền Thiệu ra sắc luật đàn áp báo chí)… Người viết chơi thân với ông đã gần hai mươi năm nhưng muốn gặp ông thật khó bởi ông luôn dịch chuyển (rất giống với ông bạn thân cùng lứa, cùng làng là nhà văn Sơn Nam).

Năm nay 84 tuổi, mái tóc đã gội tuyết sương đến bạc trắng nhưng nếu có ai hỏi về thời niên thiếu, về Sơn Nam, về Nguyễn Bính (người thầy dạy Kiên Giang làm thơ khi ông mới 17 tuổi) và nhất là về người con gái trong bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím là ông kể một mạch bằng một giọng bùi ngùi, không hề đứt đoạn, làm như những chuyện đó đã thấm vào máu thịt của ông…

“Thuở ấy anh hiền và nhát quá …”

17 tuổi, anh học trò Trương Khương Trinh (tên thật của Kiên Giang) rời vùng quê Rạch Giá lên Cần Thơ học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) ở Trường trung học tư thục Nam Hưng. Vốn là người có hoa tay: vẽ vời và viết chữ rất đẹp (đến bây giờ chữ của ông vẫn rất lả lướt) nên ông được các thầy cô giáo cho thực hiện một tờ báo (chép tay vào cuốn vở học trò) lấy tên là Ngày xanh. Tờ báo này là đối trọng, giao lưu với tờ Thắm của Trường trung học Ba Sắc, cũng nằm trên địa bàn. Cứ vào chủ nhật mỗi tuần, các cô cậu “nhà báo – học trò” lại quây quần trong một vườn xoài xanh um bóng mát để thực hiện tờ báo. Kiên Giang biên tập bài vở và trình bày (vẽ, trang trí…), còn cô bạn Nguyễn Thị Nhiều thì chép bài vở (có lẽ chữ cô này đẹp hơn chữ của Kiên Giang!).

Tuy mang cái tên rất dân dã nhưng Nhiều rất đẹp với mái tóc dài ôm xõa bờ vai, thỉnh thoảng vờn bay trong gió. Mái tóc ấy, khuôn mặt ấy đã khiến tâm hồn non trẻ nhưng rất lãng mạn của chàng trai sau này trở thành nhà thơ… tơ vương. Gia đình nàng theo đạo Thiên Chúa nên mỗi sáng chủ nhật nàng thường đi lễ nhà thờ Cần Thơ. Kiên Giang không theo đạo nhưng sáng chủ nhật nào cũng “rình” trước cổng nhà thờ để được “tháp tùng” nàng trên đường đi lễ về. “Yêu nhau” chỉ có vậy: ngoài những cái liếc mắt và những nụ cười thẹn thùng, e ấp thì hai người chẳng còn thứ gì để “trao đổi” nữa cả. Tuy thế, cả hai đều cảm nhận được những tình cảm sâu kín mà họ dành cho nhau. Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, kéo dài suốt 9 năm (1945-1954), việc học hành bị gián đoạn, trường lớp tan tác… Kiên Giang và bạn bè thân thiết (Nguyễn Bính, Sơn Nam…) vào Khu 8 tham gia kháng chiến, và rồi ông lập gia đình trong thời gian này.

Bài thơ và thủ bút của nhà thơ Kiên Giang tặng người viết
Bài thơ và thủ bút của nhà thơ Kiên Giang tặng người viết

“Để nghe khe khẽ lời em nguyện”

Sau này, nhiều lần Kiên Giang tâm sự với người viết: “Điều xót xa (sau này mới biết) là trong những tháng ngày loạn lạc đó, Nhiều vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Năm 1955, nàng quyết gặp mặt tôi một lần rồi mới lấy chồng. Tình cảm cứ ám ảnh tôi khôn nguôi. Tôi đưa hình ảnh và tâm sự của hai đứa vào bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, làm tại Bến Tre năm 1958. Ở đoạn kết có những câu: “Ba năm sau, chiếc xe hoa cũ/Chở áo tím về giữa áo quan/Chuông đạo ngân vang hồi tiễn biệt/Khi anh ngồi kết vòng hoa tang…”, tôi đã “cho” người mình thầm yêu phải chết đi, để mối tình kia còn nguyên vẹn là của riêng mình. Tuy nhiên, một thời gian sau tôi có dịp gặp lại cố nhân ở Sóc Trăng (lúc này nàng đã có chồng). Sau cuộc gặp gỡ đó, không hiểu sao tôi lại muốn mình (người bạn trai trong bài thơ) chết để bảo vệ quê hương, để không còn vương vấn mối tình thuở học trò. Tôi đã sửa lại đoạn kết như thế ở Hàng Xanh (Gia Định), nhưng hầu như bạn đọc chỉ thích giữ nguyên tác, nhất là khi nó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc thì bài thơ lại càng nổi tiếng, lan tỏa. Có lần tôi thú thực với bà xã về cái ấn tượng “sắc hoa trắng – màu áo tím”. Từ đó không có màu tím trong tủ áo nhà tôi nữa…”.

Trong thơ là thế nhưng sự thật ngoài đời chẳng có ai chết cả. Năm 1977 họ lại có dịp gặp nhau. 33 năm đã trôi qua kể từ “Thuở ấy anh hiền và nhát quá/Nép mình bên gác thánh lầu chuông/Để nghe khe khẽ lời em nguyện/Thơ thẩn chờ em trước thánh đường…”, bây giờ gặp lại, hai mái đầu đã bạc. Cả hai cố tránh không nhắc nhớ về cái thời cùng học dưới mái trường Nam Hưng, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn trân trọng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.

Kiên Giang kể lại, đầu năm 1999 Hãng phim truyền hình TP.HCM (TFS) thực hiện một bộ phim tài liệu về ông mang tên Chiếc giỏ đời người (Kiên Giang đi đâu cũng kè kè một chiếc giỏ, mặt ngoài vẽ chi chít chữ – NV), trong kịch bản có một cảnh quay tại Cần Thơ. Khi ông và ê kíp làm phim đến nhà “người xưa” mời bà Nhiều ra quay cảnh ở nhà thờ chính tòa thì thấy ngôi nhà đóng cửa, lạnh ngắt. Người hàng xóm cho biết bà Nhiều đã qua đời năm 1998. Ông thật xót xa… Hôm sau ông trở lại, cô con gái của bà Nhiều kể rằng lúc bà mất, tang gia có gửi thiệp báo tin cho ông nhưng tiếc là ông đã không nhận được để tiễn biệt người xưa lần cuối thực sự chứ không phải tiễn biệt như trong thơ. Rồi ông cùng người con gái của bà ra nghĩa trang viếng mộ. “Người xưa” bây giờ chỉ còn là di ảnh trên bia mộ, nhưng người con gái đứng bên ông thì lại giống cô Nhiều ngày trước lạ lùng…

Cũng cần nói thêm, năm 2002 người viết đã có giới thiệu (và đăng) bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím trên Báo Thanh Niên. Hôm đó, các sạp báo ở Sài Gòn không còn tờ Thanh Niên nào sót lại, rất nhiều người (có cả những anh chạy xe ôm, xích lô…) đã đến tận tòa soạn để hỏi mua. Ở Cần Thơ cũng “cháy báo”, không còn đủ số lượng cung cấp cho bạn đọc (hồi đó ở Cần Thơ Báo Thanh Niên chưa được in cùng lúc với nhiều chỗ như bây giờ), tòa soạn ở TP.HCM phải in thêm, đưa xuống tặng bạn đọc. Kể như thế để thấy rằng bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím được công chúng miền Nam yêu thích như thế nào.

Hà Đình Nguyên

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM: MỘT BÀI THƠ, HAI ĐOẠN KẾT
(Nguồn: CauLacBoTinhNgheSi.net)

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM của thi sĩ Kiên Giang là một bài thơ rất quen thuộc với người Việt Nam và đã được phổ nhạc; gần đây nhất là bài Chuyện Tình Hoa Trắng do ca sĩ Như Quỳnh trình bày. Gọi là một bài thơ nhưng thật sự có đến hai bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím hay đúng hơn, một bài thơ với hai đoạn kết hoàn toàn trái ngược nhau. Cả hai bài đều hiện hữu song song và cùng nổi tiếng, tuy ít có người để ý đến sự việc bất ngờ này. Ngày nay, xem phim trong các dĩa DVD ta thường thấy có thêm phần “Alternate Ending”, một kết cục khác của phim mà vì lý do nào đó nhà đạo diễn đã phải bỏ đi, không sử dụng khi đưa cuốn phim ra phát hành chính thức.

 Nghi vấn chính của bài viết là tại sao ông Kiên Giang đã làm như vậy và trên một khía cạnh, đã đi trước các đạo diễn Hollywood bao nhiêu năm trời. Nhiều người vẫn thắc mắc và gần đây, một nhóm bạn trong chương trình Cây Mùa Xuân đã gặp gỡ và ủy lạo các nghệ sĩ cổ nhạc nghèo khó… Trong chương trình đó, một người trong nhóm ở Việt Nam đã gặp ông Kiên Giang hỏi về nghi vấn này và được bác cho biết như sau:

… Hồi đó, có một anh chàng học sinh nọ, tên Trinh, quê ở tận miền Rạch Giá lên trọ học tại Sài Gòn, học cùng lớp với cô nữ sinh tên là Nguyễn Thị Thúy Nhiều, người ở Sóc Trăng. Thuở đó, chàng là học sinh khá giỏi về Văn nhưng lại yếu về môn Toán, tình bạn của họ rất trong sáng, có xen lẫn tình yêu thơ mộng, những khi chàng bí Toán thì hay nhìn sang để “copier” nàng. Lúc là sinh viên, chàng là cây bút của một tờ báo, còn nàng, tuy gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thể làm gì thêm. Thế là chàng dùng tiền nhuận bút chia sẻ cho nàng. Tình yêu, tình bạn thơ mộng đó kéo dài suốt quãng đời sinh viên của hai người tại đất Sài Gòn. Hai người còn có lời hứa sống chết có nhau.

Sau khi chia tay tại Sài Gòn, chàng ở lại làm nhà văn, nhà báo, soạn giả… Nàng về quê đi dạy học và đợi chờ ngày sum họp. Thời gian thấm thoát trôi qua, hoàn cảnh đổi thay nên chàng đã thất hứa, đi lấy vợ… Được tin, nàng buồn khổ vô cùng và sau đó rất lâu nàng mới chịu lấy chồng. Nghịch cảnh chăng (?) hay vì nàng quyết định chọn mà chồng của nàng cũng tên Trinh.

Một thời gian sau, anh chàng Trinh thất hứa, nay là trưởng toán của một đoàn nghệ thuật lớn, lưu diễn và gặp lại nàng. Chàng có đến thăm cô Thúy Nhiều và đã viết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím thứ nhất để gọi là “tạ lỗi” vì đã thất hứa trong tình yêu. Trong bài này, người con gái mất đi để lại trong lòng người trai một nỗi buồn khôn nguôi như lòng của anh Trinh sinh viên với mối tình cũ. Ngoài ra chàng còn gởi hai vé hát mời vợ chồng cô Thúy Nhiều đi xem. Tuy nhiên, người chồng của cô rất ghen nên hai người đã không đến xem buổi trình diễn của đoàn hát của chàng sinh viên xưa.

Vì hận lòng hay hận đời, Trinh đã sửa lại đoạn kết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím. Lần này Trinh cho chàng trai trong bài thơ bị chết và người con gái suốt đời ôm mối hận tình, khóc người yêu cũ… để trả thù việc vợ chồng cô đã từ chối lời mời xem hát của anh. Đến đây chắc các bạn cũng đã biết anh chàng Trinh sinh viên kia chính là ông Kiên Giang (tên thật là Trương Khương Trinh, bút hiệu khác Hà Huy Hà, sinh ngày 17-2-1929 tại Rạch Giá).

Nhà thơ Kiên Giang công bố ảnh người yêu xóm đạo. Ảnh: cand.com.vn
Nhà thơ Kiên Giang công bố ảnh người yêu xóm đạo. Ảnh: cand.com.vn

Còn cô Nguyễn Thị Thúy Nhiều đã mất. Những người con của cô đều rất thành danh trong nghề nghiệp và cuộc sống, có người là giáo sư. Riêng về người chồng của cô Thúy Nhiều, ông này là người rất ghen nhưng lại có vợ lẽ. Ông vẫn còn sống với người vợ sau. Thời gian sau này, lúc cô Thúy Nhiều còn sống, ông chồng vì ân hận mình phụ bạc vợ, đã có đến nhà thờ đi bằng đầu gối để xin lỗi vợ mình.

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
(Tâm tình của người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo – Bến Tre, 14-11-1957)

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh

Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường

Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẻ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhnhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

***

Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng

***

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường

Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ

Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu

***

Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Nhưng khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường

Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!!!

Bài 2:

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
(Gia Định, 28-05-1958)

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh

Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần Chúa Nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường

Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ tthẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

***

Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ vật ban đầu

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng

***

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường

Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù

Nhưng rồi người bạn cùng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi

***

Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc… tiễn người ngàn thu
Từ đây, tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa!!!

[footer]