Đoàn Chuẩn – nhạc sỹ của mùa thu

Đoàn Chuẩn | Từ Linh || 20/04/2013 | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

([dongnhacxua.com]) Dù sáng tác không nhiều (khoảng 20 bản hoặc ít hơn) nhưng Đoàn Chuẩn (viết riêng hay viết chung với Từ Linh để thành Đoàn Chuẩn – Từ Linh) được xưng tụng là “nhạc sỹ của mùa thu trong tân nhạc Việt Nam”. Điều này thể hiện qua hai yếu tố: hầu hết sáng tác của Đoàn Chuẩn – Từ Linh là về mùa thu hoặc có liên quan đến mùa thu và nhất là những nét nhạc ấy quá xuất sắc đã vẽ nên một nét “thu quyến rũ” rất đặc trưng Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin trích đăng lại một bài của tác giả Lê Hữu trên trang HocXa.com

Tôi thực tình không rõ là “mầu xanh ái ân” trong câu hát “Có mầu nào không phai như mầu xanh ái ân…” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh (ĐC-TL) có đúng là không hề phôi phai cùng năm tháng; thế nhưng, tôi biết chắc một điều là hình ảnh tà áo màu xanh thắm cùng những nét nhạc trữ tình ấy thật khó mà phai mờ trong tâm tưởng của rất nhiều người. Tôi cũng không rõ là cảnh trí mùa thu đất Bắc đã quyến rũ ĐC-TL đến đâu để viết nên câu hát “Mùa thu quyến rũ anh rồi”; thế nhưng, tôi biết một điều khá rõ ràng là những bản tình ca mùa thu thật êm dịu của hai chàng nghệ sĩ đa tình ấy đã thực sự quyến rũ biết chừng nào những người yêu nhạc của hơn một thế hệ.

Tuổi trẻ tôi ngày ấy, cho dù chỉ ở vào lứa tuổi mới biết yêu thôi, cũng đã từng có những phút giây để lòng mình lắng xuống, thả hồn vào thế giới âm nhạc lãng đãng của những sáng “mong chờ mùa thu”, của những “phong thư ngào ngạt hương”, của những “xác pháo bên thềm tản mác bay” và những mối tình dở dang hẹn “chờ nhau đến kiếp nào…”

HAI CHÀNG NGHỆ SĨ, MỘT MỐI TÌNH THU

Đoàn Chuẩn (trái) và Từ Linh thời trẻ. Photo: chungta.com

Đoàn Chuẩn hay Từ Linh, Từ Linh hay Đoàn Chuẩn, ai là người thực sự đã viết nên những khúc nhạc tình làm rung động trái tim người nghe ấy? Hai người cùng viết chung hay chỉ một người viết (người kia chỉ đứng tên cho vui vậy)? Bài nào viết chung, bài nào viết riêng? Bài nào của người này mà không phải của người kia? Tại sao cũng bài nhạc ấy, khi thì ghi tên người này, khi lại ghi tên người khác? Người này viết nhạc, người kia viết lời, có phải vậy?… Những câu hỏi không có lời giải đáp hoặc có những lời giải đáp không giống nhau (của những người tự nhận quen biết tác giả hoặc am hiểu chuyện ấy).

Trong số những nhạc phẩm của ĐC-TL được các nhà phát hành nhạc Tinh Hoa và An Phú in lại ở miền Nam trước năm 1975, hai cái tên này có khi được tách riêng, chẳng hạn “Tà áo xanh”, “Lá thư”, “Lá đổ muôn chiều” được ghi là của Từ Linh, “Chuyển bến” được ghi là của Đoàn Chuẩn. Không rõ các nhà phát hành ấy đã dựa trên những căn cứ nào để đánh rơi một trong hai cái tên, và chứng cứ ấy liệu có xác thực(?).

 Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên một tờ báo ở trong nước (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, tháng 10/1995), nhạc sĩ Đoàn Chuẩn cho biết là ông đã ký tên ĐC-TL cho bài nhạc đầu tiên của ông. (Từ Linh là em một người bạn khá thân của ông Đoàn Chuẩn. Ông rất quý mến cậu em này và xem như bạn vậy). Bài nhạc ấy và cái tên ấy được nhiều người yêu thích, và thế là từ đấy về sau ông cứ ký tên chung như vậy cho những bài nhạc tiếp theo.

Tôi cũng được trông thấy ông Đoàn Chuẩn trong một băng ghi hình (năm 1997), và người ta cũng hỏi ông những câu hỏi nhiều người muốn biết. Tiếc rằng ông không thể trả lời được. Giọng nói của ông khi ấy chỉ còn là những lời thều thào một cách khó khăn, và chân trái ông bị liệt vì chứng áp huyết cao (bà Đoàn Chuẩn cho biết như vậy). Người trả lời thay cho ông là bà vợ yêu quý, có khuôn mặt và dáng vẻ phúc hậu, cho biết là “Tất cả những bài nhạc ông Chuẩn làm, thường là ông và chú Từ Linh vẫn có trao đổi với nhau”, mà không giải thích rõ “trao đổi” nghĩa là sao (bàn soạn, đặt lời, góp ý, nhận xét phê bình, khen chê hay dở, đề nghị thêm bớt, sửa đổi…?). Chữ nghĩa của người miền Bắc đôi lúc không dễ hiểu. Về “nhân vật” Từ Linh (ngoài vài tấm ảnh đen trắng mờ mờ chụp chung với Đoàn Chuẩn thuở cả hai còn phong độ, đến nay vẫn cứ là dấu hỏi lớn), bà Đoàn Chuẩn cũng không cung cấp thêm được tin tức mới mẻ nào, ngoài việc cho biết hai chàng nghệ sĩ này là đôi bạn tri kỷ, vẫn thường hàn huyên tâm sự rất là tương đắc, có khi hàng giờ không biết mệt, và “Ngày chú Từ Linh mất, ông Chuẩn có ở cạnh giường cho đến lúc chú ấy đi…”

Có vẻ bà Đoàn Chuẩn cũng không biết gì nhiều lắm về sự nghiệp sáng tác của ông chồng mình nên chỉ tiết lộ qua loa một vài điều (mà nhiều người cũng đã biết), chẳng hạn ông Đoàn Chuẩn rất là say mê âm nhạc, lúc nào cũng kè kè cây đàn bên cạnh, và “Tình nghệ sĩ” là sáng tác đầu tay từ thuở ông còn cắp sách đến trường. Bà cũng thổ lộ rằng “Không để ý lắm đến những bài nhạc ông Chuẩn làm”, và mãi đến năm 1987, khi nhạc Đoàn Chuẩn được cho phổ biến lại ở trong nước, bà mới có cơ hội được… thưởng thức đầy đủ những bài nhạc ấy.

Vậy thì Đoàn Chuẩn hay Từ Linh, biết ai là ai đây? Cứ theo như lời nhạc sĩ Đoàn Chuẩn được ghi lại trong bài phỏng vấn ấy (nếu được ghi lại trung thực) và các câu trả lời của bà Đoàn Chuẩn (không được rõ ràng, đầy đủ lắm) thì có vẻ như là Đoàn Chuẩn (tên đầu trong cái tên ghép chung ấy), chứ không phải Từ Linh, nhiều phần là tác giả chính, là nhân vật chính đã viết nên những tình khúc nổi tiếng được nhiều người yêu nhạc biết đến dưới cái tên “Đoàn Chuẩn-Từ Linh”. Ông Từ Linh là người có “trao đổi”, có “tham gia” đôi chút vào việc biên soạn những tình khúc ấy… Từ Linh lại qua đời trước Đoàn Chuẩn (năm 1987, nghe đâu vì bệnh ung thư cổ). Người chết thì chịu không thể lên tiếng gì được, nên mãi đến nay người ta vẫn chẳng biết gì nhiều về ông, ngay cả chuyện ông có phải là nhạc sĩ, có biết soạn nhạc hay không, hoặc chỉ biết thưởng thức và bình phẩm về âm nhạc, đặc biệt là âm nhạc của ông bạn Đoàn Chuẩn, nghĩa là chỉ khiêm tốn đóng vai Chung Tử Kỳ mà thôi. Thực hư thế nào, chẳng ai biết được!…

 Buồn thay và cũng trớ trêu thay, năm ông mất cũng là năm những nhạc phẩm của ĐC-TL được ký giấy phép cho phổ biến lại ở trong nước, vì thế không chắc là ông có đã dịp nào để nghe được những bài nhạc mà nếu ông không dự phần vào việc sáng tác thì cũng ít nhiều liên hệ. Ít ra thì Đoàn Chuẩn cũng may mắn hơn ông chút đỉnh (dù khá muộn màng) là “thân bại” nhưng “danh chưa liệt”, vào những năm tháng cuối đời còn được người đời đến gõ cửa xin phỏng vấn ít câu. Còn Từ Linh, vì ít có ai biết rõ về ông, cũng chẳng ai kịp phỏng vấn, hỏi han gì đến ông như là Đoàn Chuẩn nên ông không có được cơ hội nào để bộc lộ. Ông chỉ như chiếc bóng mờ nhạt bên cạnh Đoàn Chuẩn.

Ngay đến những tin tức về năm tháng ông Từ Linh từ biệt cõi đời này cũng khá mơ hồ và không được đồng nhất, tin thì nói ông mất năm 1987, tin khác lại nói ông mất năm… 1992 (chênh lệch đến năm năm chứ ít sao!). Thành thử, ông Từ Linh này đến với cuộc đời thật âm thầm, mà ra khỏi cuộc đời cũng thật lặng lẽ, không ai biết chẳng ai hay!… Về những tin khác, chẳng hạn Từ Linh di cư vào Nam năm 1954 cũng chỉ là “nghe vậy thì biết vậy”, và nếu đúng như thế thì chắc phải có lý do gì đó mới khiến ông im hơi lặng tiếng kỹ như vậy, không muốn cho người đời biết mặt biết tên. Ông quả là con người nghệ sĩ có lai lịch rất mù mờ và đạt thành tích khá cao về mai danh ẩn tích.

Đoàn Chuẩn hay Từ Linh, Từ Linh hay Đoàn Chuẩn, ai tài hoa hơn ai? Nếu chỉ căn cứ vào những tấm ảnh hai chàng chụp chung với nhau thời còn trai trẻ thì Đoàn công tử có nhiều phần đẹp trai hơn, nhưng chàng nào trông cũng có vẻ “nghệ sĩ đa tình” cả. Phong lưu hơn, chắc phải là Đoàn Chuẩn, vì chàng là công tử con nhà giàu. Thân mẫu chàng, góa phụ từ thời còn xuân sắc, một tay gây dựng cơ đồ, tạo được sản nghiệp lớn là hãng nước mắm “Vạn Vân” nức tiếng thời ấy (nghe chẳng có chút gì… văn nghệ và lãng mạn cả), vẫn được truyền tụng trong câu “Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”. Một trong những bài nhạc đầu tay của Đoàn Chuẩn, “Ánh trăng mùa thu” (nghe được qua giọng hát Thái Thanh), đã dành nguyên trang bìa sau của bản nhạc (1953) để quảng cáo hãng nước mắm Vạn Vân.

Chàng nghệ sĩ Đoàn Chuẩn được nuông chiều hết mực và ăn xài rộng rãi, thả giàn. Một trong những cái thú chơi của chàng thời đó là sưu tập… xe hơi, một mình chàng có đến sáu bẩy chiếc ô-tô mới toanh. Theo nhạc sĩ Phạm Duy cho biết, “đã vài lần được trông thấy công tử họ Đoàn lái chiếc xe Ford mui trần kiểu Frégatte mầu trắng đi học đàn…” Cả Bắc kỳ thuở ấy chỉ có được hai chiếc bóng loáng thì chàng và ngài thủ hiến chia nhau mỗi người một chiếc, và chàng cũng lấy làm tự hào về điều đó lắm. (Chắc là chàng cũng ít nhiều tiếc nhớ thời vàng son ấy nên trong “Đường về Việt Bắc” mới có câu “Tiếc đời gấm hoa ta đành quên”). Chàng được nuôi cho ăn học đàng hoàng, không rõ có học tới nơi tới chốn, chỉ biết là môn học mà chàng say mê nhất là âm nhạc, và chàng cũng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm và hạ uy cầm. (Một trong những người thầy có uy tín của chàng là nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, tác giả “Giáo đường im bóng”). Vừa đẹp trai, vừa con nhà giàu, lại vừa tài hoa lẫn phong lưu rất mực như vậy, chắc hẳn cánh “bướm đa tình” là chàng đã phải mặc sức mà “đùa vui trên muôn hoa, bên những bông hồng đẹp xinh” của Hà Thành hay thành phố Cảng, chứ đâu có lý nào chàng lại than thở “thuyền tình không bến đỗ người ơi” và thở than “đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi”, nghe mà thảm sầu!…

Sự nghiệp sáng tác âm nhạc của ĐC-TL cũng khá khiêm tốn, được đâu khoảng chục bài nhạc, từ năm 1948 đến 1956, kể từ bài đầu tiên được trình làng là “Tình nghệ sĩ”, nhưng cũng đủ để lại những dấu ấn đậm nét và được người đời mãi nhắc tên. Có người còn kể thêm ra một danh sách cũng đến gần chục bài nữa, gọi là những sáng tác của Đoàn Chuẩn chưa hề được phổ biến, không rõ có đúng vậy và cũng chẳng biết đâu mà kiểm chứng. Thực ra ai cũng biết, điều đáng nói đâu có phải là ở số lượng, một chục hay mấy chục bài được viết ra, mà là những bài nhạc nào đã đến được và ở lại được trong lòng người yêu nhạc.

Tất nhiên, như hầu hết các nhạc sĩ sáng tác khác, không phải tất cả những bài nhạc ĐC-TL viết ra đều hay, đều là “tuyệt phẩm” như nhiều người vẫn gọi… Những bài như “Cánh hoa duyên kiếp”, “Gửi người em gái” (hay “Gửi người em gái miền Nam”)… tuy có hay nhưng nhạc điệu và lời hát cũng không sánh được với những bài trước đó. Điều rõ ràng là, sau ngày nhạc sĩ Đoàn Chuẩn qua đời, người ta vẫn hay làm công việc giới thiệu lại những tình khúc gọi là “tiêu biểu” của hai ông, được hiểu là những bài hay nhất, được nhiều người yêu chuộng nhất, những bài kể trên ít được nhắc đến… Ngoài những bài nhạc được phổ biến từ trước, những bài khác nữa nếu có, cũng ít người biết đến, ít được giới yêu nhạc chú tâm và tán thưởng.

Tôi có được nghe qua ít bài nhạc được giới thiệu là sáng tác của Đoàn Chuẩn những năm về sau này, qua giọng hát của vài ca sĩ tên tuổi, nhưng vẫn không nghe ra được cái xao xuyến, không bắt gặp được cái rung động “đoàn chuẩn-từ linh” như mỗi lần nghe lại những bài quen thuộc trước đó. Trong số những “tuyệt phẩm” ấy, có bài cả nhạc lẫn lời nghe qua thấy tầm thường, không thấy “Đoàn Chuẩn” đâu cũng chẳng thấy “Từ Linh” nào trong đó cả, tựa như những mặt hàng sản xuất được dán vào cái nhãn hiệu nhiều người ưa chuộng, nhưng người tiêu dùng vẫn cảm thấy không đúng là mặt hàng mình yêu thích. Lại có những bài không rõ xuất xứ và người tìm ra nó có lẽ đã đánh rơi đâu mất cái tựa, nên phải gán cho nó cái tên khác, “Vĩnh biệt” hay “Xin vĩnh biệt” gì đó (ngụ ý đây là nhạc phẩm cuối cùng của nhạc sĩ trước khi nhắm mắt xuôi tay). Sau đấy chắc thấy không ổn (bài hát được “phát hiện” là sáng tác năm 1953, còn quá sớm để… “vĩnh biệt”), bèn đổi ra cái tựa khác là “Bài ca bị xé” cho có vẻ… gay cấn, ly kỳ. Rồi sau đấy chắc nghe hơi… kỳ kỳ bèn đổi lần nữa là “Vàng phai mấy lá” cho có vẻ… Trịnh Công Sơn hơn (cũng từa tựa, gần gần với những “Vàng phai trước ngõ”, “Chiếc lá thu phai” của nhạc sĩ họ Trịnh), trong lúc ai cũng hiểu là thuở ấy làm gì có cái lối đặt tựa kiểu “Hoa vàng mấy độ”, “tóc xanh mấy mùa”… như thế. Nội dung bài hát vay mượn câu chuyện tình éo le ngang trái trong truyền thuyết xa xưa để giải bày nỗi niềm (vốn là sở trường của Phạm Duy, Văn Cao hơn là ĐC-TL)… Có vẻ như là các bài nhạc ra đời những năm về sau này chỉ với tên Đoàn Chuẩn không thôi (mà không có Từ Linh bên cạnh) không phải là những bài nhạc hay như những bài nổi tiếng từng được nhiều người yêu thích ngày trước.

Trở lại với cái tên ấy, Đoàn Chuẩn hay Từ Linh, Từ Linh hay Đoàn Chuẩn, hai tên hay một tên, thiết nghĩ cũng đâu có gì phải hoài công tìm hiểu, vì chính người viết ra cái tên ấy cũng chẳng hề bận tâm, cũng chẳng xem chuyện gì là quan trọng. Cứ xem như một cái tên cũng được vậy, có sao đâu. Hai tên đã như một tên gọi đầy tình thương mến và ngưỡng mộ đối với người yêu nhạc. Người đời vẫn cứ nói “Bài hát ấy là của Đoàn Chuẩn-Từ Linh”, chứ không nói “… là của Đoàn Chuẩn và Từ Linh”. Tác giả của những bản tình ca đó đã muốn ghép chung hai cái tên ấy thành một, vậy thì ta cũng nên tôn trọng, cũng nên hiểu như vậy mà xếp hai cái tên ấy nằm kề bên nhau, gần lại với nhau. Hơn thế nữa, một khi đã xem “mối tình nghệ sĩ” chỉ “như giấc mơ” thôi và đã từng có những lúc quay lưng “lạnh lùng mà đi luyến tiếc thêm chi”, thì có sá gì một cái tên mà hai chàng chẳng “gửi gió cho mây ngàn bay”

(Những giai thoại về hai chàng nghệ sĩ này có khá nhiều, chẳng biết đâu là hư là thực, chẳng biết đâu mà kiểm chứng, và phạm vi bài này cũng không có ý định tìm hiểu tính cách xác thực của những giai thoại ấy. Sau cùng có lẽ nên nói như nhạc sĩ Phạm Duy, “Trừ phi chính Đoàn Chuẩn viết ra những lời phủ nhận, Từ Linh vẫn không phải là người được ghép tên vào ca khúc.”).

Từ Linh (trái) và Đoàn Chuẩn khi về già (1980 ?). Photo: phanquocuy.vnweblogs.com

Kể ra trong lịch sử âm nhạc và trong số những nhạc sĩ tên tuổi của chúng ta, thật hiếm thấy có đôi nhạc sĩ nào gắn bó với nhau thân thiết và tri kỷ đến như vậy. Khi cùng gắn bó với mùa thu, với những mối tình dang dở, hai chàng cũng đồng thời gắn bó với nhau; khi cùng yêu một mầu áo, cùng yêu một cung đàn, hai chàng cũng cùng chung một mối tình.

MÙA THU QUYẾN RŨ ANH RỒI

Cuốn video tape ca nhạc ấy cũng chẳng có gì đặc biệt lắm, thế nhưng có một đoạn phim ngắn không tới một phút, giới thiệu một trong những tình khúc của ĐC-TL, cứ làm tôi nhớ mãi. Một người ngồi trong căn phòng mờ mờ tối, chậm chạp đứng dậy, chậm chạp bước những bước nặng nhọc về phía cửa, chậm chạp đặt nhẹ bàn tay lên nắm cửa. Cánh cửa từ từ mở ra, chút ánh sáng lùa vào. Một vòm trời, một chiếc lá rơi. Không gian ấy không rõ là buổi sáng hay buổi chiều. Người đàn ông đứng quay lưng, không nhìn rõ mặt. Người ấy là ông Đoàn Chuẩn. Bài hát được giới thiệu là “Gửi gió cho mây ngàn bay”.

Với bao tà áo xanh, đây mùa thu…

Câu nhạc đầu nghe như bàn tay kéo nhẹ tấm màn cửa mở ra khung trời bát ngát màu xanh, bát ngát mùa thu. Mùa thu của ĐC-TL.

Trước và sau ĐC-TL cũng đã có nhiều nhạc sĩ viết về mùa thu, và có nhiều ca khúc khá hay về mùa thu nữa, thế nhưng mùa thu trong nhạc ĐC-TL vẫn như có khí hậu riêng, không gian riêng, khiến người nghe nhận ra những khác biệt. Mùa thu ấy không chỉ thật đẹp, thật quyến rũ, mà còn là mùa thu của những chuyện tình “yêu một sớm, nhớ nhau bao mùa thu”

Thực ra, đâu phải chỉ có mùa thu, trong nhạc ĐC-TL ta nghe cả bốn mùa. Qua những lời nhạc trữ tình, ta như nghe được những đổi thay của thời tiết, của khí hậu từng mùa. Những mùa màng của đất trời, hay mùa màng của tình yêu, hay mùa màng của đời người. Thế nhưng nhiều nhất vẫn cứ là mùa thu. Hầu như không có bài nhạc nào của hai chàng nghệ sĩ ấy lại không bàng bạc ít nhiều tình thu, ý thu, lại không phảng phất chút hương thu dịu nhẹ. Có khi là cụm mây lững lờ trôi về cuối trời, là cơn mưa làm rụng lá vàng, là cánh hoa tàn tạ trong đêm tối, hay nỗi tiếc nhớ những mùa thu không trở lại…

Có rất nhiều lá vàng trong mùa thu của ĐC-TL, và lá vàng rơi không làm sao đếm hết.

Lá vàng từng cánh rơi, từng cánh…

(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)

Mưa rơi làm rụng lá vàng…

(“Thu quyến rũ”)

Thôi thế từ nay như lá vàng bay…

Lá thu còn lại đôi ba cánh…

(“Lá đổ muôn chiều”)

Lá thu lìa cành nhớ hoa ngàn xưa…

(“Tình nghệ sĩ”)

Những chiếc lá lìa cành mà hai chàng gọi là “những cánh đời mong manh” hay là “nước mắt người đi”. Trên những dòng nhạc ấy, chỉ thấy những hoa rơi, lá rơi, và những chuyện tình buồn vời vợi….

Mùa thu có đẹp nhưng sao nghe cứ man mác buồn! Thực ra đâu có riêng gì mùa thu, mùa nào trong nhạc ĐC-TL cũng có vẻ buồn cả. (Mùa xuân mà “lá vẫn bay…”, vẫn “hoa mai rơi từng cánh trên đường…” thì đâu có vui gì!).

Nhưng tại sao lại là mùa thu? Có phải vì mọi chuyện khởi đầu từ mùa thu…

Ta quen nhau mùa thu / ta thương nhau mùa đông

ta yêu nhau mùa xuân…

(“Tà áo xanh”)

Nhớ tới mùa thu năm xưa

gửi nhau phong thư ngào ngạt hương…

(“Lá thư”)

Và kết thúc cũng vào mùa thu…

Để mùa thu lá vàng khóc tình ta…

(“Vàng phai mấy lá”)

Nhưng một sớm mùa thu / khép giữa trời tím ngắt

nàng đi gót hài xanh…

(“Gửi người em gái”)

Chuyện tình mùa thu để lại nhiều hối tiếc.

Thu nay vì đâu tiếc nhiều

Thu nay vì đâu nhớ nhiều…

(“Thu quyến rũ”)

Mùa thu ĐC-TL đẹp như bài thơ. Có khi chỉ trong một bài nhạc, “Cánh hoa duyên kiếp” chẳng hạn, ta nhặt ra được những câu thơ viết về mùa thu thật là đẹp, tưởng như hai chàng nhạc sĩ bỗng nhiên nổi hứng, bỏ nhạc quay sang làm thơ vậy.

Yêu một sớm / nhớ nhau bao mùa thu…

Tình em như mây trong mùa thu bay rợp lối…

Trong hương thu màu tím buồn… (cũng tựa như “màu thời gian tím ngát” trong thơ Đoàn Phú Tứ).

Mùa thu ĐC-TL đẹp như tranh vẽ. Có khi chỉ là những nét chấm phá.

Hàng cây đứng hững hờ

Lá vàng từng cánh rơi từng cánh

(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)

Có khi là cảnh trí đầy mầu sắc, bầu trời trong xanh, bướm hoa và chim chóc.

Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay… (như sợ làm “vỡ” mùa thu)

Trời đất kia ngả mầu xanh lơ

Đàn bướm kia đùa vui trên muôn hoa

bên những bông hồng đẹp xinh

(“Thu quyến rũ”)

Làm sao có thể vẽ được bức tranh sinh động ấy, làm sao có thể bắt được những rung động của thiên nhiên ấy nếu không có một trái tim thật là nhạy cảm. Người nghe tưởng nghe được cả tiếng thở nhẹ của mùa thu, tưởng thấy được cả không gian lắng đọng của đất trời vào thu, tưởng chạm tay vào được cả vạt áo dài lướt thướt của mùa thu, và như ngất ngây trong khoảnh khắc “dìu thế nhân dần vào chốn thiên thai” ấy.

Nàng thu của ĐC-TL mang vẻ đẹp tự nhiên, không trang hồng điểm phấn, không tô vẽ màu mè, như thể trời cho thế nào thì cứ bày ra như vậy. Nàng thu ĐC-TL mang vẻ đẹp đơn sơ, nhưng cũng thật mơ màng và tình tứ, quyến rũ và mời mọc.

Những chữ “thế nhân”, “trần gian”, “đường trần”, “tình trần”, hoặc “người đời”, “nhạc đời”… vẫn hay được ĐC-TL đưa vào trong lời nhạc như thể hiện ước muốn kéo lại gần hơn những giấc mơ xa vời và hoang tưởng của con người. “Mộng nữa cũng là không”…, câu ấy đâu phải hai chàng chỉ nói với chính mình mà còn muốn nhắn nhủ với “người đời”. Nhà phê bình Đặng Tiến đã có sự so sánh và đưa ra lời nhận định, “Đoàn Chuẩn-Từ Linh đã đưa Thiên Thai về đây với thu trần gian, trong khi Văn Cao phải lên tận cõi Đào Nguyên.”

Tôi vẫn cho rằng “Thu quyến rũ” là một trong những bài hát hay nhất nói về mùa thu. Những nốt nhạc mềm mại rót xuống ở cuối câu hát “Mùa thu quyến rũ anh rồi” nghe như chiếc lá vàng lìa cành nhẹ rơi trong không gian tĩnh lặng của mùa thu.

Thu quyến rũ” phải được nghe bằng giọng nam chứ giọng nữ thì ít thấy… quyến rũ, nhất là khi lời nhạc bị đổi thành “Em mong chờ mùa thu” hoặc “Mùa thu quyến rũ em rồi” thì không thấy… mùa thu ĐC-TL ở đâu cả! Cũng chẳng có gì là sai quấy, chỉ có điều trước giờ người ta vẫn nghe ĐC-TL là nghe “Anh mong chờ mùa thu” hoặc “Mùa thu quyến rũ anh rồi”. Hơn thế nữa, “Tà áo xanh nào về với giấc mơ” ở đây nhất định không phải là tà áo xanh của… chàng về trong giấc mơ của nàng, vậy thì “Mầu áo xanh là mầu em trót yêu” nghe cũng hơi… sường sượng. (Dù sao vẫn còn khá hơn là “Khi nào anh đến với em, xin đừng quên chiếc áo xanh…”!)

Nghe nhạc ĐC-TL là nghe mùa thu kể chuyện tình, là nghe những lời tự tình ngọt ngào hay buồn bã của những người yêu nhau và xa nhau. Những chuyện tình như mang theo cả khí hậu của mùa thu ấy, đẹp và buồn.

Mùa thu trong nhạc ĐC-TL không có cái buồn ủ rũ, ảo não của “Mây hắt hiu ngừng trôi…/ mưa giăng mù lê thê…” như “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong, cũng không có cái buồn se sắt, rã rượi của “Năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần…” như “Buồn tàn thu” của Văn Cao, cũng không có cái buồn tái tê, sướt mướt của “Nước mắt mùa thu khóc cho cuộc tình…” như “Nước mắt mùa thu”, hoặc “Mùa thu đã chết / đã chết rồi / em nhớ cho…” như “Mùa thu chết” của Phạm Duy… Mùa thu ĐC-TL có buồn nhưng chỉ là cái buồn phảng phất, nhẹ nhàng như chìm lắng trong mơ, như được bao phủ trong màn sương lãng đãng, đượm chút thi vị ngọt ngào trong từng cánh lá thu màu vàng úa và trong hương thu màu tím buồn. Mùa thu ấy có vẻ gần với cái buồn mênh mang trong “Thu vàng” của Cung Tiến hay “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hơn.

Mùa thu ĐC-TL mang vẻ “cổ điển”, nhưng là cái vẻ cổ điển muôn đời muôn thuở của thiên nhiên, của đất trời, của hàng cây khô trụi lá, của cụm mây thu lờ lững, của bóng trăng thu mơ màng…, tất cả đều nhuốm một vẻ buồn man mác khi “mùa thu buông áo xuống phương này” (1).

Mùa thu ĐC-TL là mùa “thu trần gian”, là thu của bốn mùa, là thu của những chuyện tình, và chắc chắn không giống, không phải là mùa thu “cách mạng” như những chuyển hướng sáng tác của không ít những nhạc sĩ ở cùng thời để cố gắng bắt kịp những đổi thay hay đáp ứng những yêu cầu của tình thế. Tất cả những thứ đó không vào được trong mùa thu và trong dòng nhạc của ĐC-TL.

Mặc cho những biến động, những xoay vần của thời cuộc, mặc cho bao nhiêu là vật đổi sao dời, bao nhiêu là tang thương dâu bể, đất trời vẫn cứ bốn mùa, mùa thu của ĐC-TL vẫn cứ ở lại, và cũng chính vì thế, chính điều này đã khiến mọi người yêu thêm những dòng nhạc, yêu thêm những “mùa thu đoàn chuẩn-từ linh”.

[footer]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *