Người Em Văn Khoa (Châu Kỳ)

Đại học Văn Khoa Sài Gòn (nay là Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng) từ lâu đã đi vào thơ nhạc. Bao nhiêu con tim của biết bao thế hệ, dù không còn ngồi ở giảng đường Văn Khoa nhưng với họ, mỗi lần ghé thăm, mỗi khi nhớ về, hay đơn giản chỉ bất chợt nghe một câu hát của ngày xưa cũ là cũng đủ làm con tim bồi hồi xao xuyến. Trong niềm cảm xúc ấy, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu bản “Người em Văn Khoa” của nhạc sỹ Châu Kỳ và một bài viết của tác giả Huỳnh Như Phương.

Ảnh: http://thaolqd.blogspot.com

Văn Khoa, ngày tháng cũ

(Nguồn: bài viết của tác giả Huỳnh Như Phương đăng trên lethieunhon.blogspot.com ngày 2017-0316)

Thi đậu tú tài phần thứ hai, vì học ban C, nên khi bước vào đại học, tôi không có nhiều chọn lựa như bạn bè cùng lứa. Tôi đã chọn Đại học Văn Khoa Sài Gòn chỉ vì đây là ngôi trường thân thiện với tôi từ khi còn là học sinh trung học: qua giới thiệu của các thầy giáo, kệ sách nhà tôi đã có những cuốn sách của các giáo sư nổi tiếng ở trường.

Văn Khoa trong thời chiến

Buổi học đầu tiên, tôi đứng ở hành lang dãy phòng học gần gốc cây me bây giờ, nhìn lên lầu một: thầy Nguyễn Văn Trung và thầy Lý Chánh Trung mặc sơ mi trắng, mang giày săng-đan đứng tựa vào lan-can hàn huyên với các thầy giáo trẻ. Đó là hai người thầy mà tôi ngưỡng mộ khi trích văn trong một bài báo Xuân hồi học lớp 10 ở trường Trung học Trần Quốc Tuấn và chỉ hình dung khuôn mặt qua tấm ảnh chụp những giáo sư ngồi tuyệt thực trước hành lang Hạ nghị viện để đòi chính quyền trả tự do cho các sinh viên tranh đấu.

Nhiều năm trôi qua, sau này nhớ lại những ngày tháng cũ, đôi khi những kỷ niệm êm đềm làm ta quên hết những điều chưa tốt đẹp. Thật ra, Văn Khoa hồi ấy, giữa không khí chiến tranh nóng bỏng bao trùm đời sống, còn rất nhiều thiếu thốn và bất tiện để có thể xem là một trường đại học đúng nghĩa. Tòa nhà trên đường Cường Để này vốn là nơi đóng quân của “Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống”, nhường chỗ cho nhà trường chuyển đến từ đường Gia Long, nhưng vẫn giữ một phần diện tích cho mục đích quân sự, với hàng rào kẽm gai ngăn cách. Trong sân trường xe cộ để ngổn ngang. Dãy phòng học một tầng mái thấp, nóng bức, với những chiếc ghế hàn vỉ sắt làm rách quần những sinh viên đãng trí. Muốn đến giảng đường học môn Văn minh Việt Nam, môn học thường phải đi sớm để giữ chỗ vì quá đông sinh viên nghe giảng, phải bước lên cầu thang cạnh một nhà vệ sinh luôn bốc mùi, đến nổi có lần thầy Thanh Lãng nói đùa cái mùi đó là đặc trưng của trường Văn Khoa! Cũng vì lớp đông nên sinh viên thường chỉ nghe giảng, ghi chép và đọc cours; vài lần muốn tổ chức séminaire, thầy Nguyễn Văn Trung phải đi dã ngoại với chúng tôi ra La San Mai Thôn hay rừng cao su gần Đường Sơn Quán.

Nhưng Văn Khoa để lại ấn tượng sâu đậm không phải vì cảnh quan mà vì những con người đáng quý trọng. Hồi đó, ngay trong hai năm đầu, lớp chúng tôi đã được học thầy Trần Thái Đỉnh với cách giảng bài khúc chiết, thầy Lê Tôn Nghiêm – sâu sắc, thầy Lê Thành Trị – điềm đạm, thầy Giản Chi – lão thực, thầy Bửu Dưỡng – uyên bác, thầy Nguyễn Duy Cần – nghiêm nghị… Có những lần giờ tan học qua lâu, thầy Kim Định với chiếc áo dài trắng như một đạo sĩ, vẫn còn nán lại trên hành lang giải thích thêm cho chúng tôi về triết lý an vi. Thầy Lê Xuân Khoa lịch thiệp, bận công việc ở Viện Đại học, dành những buổi tối dạy cho chúng tôi môn triết học Ấn Độ.

Có thể nói Văn Khoa Sài Gòn là nơi tập hợp nhiều khuôn mặt trí thức tiêu biểu của miền Nam thời ấy. Văn Khoa cũng là nơi phát khởi những khuynh hướng học thuật mới mẻ, những phong cách độc đáo trong biên khảo, trước tác và dịch thuật. Những bộ sách về lịch sử triết học và văn học, về lý thuyết và phương pháp luận sử học, nhân học, ngữ học, phê bình văn học… của các giáo sư Đại học Văn Khoa chắc chắn sẽ được các thế hệ sau kế thừa.

Năm hòa bình đầu tiên

Mùa hè năm 1975, mọi thứ được sắp xếp lại, các thầy cô giáo dự lớp học chính trị riêng, sinh viên nghe giảng riêng, sau đó mỗi thầy được cử đến một tổ sinh viên để cùng thảo luận về “chuyên chính vô sản” và nhiệm vụ của nhà trường mới. Học chính trị xong, chúng tôi học chuyên môn với các thầy cô đến từ Hà Nội. Hầu hết thầy cô giáo Văn Khoa ở lại đều không lên lớp mà chỉ nghiên cứu thuần túy, một ít người chuyển sang dạy Hán Nôm hay ngoại ngữ. Hoàn cảnh đổi thay nhưng tình thầy trò không thay đổi: những ngày đầu tháng 5 thầy Lê Thành Trị, khoa trưởng, cùng sinh viên chuẩn bị hội trường đón tiếp đoàn giáo sư miền Bắc do ông Phạm Như Cương dẫn đầu; các thầy Lý Chánh Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh lên thăm chúng tôi trồng cây trên Chánh Phú Hòa; thầy Thanh Lãng mặc áo ký giả đến dự Hội Tết Văn Khoa năm hòa bình đầu tiên… Văn Khoa sẽ vui biết mấy nếu không khí hòa hợp đó còn mãi kéo dài.

Còn nhớ một buổi tối trong năm học chuyển tiếp đó, khi đến cư xá Thanh Quan, tôi thấy thầy Phạm Văn Diêu và thầy Nguyễn Lộc, hai người đồng hương Quảng Ngãi, đều là chuyên gia về Nguyễn Du và Truyện Kiều, lần đầu gặp nhau chuyện trò tâm đắc về nghiên cứu văn học cổ điển ở hai miền. Khoa Ngữ Văn của chúng tôi từ đó là nơi quy tụ những thầy giáo muốn tìm một chỗ bình yên để làm khoa học: Nguyễn Văn Trung, Bửu Cầm, Phạm Hữu Lai, Trần Trọng San, Lưu Khôn, Nguyễn Tri Tài, Nguyễn Khuê… Những cuốn sách có thể chịu cảnh im lìm bám bụi trong phòng đọc hạn chế, nhưng người làm khoa học thì phải vượt qua hoàn cảnh, không để mình bám bụi, và rồi những cuốn sách mới lại tiếp tục ra đời.

Từ ngày thành lập Đại học Văn Khoa Sài Gòn (01-3-1957) đến nay đã 60 năm. Những thế hệ xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ngày nay không quên quá khứ, vì đó là một phần lịch sử của mình. Tôi thầm nghĩ, một may mắn của đời mình là được chứng kiến gần ba phần tư thời gian lịch sử đó của ngôi trường, từ thời sinh viên đến khi sắp về hưu, gắn bó với từng phòng học, từng dãy hành lang, thư viện và những khuôn mặt lúc cởi mở lạc quan, khi đăm chiêu sầu não, nhưng luôn ấp ủ những hoài bão khoa học.

Vài năm nữa ngôi trường sẽ chuyển hẳn ra ngoại thành với một cơ ngơi khang trang, bề thế; người đi xa về có thể không tìm ra nơi lưu giữ kỷ niệm học đường. Những người đã qua, những người còn lại và những người sẽ tới đâu thể nào có một lần hội ngộ cho tất cả. Qua trang viết này, chỉ mong gửi gắm một nỗi niềm chung mà từ những góc trời riêng rẽ, chúng ta có thể sẻ chia về những ngày tháng cũ.

Đừng Nói Xa Nhau (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương)

Ở trang trong của tờ nhạc “Con đường xưa em đi” xuất bản trước 1975, tác giả và nhà xuất bản đã giới thiệu bản tiếp tối “Con đường 2” tức nhạc phẩm “Đừng nói xa nhau” cũng của Châu Kỳ & Hồ Đình Phương. Hôm nay tiếp tục dòng nhạc Châu Kỳ – Hồ Đình Phương, Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng giới thiệu “Đừng nói xa nhau” qua tiếng hát của cặp song ca Chế Linh – Thanh Tuyền với bản ghi âm trước 1975. Quan sát ngày xuất bản thì bản này ra mắt công chúng năm 1970, tức một năm sau “Con đường xưa em đi”.

Đừng nói xa nhau (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

.

Con Đường Xưa Em Đi (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương)

Những ngày qua Dòng Nhạc Xưa nhận được nhiều thắc mắc qua email cũng như điện thoại hỏi về 5 bản nhạc xưa bị tạm ngưng biểu diễn ở Việt Nam. Chúng tôi hoàn toàn không có ý kiến gì về quyết định này vì đó là thẩm quyền của những nhà quản lý văn hóa. Trên cương vị những người nghiên cứu nhạc xưa, chúng tôi nhận thấy cần cung cấp thông tin thêm về một trong những tác giả được xưng tụng là “người đặt lời nhiều nhất trong tân nhạc Việt Nam”: nhà thơ Hồ Đình Phương, người đã thổi ca từ thật đẹp vào nét nhạc tuyệt vời của nhạc sỹ Châu Kỳ để cho chúng ta bản nhạc bất hủ “Con đường xưa em đi”.

Con đường xưa em đi (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com.

Đôi nét về nhà thơ Hồ Đình Phương

(Nguồn: wikipedia.org ngày 2017-03-14)

Mùa thu còn đó (Châu Kỳ)

Liên quan đến bản “Mùa thu chết” có lắm điều thú vị. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Mùa thu còn đó” của nhạc sỹ Châu Kỳ. Theo nhiều tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được thì bản này nhạc sỹ Châu Kỳ viết như là một lời đáp cho nhạc sỹ Phạm Duy để khẳng định “mùa thu” vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng người yêu nhạc.

Mùa thu còn đó (Châu Kỳ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa thu còn đó (Châu Kỳ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

mua-thu-con-do--1--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-thu-con-do--2--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

[footer]

Đón xuân này nhớ xuân xưa (Châu Kỳ – Anh Châu)

Mùa xuân là thời khắc giao hòa giữa năm cũ và năm mới, là lúc để mọi người quên đi những sầu muộn trong quá khứ để hướng về những gì vẹn tuyền trong tương lai. Thế nhưng, trong không khí xuân đầm ấm và thiêng liêng ấy, [dongnhacxua.com] cũng giống nhiều quý vị bậc trung và cao niên lại không khỏi có chút bồi hồi nhớ về những mùa xuân ngày cũ: đâu rồi những phút giây hì hục gọt, ngâm và sên mứt gừng, bí, v.v.; đâu rồi hình ảnh ấm áp khi mấy đứa trẻ ngồi quây quần bên nồi bánh chưng coi ông bà cha mẹ nấu bánh; đâu rồi những phút giây hồi hộp pha lẫn chút lo sợ khi nghe nhà ai đó vang lên tiếng pháo tất niên tiễn biệt năm cũ hay tiếng pháo giao thừa đón chào nằm mới; v.v.

Tô điểm thêm cho mùa xuân của một thời tuổi trẻ của chúng tôi có lẽ là những rung động thật nhẹ nhàng, lung linh của một chàng trai mới lớn khi hẹn hò cô bạn gái chung xóm đi hội hoa xuân những ngày giáp tết hay đi hái lộc những ngày đầu xuân.

Sống ở Sài Gòn 20 năm nhưng chúng tôi vẫn hay về thăm xóm cũ những dịp xuân về. Vẫn mùa xuân với hoa mai hoa đào, với bánh mứt ngon hơn nhưng cá nhân chúng tôi thấy thiếu đi rất nhiều thứ đã ăn sâu vào máu thịt: nồi bánh chưng, tiếng pháo, bánh mứt mộc mạc do chính gia đình làm, hàng xóm qua lại hỏi thăm nhau và …

… và nhất là cô bạn nhà bên đã phiêu bạt nơi phương trời nào.

Trong tâm tình đó, [dongnhacxua.com] trân trọng gởi đến quý vị nhạc phầm ‘Đón xuân này (tôi) nhớ xuân xưa’ của nhạc sỹ Châu Kỳ (1923 – 2008).

 

Đón xuân này nhớ xuân xưa (Châu Kỳ - Anh Châu). Ảnh: VietStamp.net
Đón xuân này nhớ xuân xưa (Châu Kỳ – Anh Châu). Ảnh: VietStamp.net

don-xuan-nay-nho-xuan-xua--1--anh-chau--chau-ky--vietstamp.net--dongnhacxua.com don-xuan-nay-nho-xuan-xua--2--anh-chau--chau-ky--vietstamp.net--dongnhacxua.com don-xuan-nay-nho-xuan-xua--3--anh-chau--chau-ky--vietstamp.net--dongnhacxua.com

[footer]

Châu Kỳ & Giọt Lệ Đài Trang

Châu Kỳ || 11/05/2013 | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

Theo lời kể của bà Kha Thị Đàng, vợ của nhạc sỹ Châu Kỳ thì bản ‘Giọt lệ đài trang’ được nhạc sỹ Châu Kỳ sáng tác năm 1957. Cảm hứng chính để nhà nhạc sỹ tài hoa của chúng ta làm nên một nhạc phẩm bất hủ là một cô tiểu thư ‘cành vàng lá ngọc’ có tên Công Tằng Tôn Nữ Kim Anh – con của một ông quan ở Huế, ngày trước khinh miệt ông là xướng ca vô loài, không để ý tới dù ông rất yêu cô. Chiến tranh loạn lạc, người chồng Pháp của cô bỏ về nước, cô vào Sài Gòn gặp ông tại đường Nguyễn Trãi với bộ dạng đói khát. Ông còn 200 đồng trong túi đã lấy đưa cho cô và về nhà sáng tác ca khúc Giọt lệ đài trang.

Thế nhưng có một huyền thoại nữa cũng gắn với sáng tác này, đó là một cô gái con nhà danh giá tại Nha Trang đã yêu ông. Cô tên Đặng Thị Sum, sau một đêm xem ông hát đã đem lòng yêu ông, nhưng ông không hay biết. Đêm đó cô định khăn gói trốn nhà theo ông, nhưng bị cha mẹ cấm cản và nhốt trong nhà kho. Cô buồn gia đình đã lấy giấm thanh pha với á phiện uống tự tử. Mười năm sau, khi chúng tôi có dịp trở ra Nha Trang, người cha của cô Sum đã dẫn chúng tôi viếng mộ cô. Trong ca khúc Giọt lệ đài trang có câu: “Em nhớ xưa rồi em khóc, tôi thoáng buồn thương giọt lệ đài trang”. Một ca khúc có đến hai cuộc tình, một người đã ra đi và một người sống nghèo khổ. Đối với nhà tôi tất cả đều là những kỷ niệm đau thương, khi viết thành ca khúc đó là nỗi niềm chung của những ai đang yêu hãy biết quý trọng tình yêu.

DongNhacXua.com mong nhận được hồi âm của bạn yêu nhạc.

Lương Y Hòa
hoa@dongnhacxua.com

* Xin vui lòng ghi chú nguồn DongNhacXua.com khi trích dẫn toàn bộ hoặc một phần bài viết này.
* Chúng tôi có tham khảo tư liệu trên báo Người Lao Động