Nhạc sỹ Duy Trung & Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ

Trong một bài viết mà Dòng Nhạc Xưa đăng cách đây 10 năm (tháng 06/2013) về nhạc phẩm ‘Bài hát cho người kỹ nữ‘, chúng tôi có đặt ra một thắc mắc về đồng tác giả, nhạc sỹ Duy Trung, là ai và liệu bài hát nổi tiếng này có liên hệ gì với câu chuyện về cô Cẩm Nhung.

Rất may mắn, đầu tháng 11/2023, chúng tôi nhận được phản hồi của chính tác giả Duy Trung và qua đó nhiều chi tiết tưởng chừng mãi mãi bị lãng quên đã được làm sáng tỏ. Trước khi bắt đầu bài viết này, một lần nữa, Dòng Nhạc Xưa xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của nhạc sỹ Duy Trung và chúc ông luôn dồi dào sức khỏe, an hưởng tuổi già bên người thân và gia đình.

Bài ca cho người kỹ nữ. Bản gốc do tác giả, nhạc sỹ Duy Trung gởi tặng DongNhacXua.com

Đôi nét về nhạc sỹ Duy Trung

Nhạc sỹ Duy Trung. Ảnh tác giả gởi tặng DongNhacXua, tháng 11/2023.

Nhạc sỹ Duy Trung tên thật là Trương Văn Trung, năm nay (2023) cũng đã ngoài 70 và đang an hưởng tuổi già ở thành phố Atlanta, Hoa Kỳ.

Sau khi học xong trung học ở trường Phan Bội Châu (Phan Thiết), cũng như bao ‘chàng trai thế hệ’, ông tham gia quân đội và số phận đã đưa đẩy chàng trai trẻ xuôi ra tận Vùng 1 chiến thuật, đóng quân ở Quảng Ngãi.

Năm 1973, ông được thuyên chuyển về Sài gòn, tạm thời làm việc trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. Sau đó Duy Trung lại được chuyển qua Trung Tâm Quân Báo. Cũng trong thời gian này, ông gặp người bạn đời của mình. Sau khi lấy vợ, ông được thuyên chuyển về  trường Cây Mai, nằm trong Quân trường Huấn luyện Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Ông làm ở phòng Nghiên Cứu và Sưu Tầm chuyên dịch các tài liệu tình báo ra tiếng Việt.

Sau năm 1975, ông sang định cư ở Hoa Kỳ, học thêm về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng và tiếp tục niềm đam mê với âm nhạc cho đến ngày nay.

Nhạc sỹ Duy Trung và đồng nghiệp trẻ.

Về hoàn cảnh ra đời của bản ‘Bài ca cho người kỹ nữ’

Theo lời tâm sự của chính nhạc sỹ Duy Trung thì bản này là do chính ông sáng tác, với phần hiệu chỉnh của nhạc sỹ Nhật Ngân và tuyệt đối không liên quan gì đến chuyện cô Cẩm Nhung.

Trong thời gian chiến tranh, Chú được đưa ra tỉnh Quảng Ngãi làm việc. Lúc đó Chú còn rất trẻ và độc thân. Một người bạn, sĩ quan trong bộ tham mưu của tướng Toàn, Tư lệnh Sư đoàn 2, đóng quân ở thị xã Quảng Ngãi rủ Chú đi chơi. Hắn đưa Chú vào một Mini Club, nơi giải trí cuối tuần dành cho các sĩ quan trong Bộ Tư Lệnh. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chú mới biết thế nào là vũ trường. Thật là quê ! 🙂

Chú nhớ là không gian ở đây không lớn lắm, có lẽ chứa cỡ 30 người là đầy, nhưng có đầy đủ phương tiện, gồm 1 ban nhạc, quầy bar, một sàn nhảy và vài cái bàn cho khách ngồi. Thật ấm cúng vì đèn màu rất mờ. Khoảng 4 hay 5 người đẹp lúc nào cũng tỏ ra ân cần mời mọc. Lúc đó Chú .. chưa … biết nhảy 🙂 nên chỉ ngồi uống beer và nhìn mọi người dìu nhau theo các điệu Rumba, Tango v.v… Các cô gái thay phiên nhau trò chuyện với từng người rồi đưa nhau ra sàn nhảy, ôm nhau một cách vô tư .. Hình như lúc đó Chú rất thánh thiện: trai gái không phải là tình nhân không được ôm nhau. Cuối cùng Chú cũng được một cô tới chỗ Chú ngồi bắt chuyện. Cô ấy khá xinh, nhỏ người dáng như một học sinh. Chú đoán đúng vì cô ấy tiết lộ là học sinh của một trường trung học. Chú cũng khai thật với cô ta là Chú không biết nhảy (Quê lắm nha!) Nói chuyện được vài phút, cô ta gặp một sĩ quan quen biết và chào hỏi thân thiết . Cô ấy hẹn gặp Chú sau và cả 2 dìu nhau ra sàn nhảy. Đêm đó khi về lại doanh trại, hình ảnh cô gái cứ ám ảnh tâm tư Chú, thôi thúc Chú phải viết ra, cái gì đó để lòng mình nhẹ bớt nỗi ưu tư . Thế là ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ ra đời. Có thể nói đây là sáng tác đầu tiên của một đời người nghệ sỹ! Bài này không có liên quan gì tới vũ nữ Cẩm Nhung mà bà con cứ gán ghép. Chú đọc báo thấy họ cứ nói như thế, nhưng Chú không biết làm sao để đính chính. Rồi thời gian cứ trôi đi, Chú tiếp tục sáng tác nhưng chỉ để đó chớ không biết làm gì .

Còn về mối thân tình với nhạc sỹ Nhật Ngân, nhạc sỹ Duy Trung cho biết thêm:

Khoảng năm 1969-1970, Chú có người anh ruột là Trương Văn Thu. Ông anh của Chú là Nhân viên Kỹ thuật trong ban Tâm Lý Chiến của Quân trường Quang Trung. Anh ấy quen với Nhật Ngân vì lúc đó Nhật Ngân là trưởng ban nhạc trong Ban Tâm Lý Chiến (Nhật Ngân chơi Guitar Bass). Ông Anh của Chú biết Chú có soạn nhạc nên đề nghị Chú gởi tập nhạc về cho anh ấy để anh đưa cho Nhật Ngân. Chú đã gởi về và có nhờ anh ấy chuyển lời cho Nhật Ngân là sửa lời dùm những câu từ nào không hợp trong bài hát đầu tay ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ (BCCNKN). Sau một thời gian, Chú không nhớ là bao lâu, bỗng nhiên tới nhà một người quen, Chú nghe được bài hát ‘Bài ca cho người Kỹ Nữ’ được thu trong băng nhựa qua giọng hát của Elvis Phương.

Ôi thật là cảm khoái, sung sướng tuyệt vời. Thế là bài hát này đã được trình làng với tên tác giả là Trần Hoàng Thu!? Chú hơi ngạc nhiên tên Trần Hoàng Thu từ đâu ra 🙂 Sau này Nhật Ngân có giải thích là vì không liên lạc được với Chú cũng như phải thu gấp nên đặt tên này cho Chú 🙂 … (Thật ra Chú cũng không nhớ tự đặt cho mình một bút hiệu )

Nhà nhạc sỹ tiếp tục cho chúng ta thêm một chi tiết thú vị

Nhật Ngân đã chỉnh sửa dùm cho Chú câu “Ta tiếc cho em trong cuộc đời Kỹ Nữ” thành “Ta tiếc cho em trong đèn màu mờ mờ”. Chú cám ơn Nhật Ngân thật nhiều! Bài này do anh Ngọc Chánh soạn hòa âm và thu trong studio của Shotguns. Bài hát này là nguyên thủy do chính Chú viết, Nhật Ngân chỉ sửa có mỗi một câu ở trên mà thôi. Từng chữ một không có gì thay đổi, kể cả tên bài hát. Chú không hiểu sao từ từ thiên hạ tự thay đổi thành ‘Bài Hát Cho Người Kỹ Nữ’, rồi ‘Tình Kỹ Nữ’. Khi ra hải ngoại Chú có gặp Elvis Phương và cám ơn anh ấy đã hát bằng tất cả tâm hồn của một ca sỹ, chuyên chở được nỗi lòng da diết của Chú.

Về nghệ danh ‘Duy Trung’

Tự nhận mình đã già, lúc nhớ lúc quên, thế nhưng khi chúng tôi hỏi về xuất xứ của nghệ danh Duy Trung, nhà nhạc sỹ cho biết:

Chú suy nghĩ, và hồi tưởng lại những chuyện quá khứ xưa thật là xưa …

– Lúc còn bé Chú thường ôm cái máy hát loại “quay dây thiều” để cho gia đình cùng hàng xóm nghe những tuồng tích cải lương . Hát cho đến mòn cây kim luôn 🙂

Có những đêm đầy trăng, Chú cùng các bạn nhỏ hay chơi “tập tuồng”. Nhờ thuộc lòng những tuồng cải lương mà bọn Chú đóng y như hệt … 🙂 Có lẽ trong huyết quảng đã tích tụ dòng máu nghệ sĩ .

– Mẹ Chú hồi còn trẻ, Bà có nhiều sáng tác về thơ văn và hát Chèo. Kể ra cũng lạ. Mẹ Chú đâu có biết chữ Việt mà cũng làm được những bài như thế. Hồi xưa chỉ là truyền miệng chớ không có ai viết lại. Những bài hát Chèo dành cho những cuộc đua thuyền, khích động những thanh niên, thêm sức cho thuyền nhân trong những cuộc đua ở thôn làng .

– Khi vào Phan thiết học Trung học, Chú mới biết mình một ông Cậu là Họa sĩ Duy Liêm. Cậu ấy rất nổi tiếng vẽ những tranh và kiểu chữ lạ lùng không trùng khớp với ai. Chú rất thích những tranh vẽ của Cậu. Nhưng Cậu không còn ở Phan Thiết mà đã dời về Sài Gòn.

– Một Cậu khác là Trần Duy Chánh, diễn viên điện ảnh, anh của Trần Duy Liêm . Sau này khi Chú vào Sài Gòn, Chú thường tới nhà Cậu Chánh chơi. Chú gọi Cậu theo thứ tự là Cậu Tư. Có lẽ Chữ ‘DUY’ Chú dùng để ghép thành nghệ danh cho Chú: DUY TRUNG. HIện tại Cậu Tư còn sống và đang ở Hawaii.

Bài hát cho người kỹ nữ (Nhật Ngân – Duy Trung)

Cập nhật ngày 2023-11-19: xin đọc bài viết này https://www.dongnhacxua.com/nhac-sy-duy-trung-bai-ca-cho-nguoi-ky-nu/

Hôm qua Dòng Nhạc Xưa tình cờ đọc một bài báo đăng trên tờ Lao Động viết về cuộc đời đầy nỗi truân chuyên của cô Cẩm Nhung, kỹ nữ nổi tiếng một thời của Sài Gòn xưa. Phần cuối bài viết, tác giả có nhắc đến bản nhạc ‘Bài hát cho người kỹ nữ’ của nhạc sỹ Nhật Ngân sáng tác chung với Duy Trung là cảm tác từ cảnh đời éo le của Cẩm Nhung. Thực hư chuyện này ra sao chúng tôi không có tư liệu? Rồi nhạc sỹ Duy Trung là ai? Cho đến giờ chúng tôi cũng không có bất kỳ thông tin gì. Nhạc sỹ Nhật Ngân cũng đã an giấc ngàn thu, bà Cẩm Nhung cũng vừa rời chốn gian trần.

Trên tinh thần gợi nhớ lại Sài Gòn hoa lệ một thời, nhắc nhớ đến dòng nhạc của Nhật Ngân và cầu mong linh hồn bà Cẩm Nhung mau siêu thoát, Dòng Nhạc Xưa trân trọng giới thiệu nhạc phẩm ‘Bài hát cho người kỹ nữ’ (còn được biết qua tên khác ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ hay ‘Tình kỹ nữ’).

BÀI BÁO ‘NỬA THẾ KỶ TỪ VỤ ĐÁNH GHEN RÙNG RỢN NHẤT SÀI GÒN’
(Nguồn: LaoDong.com.vn)

Cách đây đúng nửa thế kỷ, vào giữa năm 1963, tại Sài Gòn đã xảy ra một vụ đánh ghen được coi là rùng rợn nhất thành phố này. Đây cũng là lần đầu tiên ”Hoạn Thư” ở Sài Gòn biết sử dụng axít đậm đặc để thanh toán tình địch. 

Nạn nhân là cô vũ nữ nổi tiếng nhất Sài Gòn lúc ấy tên là Cẩm Nhung, người được mệnh danh là “nữ hoàng vũ trường”. Người thủ ác là một mệnh phụ phu nhân, vợ của một trung tá Sài Gòn. Vụ tạt axit rùng rợn này đã biến cô vũ nữ giàu có, đẹp lộng lẫy thành cô gái mù lòa xấu xí, phải đi ăn mày. Khi còn là vũ nữ, Cẩm Nhung nổi tiếng nhất Sài Gòn, lúc đi ăn mày cô càng “nổi tiếng” hơn, khi luôn đeo trước ngực bức ảnh mình chụp với người tình trung tá thời trên đỉnh cao danh vọng.

Bà lão mù lòa từng là vũ nữ

Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo. Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa… Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung lừng danh của nửa thế kỷ trước.

Trước ngày miền Nam giải phóng, người ăn mày mù lòa Cẩm Nhung với cây gậy dò đường và tấm ảnh chụp chung với người tình treo trước ngực, lê bước khắp nẻo Sài Gòn để xin lòng thương hại của mọi người. Về sau do bị săn đuổi, bà xuống ăn xin ở bến phà Mỹ Thuận trên đường về miền Tây. Sau ngày miền Nam giải phóng, người ta còn thấy bà ngồi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận một thời gian. Từ khoảng năm 1978, không ai thấy người ăn mày đeo tấm ảnh trước ngực đâu nữa. 

Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo. Người ta nhận ra bà bởi khuôn mặt gớm ghiếc và đôi mắt mù lòa, hậu quả của vụ tạt axít năm xưa. Và nay, người ăn mày đặc biệt đã vĩnh viễn từ giả cõi trần, chính thức khép lại một kiếp hồng nhan đa truân, sau đúng nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn năm nào.

Nữ hoàng vũ trường

Vũ nữ Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cô phải rời xa Hà Nội để theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống chưa ổn định, cha của Cẩm Nhung lâm bệnh rồi mất, bỏ lại 3 người phụ nữ: mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng, chuyên bưng bê món ăn cho khách. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.

Cẩm Nhung có khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng đặc thù của con gái xứ Bắc. Tạo hóa ban thêm cho cô đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ. Đặc biệt đôi chân điệu nghệ của cô trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn đã làm bao khách làng chơi phải ngẩn ngơ. Lúc ấy Sài Gòn có hàng trăm vũ trường, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà Cẩm  Nhung càng có giá, được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Cô được dân chơi Sài Gòn phong là “Nữ hoàng vũ trường”. 

Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, quận 1). Tại đây, cô đã trở thành người tình của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Cô vũ nữ 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường đã bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Sự già dặn, từng trải, tiêu tiền như nước của gã, cùng với cái lon trung tá rất oai thời ấy đã làm cô vũ nữ sành điệu chấp nhận sa vòng tay bảo bọc của ông ta.

Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ, chủ yếu là vũ khí và đô-la để xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh.  Đó là cơ hội vàng để “Thức công binh” tham nhũng, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái. 

Vợ trung tá Trần Ngọc Thức tên thật là Lâm Thị Nguyệt, có biệt danh là Năm Rađô – một biệt danh giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Rado của Thụy Sỹ mới nhập cảng vào Sài Gòn. Bà Năm Rađô không lạ gì thói trăng hoa của chồng, nhưng lần này biết chồng say mê cô vũ nữ trẻ đẹp quên cả gia đình, bà như phát điên vì ghen. Bà đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà. 

Vụ đánh ghen ghê rợn

Theo thú nhận của Cẩm Nhung với báo chí Sài Gòn sau khi xảy ra vụ đánh ghen ghê rợn, khi làm người tình của trung tá Thức, cô nghĩ rằng mình có thể trở thành vợ bé của ông ta, một việc khá bình thường trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô đâu biết rằng, trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn, thì ở khu gia binh Cô Bắc cách đó không xa có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn. 

Bà Năm Rađô đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà Năm Rađô tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà, Thức công binh sẽ trở về với vợ con. 

Khoảng 22 giờ đêm ngày 17.7.1963, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Hàng ngày cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước, để cô đến vũ trường trước 23 giờ, nhảy nhót quay cuồng cho đến 3 – 4 giờ sáng. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10 mét, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô. Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.

Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến Bệnh viện Đô Thành (Bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do Bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay). 

Những người bạn vũ nữ của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy thế lực của “Thức công binh” và bà Năm Rađô rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Bà cố vấn vốn tính bốc đồng đã làm lớn vụ việc, làm cho cả Sài Gòn như sôi lên vì vụ đánh ghen này.

Sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng axít đến nỗi mù lòa, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, ở Sài Gòn bỗng nổi lên phong trào đánh ghen bằng axít. Suốt thời gian dài sau đó, người ta hay dọa những kẻ “giật chồng người khác” câu “muốn 1 ca axít lắm hả?”. 

Trên thực tế, sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị nạn, chỉ trong năm 1964 đã có hàng chục ca thanh toán nhau bằng axít được đưa đến các bệnh viện Sài Gòn, hầu hết là do đánh ghen. Dù vậy, các thế hệ sau đều thua cú ra tay dữ dội của bà Năm Rađô. Vụ tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung mở màn cho “phong trào” đánh ghen bằng axít ở Sài Gòn, cũng là vụ đánh ghen tàn bạo nhất được ghi nhận ở đất Sài thành cho đến ngày nay.

Khi vụ tạt axít xảy ra, bà Trần Lệ Xuân đang ở nước ngoài, nhưng cũng biết được vụ việc qua báo chí. Một tuần lễ sau bà về tới Sài Gòn, việc đầu tiên là bà chỉ đạo Nha An ninh phải vào cuộc, xử thật nặng những kẻ gây ra tội ác.

Đích thân Trần Lệ Xuân cũng tới thăm Cẩm Nhung, rồi thu xếp đưa cô đi nước ngoài chữa trị, nhưng tất cả đều vô ích, không gì có thể cứu vớt cuộc đời cô vũ nữ.
Cả Sài Gòn hồi hộp theo dõi

Không chỉ ra lệnh bắt xử những kẻ tạt axít, bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động tất cả các vũ trường, vì theo bà đó là nguồn gốc của ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác.

Bà ra lệnh cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải kỷ luật, hạ cấp hoặc loại khỏi quân đội. Sài Gòn vốn sôi động về đêm, những ngày sau đó trở nên đìu hiu khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn.

Các tướng tá Sài Gòn thì khỏi phải nói, chạy lo đủ kiểu để không bị phát hiện là có vợ nhỏ. Sau giờ làm việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ thì sự nghiệp nhà binh coi như đổ sông đổ biển.

Con đường công danh, sự nghiệp của Thức “công binh” cũng bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng, ông bị buộc phải giải ngũ, trở về làm dân. Một phiên tòa xét xử vụ tạt axít đã được gấp rút mở sau đó gần 3 tháng. Bà Năm Ra đô và tên du đãng tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, một tên đồng bọn khác bị phạt 15 năm tù. Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị kháng cáo, thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ với cái chết của 2 anh em nhà họ Ngô, bà Lệ Xuân phải sống lưu vong.

Chính trường Sài Gòn sau cái chết của anh em nhà họ Ngô đã rối ren suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung. Không thấy nền “đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu đưa ra xét xử. Sau đó vợ chồng Thức “công binh” đã chia tay nhau, người chồng về quê sống ẩn dật, còn bà Năm Ra đô thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.

Lại nói về Cẩm Nhung, ca axít đậm đặc đã phá hủy toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay, chỉ có thể cứu được mạng sống của Cẩm Nhung, còn đôi mắt, khuôn mặt thì không thể cứu chữa.

Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật. Sau đó, vợ chồng bà Trần Lệ Xuân đã chỉ đạo cho Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản thu xếp đón Cẩm Nhung qua Nhật Bản chữa trị thương tật.

Một ngày cuối tháng 9.1963, Cẩm Nhung được đưa lên máy bay sang Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bản cũng phải chịu thua, không thể phục hồi dung nhan và đôi mắt cô vũ nữ. Hai tháng sau, Cẩm Nhung trở về nước, lúc Sài Gòn đã đổi chủ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bảo bọc trọn đời” cho Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong ở nước ngoài.

Trả thù đời

Từ đỉnh cao danh vọng bỗng chốc rơi xuống tận cùng địa ngục, Cẩm Nhung trong đau khổ tuyệt vọng, đã lao vào đập phá, uống rượu, hút thuốc… Để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng của bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì. Thế nhưng, với khuôn mặt cháy xám, thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, không có người đàn ông tỉnh táo nào đủ can đảm làm tình nhân của cô.

Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè. Mẹ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964.

Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời, tài sản sau mấy năm kiếm được trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan, giờ cô tha hồ đập phá. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng… Cuối cùng, Cẩm Nhung bán nốt căn nhà với giá gần 200 lượng vàng để có tiền tiêu xài, cô và bà vú Sọ phải thuê nhà ở trọ.

Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần, ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời. Còn lại một mình không nơi nương tựa, không nghề nghiệp, đôi mắt mù lòa, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn biết đi ăn mày.

Ban đầu, Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào dịp tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, tay chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường. Ban đầu người ta kéo tới xem Cẩm Nhung rất đông, cho tiền cô cũng nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập, đập phá.

Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ, càng ít cho tiền. Không thể ngồi xin một chỗ, Cẩm Nhung cầm gậy dò đường đi xin dọc theo đại lộ Lê Lợi, đường Tự Do, những lối đi một thời in dấu chân cô từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực trung tâm Sài Gòn, đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng, trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.

Ngày ấy, khi đã mù lòa, xấu xí, phải ra đường ăn xin kiếm sống, Cẩm Nhung nhờ người quen phóng to tấm ảnh cô chụp với người tình trung tá công binh Trần Ngọc Thức để đeo trước ngực, vừa để thiên hạ xót thương mà bố thí, vừa để “trả thù đời” đối với kẻ đã tệ bạc bỏ mặc cô đau đớn, bệnh tật, nghèo khó mà không một lời hỏi han, thăm viếng. Ban đầu, sau khi Cẩm Nhung mang tấm ảnh mình và tay trung tá rất đẹp đôi trước ngực, mấy ngày sau có người lạ tới năn nỉ cô đừng trương tấm hình ấy ra nữa, bù lại họ cho cô số tiền kha khá.

Cẩm Nhung không chịu, họ cũng giật đại tấm ảnh, xong để lại trong ca ăn xin của cô một số tiền. Không chịu thua, Cẩm Nhung lại nhờ người thân phóng tấm ảnh khác để đeo, và lại bị họ giật. Sau đó, không chỉ bị giật hình ảnh, mà cô còn bị đánh đập gây thương tích, chỉ vì chuyện ôm tấm hình chụp chung với người tình cũ đi ăn xin khắp Sài Gòn.

Không sống được ở Sài Gòn, Cẩm Nhung âm thầm tìm ra bến xe Miền Tây để lên xe đò về bến phà Mỹ Thuận kiếm sống, vẫn với cái cách ngồi bên lề đường ăn xin, ngực treo tấm ảnh năm nào.

Tại đây, cô cũng bị người lạ giật tấm ảnh. Không chỉ vậy, ai đó đã nhân lúc cô đi ăn xin đã lẻn vào chỗ ở trọ, lục tung đồ đạc của cô, lấy đi tất cả hình ảnh cô chụp chung với người tình trung tá công binh. Kể từ đó, Cẩm Nhung không còn ảnh chụp chung với Thức công binh, cô lấy tấm ảnh chân dung của riêng mình treo trước ngực để đi ăn xin, người đi đường cảm thương phận bạc của cô vũ nữ mà bố thí cho ít tiền giúp cô sống qua ngày trong mù lòa, cô độc.

Sau ngày miền Nam giải phóng, Cẩm Nhung tiếp tục ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận. Nhưng sau đó chính quyền cách mạng dẹp nạn ăn xin để ổn định trật tự xã hội, Cẩm Nhung được đưa vào trung tâm nuôi người tàn tật. Không chịu được cuộc sống gò bó trong trung tâm, người phụ nữ mù đã lén bỏ trốn về Sài Gòn tiếp tục ăn xin.

Rồi cô lại bị “thu gom”, rồi lại trốn về tận Hà Tiên. Tại đây, Cẩm Nhung lúc thì đi ăn xin quanh quẩn các ngôi chùa, khi địa phương có chiến dịch “thu gom” người ăn xin, cô xin tá túc nhà chùa để được chén cơm, manh áo, vừa quét dọn sân chùa để khuây khỏa nỗi buồn trong cuộc đời bạc bẽo hơn vôi của cô. Kể từ đó, dù tá túc trong nhà chùa hay ăn xin đó đây, Cẩm Nhung không còn đeo tấm hình “nữ hoàng vũ trường” của mình trước ngực nữa.

Trong những năm tháng Cẩm Nhung sau khi bị nạn lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn, cũng là lúc ở Sài Gòn xuất hiện bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ”. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:

Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người 
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi 
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em 
Loài người vô tình giết chết đời em…