Những Đóm Mắt Hỏa Châu (Hàn Châu)

Với lịch sử gắn liền với quá nhiều cuộc chiến như Việt Nam chúng ta, hẳn nhiên âm nhạc không thể nào không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Một trong những hình ảnh của thời binh đao đã đi vào âm nhạc là hình ảnh của những đóm hỏa châu.

Hỏa châu hiểu một cách đơn giản là một dạng pháo sáng, gắn một tấm vải dù bên trên. Khi được bắn lên bầu trời, hỏa châu sẽ bay lơ lửng để chiếu sáng vùng mặt đất bên dưới để giúp phát hiện đối phương đang tác chiến bên dưới.

Saigon 1967 - Hỏa châu trên thành phố, phía sân bay TSN. Phía dưới ảnh là Thương xá TAX.  Saigon 1967 - 4 flares hanging over the city. Photo by Bill Mullin.
Saigon 1967 – Hỏa châu trên thành phố, phía sân bay TSN. Phía dưới ảnh là Thương xá TAX.
Saigon 1967 – 4 flares hanging over the city. Photo by Bill Mullin.
Saigon 1967 - Tòa nhà cao bên trái là trụ sở USAID trên đường Lê Văn Duyệt  Saigon 1967 - 2 flares hanging over the city near my hotel. The tall building at the left is the USAID headquarters.
Saigon 1967 – Tòa nhà cao bên trái là trụ sở USAID trên đường Lê Văn Duyệt.
Saigon 1967 – 2 flares hanging over the city near my hotel. The tall building at the left is the USAID headquarters. Photo: Flickr

Trên tinh thần góp một phần nhỏ nhoi để bảo tồn dòng nhạc xưa, hôm nay [dongnhacxua.com] xin hân hạnh giới thiệu bản “Những đóm mắt hỏa châu” của nhạc sỹ Hàn Châu. 

Qua nét nhạc bolero dặt dìu, nhạc sỹ Hàn Châu đã lột tả tâm trạng đời thường chân thực của người lính chiến và qua đó làm đẹp hơn hình ảnh hỏa châu vốn gắn liền với sự đau thương của chiến tranh.

Những đóm mắt hỏa châu (Hàn Châu). Ảnh: HopAmViet.com
Những đóm mắt hỏa châu (Hàn Châu). Ảnh: HopAmViet.com

nhung-dom-mat-hoa-chau--1--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com nhung-dom-mat-hoa-chau--2--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com

nhung-dom-mat-hoa-chau--3--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com

[footer]

Một Mai Giã Từ Vũ Khí

Với tiêu chí phi chính trị, [dongnhacxua.com] không có ý định đào sâu thêm về cuộc chiến với quá nhiều đau thương mà dân tộc Việt Nam chúng ta đã trải qua trong hơn 20 năm 1954-1975. Tuy nhiên, trong những ngày tháng tư này, dù muốn dù không, những hình ảnh của một thời khói lửa vẫn tràn về, bằng cách này hay bằng cách khác, tùy vào góc nhìn của mỗi người.

Hôm nay, chúng tôi trân trọng giới thiệu bản “Một mai giã từ vũ khí” của nhạc sỹ Nhật Ngân, ký dưới nghệ danh Ngân Khánh, tên con gái ông. Theo đánh giá chủ quan của [dongnhacxua.com] thì đây là nhạc phẩm tiêu biểu nhất cho những sáng tác về một thời chinh chiến.

Bản nhạc gồm 3 đoạn mà ý chủ đạo là niềm mơ ước chấm dứt chiến tranh, hòa bình lặp lại và người lính sẽ từ bỏ vũ khí để trở về với cuộc sống thường ngày, với kỷ niệm tuổi thơ mà vì chiến tranh, đã bị cướp mất. Trong “Một mai giã từ vũ khí”, chúng ta không bắt gặp một từ ngữ nào về ý thức hệ, về “chiến thắng” mà chỉ là sự chờ đợi đến héo hon cho “một ngày chinh chiến tàn”.

Nhạc sỹ Nhật Ngân đã nói lên mong ước tưởng chừng như rất giản đơn của cả một thế hệ trai trẻ thời chiến: một ngày được “trả súng đạn này, thôi sạch nợ sông núi” để xây dựng lại quê hương qua những hình ảnh bình dị như “nương dâu”, “con trâu”, “chiếc cầu tre”, … 

Nghe kỹ lời nhạc, chúng ta không tìm thấy một chi tiết nào về “lòng thù hận” mà xuyên suốt là tính nhân văn của một người con dân tộc Việt, nhất là chi tiết “dìu em về thăm” những “người bạn đã ngàn năm yên nghỉ” để chúng ta hôm nay hãy biết quý trọng hòa bình và hãy biết yêu thương nhau. 

Một mai giã từ cũ khí (Nhật Ngân). Ảnh: VietStamp.net
Một mai giã từ vũ khí (Nhật Ngân). Ảnh: VietStamp.net

mot-mai-gia-tu-vu-khi--trinh-lam-ngan--1--dongnhacxua.com mot-mai-gia-tu-vu-khi--trinh-lam-ngan--2--dongnhacxua.com

[footer]

Khăn Quàng Thắp Sáng Bình Minh (Trịnh Công Sơn)

Trong quá trình đi tìm tư liệu cho dòng nhạc Trịnh Công Sơn nhân ngày giỗ 1/4 của ông, [dongnhacxua.com] vô tình được biết về một phiên bản khác của một bài hát đã gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ: “Khăn Quàng Thắp Sáng Bình Minh” của nhạc sỹ họ Trịnh. Bài hát này đã quen thuộc với chúng tôi những ngày còn cắp sách đến trường cho nên khi nghe phiên bản mới, chúng tôi thấy rất xa lạ.

Theo thiển ý của [dongnhacxua.com], vài câu chữ của lời nhạc mới cũng không hẳn là dở. Thế nhưng việc tự  ý sửa lời nhạc Trịnh là một việc làm không nên, nếu không muốn nói là thiếu tôn trọng nhạc sỹ Trịnh Công Sơn nói riêng và hàng triệu người yêu nhạc nói chung. Nhân dịp này chúng tôi mong người lớn chúng ta nên sống thật và “trả lại cho Trịnh những gì thuộc về Trịnh”!

PHIÊN BẢN GỐC
Ảnh: cainhaccho.net

Ảnh: cainhaccho.net

PHIÊN BẢN MỚI

Ảnh: music.edu.vn
Ảnh: music.edu.vn

[footer]

Nhớ Đến Một Người Để Nhớ Mọi Người

Hôm nay là đúng ngày mất của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn (28/02/1939 – 01/04/2001), [dongnhacxua.com] xin mạn phép thắp một nén nhang cho linh hồn ông an nghỉ miền cực lạc. Cũng nhân dịp này, chúng tôi xin gởi đến quý vị một tạp văn của tác giả Phùng Hi.

NHỚ ĐẾN MỘT NGƯỜI ĐỂ NHỚ MỌI NGƯỜI
(Nguồn: tác giả Phùng Hi đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần ra ngày 27/03/2015)

Bây giờ viết điều gì về Trịnh Công Sơn đều rất dễ bị sáo bởi có quá nhiều người xưng tụng ông. Nhưng thôi thì cứ theo một câu ca của ông: “Nhớ đến một người để nhớ mọi người”(1), đó là những thanh niên xung phong tuổi từ mười sáu trở lên, sau năm 1975 đi trồng khoai, trồng bắp ở Nông trường Sơn Thành, Phú Yên. Hiện họ đã con đàn, cháu đống.

Những ông bà nội ngoại này hằng năm đến dịp ngày 1-4, ngày mất Trịnh nhạc sĩ, thay phiên nhau làm buổi lễ nho nhỏ tưởng niệm ông, sau là hát nhạc Trịnh, hát để nhớ một thời trai trẻ thiếu cơm thiếu áo nhưng yêu thì mãnh liệt chân tình. Họ chỉ hát mộc với guitar thùng, thú chơi “không đụng hàng” ai lúc này.

Tôi nhớ thời karaoke mới xuất hiện, khi ấy chưa có DVD, tôi đang dạy học ở Nông trường Sơn Thành, nhận sự ủy thác của nhóm thanh niên xung phong đến thị xã Tuy Hòa, nay là thành phố Tuy Hòa, thu chọn lọc hai băng Akai toàn nhạc Trịnh.

Tới quán karaoke, nhóm người mê Trịnh thủ sẵn băng nhạc bỏ vô máy hát cho thỏa ý. Tôi nhỏ tuổi hơn nhưng vì có công đi thu băng nên cuộc đi hát nào tôi cũng được ké, ké hát ké rượu. Điều thú vị, ngày mất nhạc sĩ tài hoa chỉ sống nhỉnh hơn một vòng hoa giáp (1939-2001) này là ngày giải phóng Phú Yên, ngày Cá tháng tư và cũng là ngày cho nghề câu cá ngừ đại dương của ngư dân Phú Yên.

Đại diện nhóm thanh niên xung phong là chị Hoàng Khôi (chồng tên Khôi, vợ tên Hoàng), lập bàn thờ giỗ Trịnh Công Sơn. Mấy tay đàn ông coi chuyện ấy là thứ đồng bóng nhưng chị Hoàng Khôi thành thật: “Anh Sơn là người tôi không thân thích, chưa hề gặp mặt, chỉ vì yêu nhạc của anh mà mỗi năm tôi làm giỗ để tưởng nhớ, cũng là cái cớ để mấy ổng tụ họp hát hò.

Không riêng gì tổ chức ở nhà tôi, nhà ông nào “đăng cai” là tôi tới, mang theo ảnh anh Sơn, lập bát hương và làm gà cúng”. Chị hát nhạc Trịnh cũng khá hay nhưng có tật giành ca dù không uống giọt rượu nào để đổ thừa do say.

Nhạc Trịnh dễ bắt chước hát theo, nhất là hát theo ca sĩ Khánh Ly, nên ai cũng hát được đôi bài dù không rành nhạc. Có lẽ vì giai điệu nhạc Trịnh luôn thuận theo âm tiếng Việt, với âm trắc nhạc cất lên cao, đến âm bằng chắc chắn hòa âm xuống thấp. Hãy thử một câu nhé: “Gọi nắng trên vai em gầy, đường xa áo bay” (Hạ trắng). Bạn đọc có thấy đúng vậy không.

Hạ trắng (Trịnh Công Sơn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hạ trắng (Trịnh Công Sơn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Tuy nhiên nhạc Trịnh rất khó nhớ trọn một bài vì lời ca có phần siêu thực; cái đẹp, nỗi buồn được nâng lên tầm triết học và nhiều liên văn bản phía sau ca từ. Nếu vì không thuộc, không ai hát thì chị Hoàng Khôi hát, chị nhớ rất nhiều bài. Tôi nói chị “giành ca” là vậy. Một ông bạn nói mỉa: “Bả mê đến nỗi phải giỗ ổng thì thuộc nhiều bài là đúng rồi”.

Đó là nói chuyện trước đây chứ giờ vô mấy trang web nhạc chép lời, in thành tập, khỏi phải gồng đầu nhớ.

Năm nào nhà ai tổ chức hát nhạc Trịnh, sáng ra đều có người khen: “Khi hôm ai hát mà hay thế” chứ không bị chê như mấy dàn nhạc sống lưu động điếc tai xóm làng hiện nay. Hiếm có nhạc sĩ được người đời yêu mến làm giỗ hằng năm như Trịnh Công Sơn. Tôi không khỏi có ý nghĩ ghen tị với ông: “Ông Sơn, ông sống được nhiều người yêu, nhất là phụ nữ. Ông chết lại càng được nhiều người yêu mến ông hơn nữa”.

Một số anh em mê nhạc Trịnh ấy, chung “chiến hào khoai sắn” ngày xưa, nay đã già nhưng chắc vì chưa già lắm nên khó tính, hay xét nét và giận hờn. Đừng nghĩ người già không giận nhau, nhưng rồi nhờ nhạc mà làm hòa. Vâng, như một câu ca trong nhạc Trịnh “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” kia mà, giận lâu chi tổn thọ.       

[footer]

Trịnh Công Sơn – Nối Vòng Tay Lớn

Những ngày cuối tháng ba và đầu tháng tư, [dongnhacxua.com] bỗng nhớ về một người nhạc sỹ tài hoa mà những sáng tác của ông đã gắn liền với nhiều thăng trầm của đất nước trong hai thập niên 1960-1970 của thế kỷ trước. Chúng tôi xin mượn một bài tạp văn của nhà thơ Vĩnh Hảo để đưa người yêu nhạc đến một góc nhìn nhân văn hơn về bản nhạc gây nhiều tranh cãi “Nối vòng tay lớn” mà khi ấy chàng trai trẻ Trịnh Công Sơn đã cất tiếng hát đúng ngày 30/04/1975.

TRỊNH CÔNG SƠN – NỐI VÒNG TAY LỚN
(Nguồn: tạp ghi của nhà thơ Vĩnh Hảo đăng trên vinhhao.info)

Trịnh Công Sơn. Ảnh: vinhhao.info
Trịnh Công Sơn. Ảnh: vinhhao.info

(Khuya 28/4/2002, vài cảm nghĩ trước ngày 30/4)

Khi Trịnh Công Sơn nằm xuống, người Việt khắp nơi xôn xao, từ trong nước đến hải ngoại. Bao nhiêu nhật báo, tuần báo, nguyệt san, tạp chí, tuyển tập đều đua nhau viết về ông, tiếc thương một nghệ sĩ tài danh, dành cho ông niềm ưu ái vô cùng đặc biệt. Nhưng cũng có một số người chống đối, chỉ trích ông, kết án ông, vì ông đã lên Ðài Phát thanh Sài-gòn, hát bản “Nối Vòng Tay Lớn” lúc quân đội cộng sản tiến vào Sài-gòn, miền Nam Việt-nam, ngày 30/4/1975.

Riêng tôi, nghe tin ông mất, đã buồn nhiều ngày. Tôi muốn viết một đoản văn hay một bài thơ nào đó về ông mà không viết được. Tôi sợ là không nói được hết những gì tôi cảm về ông. Rừng thơ-nhạc của ông mênh mông quá, nói ít thì không hết ý, nói nhiều thì lệch lạc thừa thãi. Vì vậy mà im lặng, rồi nghe, rồi đọc những người khác viết về Trịnh Công Sơn thay cho mình. Người ta viết về ông hay quá, cũng bởi cuộc đời và những đóng góp nghệ thuật của ông quá hay, nên không thể không viết hay được.

Ðối với tôi, bất cứ bản nhạc nào, lời ca nào, bài thơ nào, của Trịnh Công Sơn, đều có thể cho tôi hứng cảm để đọc, ngâm nga, ôm đàn ca, hát ư ử một mình, hoặc viết. Thơ nhạc của ông là niềm gợi cảm cho những cuộc tình thơ mộng, tha thiết; cho những cuộc sống đẹp đẽ, thi vị, thánh thiện. Lời thơ của ông không bình dân, xuề xòa đâu, vậy mà những ca khúc của ông đã bao trùm cả đất nước, gần gũi với bao thế hệ, không phân biệt Nam-Bắc, ý thức hệ, đảng phái. Không ai nghe và hát nhạc ông mà không yêu ông được. Chỉ bấy nhiêu thôi, đời ông đã quá đủ để đứng trên đài vinh quang tột đỉnh. Nhưng vinh quang, đối với một thiên tài như thế, thực ra cũng chẳng là gì cả. Nó chỉ là thứ trang sức hào nhoáng không làm tăng thêm giá trị nội tại của ông. Năm 1992, ông viết: “Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá… Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường…” (Trịnh Công Sơn, Những Bài Ca Không Năm Tháng, nxb Âm Nhạc, 1995, trang 271).

Niềm tuyệt vọng của ông là gì? Người ta nghĩ một người thành công, nổi tiếng, được mọi người mến mộ thương yêu như ông… thì tuyệt vọng nỗi gì! Nghĩ vậy thì không hiểu ông chút nào. Ông không đơn giản như một người gắng sức tiến từ đáy vực lên đến đỉnh cao rồi bắt đầu hưởng thụ. Cuộc đời ông là một chuỗi tranh đấu không ngừng. Khi cuộc chiến giữa anh em hai miền chấm dứt, kẻ chiến thắng hưởng thụ bã vinh hoa, người chiến bại lao khổ trong trại tù; súng đạn im hơi, môi miệng khua múa… bao nhiêu năm mà chẳng mang lại hạnh phúc gì cho đại khối dân tộc, thì người nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn, vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại sự thù hận, hèn kém, khổ đau. Cuộc đấu tranh ấy công khai trên mặt văn nghệ đại chúng, nhưng lại âm thầm ở ước vọng bên trong.

Do ước vọng không nguôi về một cuộc đời tốt đẹp tươi sáng hơn, mà ước vọng này lại có vẻ như chẳng bao giờ thành, Trịnh Công Sơn trở thành “tên tuyệt vọng” (chữ của Trịnh Công Sơn tự ví mình). Hơn 25 năm, chỉ có những tập đoàn thiểu số, hoặc thiểu số những cá nhân, những gia đình, nhờ sự thay đổi lớn của thời cuộc mà trở nên vinh quang, trên trường chính trị hay kinh tế, trên đường tiến thân hay vinh thân, trong nước và hải ngoại. Và cuộc đời vẫn như thế. Khổ đau. Nghèo đói. Băng hoại. Chờ đợi mỏi mòn. Tranh đấu mỏi mòn. Mà chẳng thấy thay đổi gì. Vì vậy mà tuyệt vọng. Chứ có phải đâu đã vinh quang rồi thì chấm hết. Trịnh Công Sơn tự gánh lấy sứ mệnh làm đẹp cuộc đời của anh từ lâu rồi. Cũng bài viết cuối tập nhạc ấy, anh viết: “Chúng ta đã đấu tranh. Ðang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu dài. Nhưng tranh đấu để giành lại quyền sống, để làm người, chứ không để trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi nguồn từ khước tước hiệu đó.”

Nhưng tuyệt vọng như Trịnh Công Sơn không có nghĩa là buông xuôi. Ngược lại, tuyệt vọng đối với cuộc đời có nghĩa là anh tin cuộc đời vốn không thể khác đi. Cuộc đời sẽ trôi theo cái vận mệnh của nó. Có những điều bất toàn, không như ý. Có những điều mong muốn nhưng không bao giờ thành tựu. Tin chắc vào sự thể như thế, anh học được lòng bao dung, tha thứ. Và nhờ vậy, anh có thể tiếp tục yêu thương cuộc đời như anh đã từng.

“Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác. Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.” (Trịnh Công Sơn, sách đã dẫn, trang 272)

Với một tâm hồn cao đẹp như thế, thực sự là chẳng cần một vòng hoa vinh quang nào. Anh không cần đứng trên chóp đỉnh cuộc đời, mà anh nằm trong lòng cuộc đời. 

Bao nhiêu chữ nghĩa, ngôn từ cũng không đủ cho tôi viết lời ca tụng xứng đáng dành cho anh. Chỉ xin, nhân ngày 30/4 sắp tới, nói một chút cảm nghĩ của mình về chuyện Trịnh Công Sơn lên Ðài Phát thanh Sài-gòn, ca bài Nối Vòng Tay Lớn.

Hãy nhớ lại bối cảnh Sài-gòn lúc ấy. Hỗn loạn. Cướp bóc. Mất niềm tin. Mất hướng đi. Căng thẳng. Sợ hãi. Tuyệt vọng. Buồn bã. Kéo dài trong nhiều ngày. Nhiều người có phương tiện, may mắn, đã tuôn chạy trước. Nhiều người phải di tản mấy lần, từ Huế vào Ðà Nẵng, từ Ðà Nẵng vào Nha Trang, từ Nha Trang vào Sài-gòn, để rồi cuối cùng, miền Nam cũng mất. Ai làm mất? Chính quyền? Quân đội? hay là dân? hay là vì mấy anh nghệ sĩ? Ðừng đổ lỗi cho riêng ai cả. Tất cả chúng ta, những người đã trưởng thành vào giai đoạn đó, đều có trách nhiệm đối với nỗi tang thương đau khổ của đất nước. Cho dù Trịnh Công Sơn không hát bài Nối Vòng Tay Lớn năm 1975 và không sáng tác bài đó vào cuối thập niên 1960, thì tình thế cũng chẳng thay đổi gì cả. Cả một bộ máy chính quyền từ trung đến cao cấp, cho đến hàng tướng lãnh, sĩ quan quân đội của mọi binh chủng… tan hàng chạy hết, bỏ lại nhân dân và những người nghệ sĩ tay không tấc sắt tự vệ như chúng tôi để đối phó với xe tăng và súng đạn. Chúng tôi sẽ làm gì? Một nửa trong số chúng tôi (người dân) không biết cộng sản là gì; một nửa khác thì biết, nhưng biết thì sao chứ? Làm được gì? Chỉ đứng sững ra mà nhìn, mà nghe thôi. Trong cái thời điểm mà chúng tôi hoang mang chẳng biết phải phản ứng thế nào trước một biến cố bất ngờ và kinh hoàng ấy, Trịnh Công Sơn đã cất lên tiếng hát của ông. Nối Vòng Tay Lớn. Lời ca ấy, vừa trấn an chúng tôi, những người bên phía thua trận, vừa nhắc nhở những người chiến thắng, rằng chúng ta là anh em cả, đừng sợ hãi nhau, đừng làm tổn hại nhau, mà hãy yêu thương nhau, nắm chặt tay nhau, nối vòng tay lớn của anh em hai miền. Dù miền Nam thắng hay miền Bắc thắng, Trịnh Công Sơn cũng sẽ lên Ðài phát thanh Sài-gòn hoặc Hà-nội để ca bài ca ấy. Tôi tin như vậy.

Cho dù bạn nói rằng Trịnh Công Sơn đã hát để đón rước chào mừng cách mạng hay Trịnh Công Sơn đã lầm về bản chất của những người bên kia chiến tuyến, vân vân và vân vân, tôi vẫn cứ tin rằng, Trịnh Công Sơn đã làm đúng thiên chức của một người nghệ sĩ đứng trên mọi phe phía. Vào cái thời điểm căng thẳng, ngột ngạt mà có lẽ chính bản thân bạn và chúng tôi cũng thế, run rẩy, dè dặt, rút vào bóng tối, thì Trịnh Công Sơn một mình, một cây đàn, đứng lên giữa bao họng súng ngờm ngờm tiến vào thủ đô miền Nam, cất tiếng hát chân thành tha thiết, nói lên ước vọng chung của người dân hai miền. Nên nhớ rằng lúc ấy người thắng trận chưa thành lập được chính phủ lâm thời, và Trịnh Công Sơn vốn bị chính quyền miền Bắc lên án là ủy mị chứ không phải là anh đã được công nhận đâu. Vậy mà anh đã dám lên Ðài Phát thanh hát. Không phải là lời hát chào mừng mà là lời kêu gọi của bao dung, tha thứ, yêu thương. Lời anh ca làm yên lòng người dân chúng tôi và làm chùng đi những tay súng. Bài ca của anh, không phải chỉ đẹp và ý nghĩa ở thời điểm ấy, mà còn đẹp suốt chiều dài ước vọng của người dân Việt-nam.

“Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Bàn tay ta nắm nối laị một vòng Việt-nam.

    Cờ nối gió đêm vui nối ngày
    Giòng máu nối con tim đồng loại
    Dựng tình người trong ngày mới
    Thành phố nối thôn xa vời vợi
    Người chết nối linh thiêng vào đời
    Và nụ cười nở trên môi…”

Mặc cho những lời chỉ trích, lên án của một thiểu số hờn dỗi câu chuyện 27 năm xưa, trong mắt tôi, trong tim tôi, Trịnh Công Sơn vẫn lừng lững một mình, đi con đường của anh, như một “tên tuyệt vọng” rất tuyệt vời, đóng góp rất nhiều mà coi như không. “Nhưng tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau.” (TCS, sách đã dẫn, tr. 271)

Tuyệt vọng đi-về giữa cuộc đời băng hoại mà từng lời, từng chữ của anh vẫn thể hiện nguyên vẹn lòng bao dung, tha thứ. Cho dù bạn tiếp tục nguyền rủa anh, kết án anh thế này thế kia, thì anh cũng đã tha thứ bạn từ lâu rồi. Nhưng nhiều người khác, phần đông người khác, đều cảm ơn anh, mang ơn anh, không phải chỉ riêng bài Nối Vòng Tay Lớn của 27 năm trước, mà tất cả những bài ca của anh đã để lại cho đời. Tên tuyệt vọng ấy, chẳng xoay chuyển nổi thời cuộc, chỉ hót chơi trên đầu những ngọn lau thôi, mà đã cứu lấy nhiều người, và trong một ý nghĩa nào đó, đã cứu lấy cuộc đời cằn khô, khổ lụy.

[footer]

Mùa Xuân, Làng Lúa, Làng Hoa (Ngọc Khuê)

Tiếp nối dòng nhạc xuân, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu một bài hát rất phổ biến thời “bao cấp”, những năm 1980: bản “Mùa xuân, làng lúa, làng hoa” của nhạc sỹ Ngọc Khuê, một nhạc sỹ sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Không gian chúng ta sống có thể khác nhau, chính kiến chúng ta có thể khác nhau nhưng cảm nhận về mùa Xuân thì ngàn đời vẫn vậy. Đó là thời khắc giao mùa, là lúc muôn hoa đua sắc, đất trời thay đổi để cho lòng mình cũng thay rộn rã giao hòa với cảnh vật và con người xung quanh!

Mùa xuân, làng lúa, làng hoa (Ngọc Khuê). Ảnh: NguoiDuaTin.vn
Mùa xuân, làng lúa, làng hoa (Ngọc Khuê). Ảnh: NguoiDuaTin.vn

NHẠC SỸ NGỌC KHUÊ: VỚI “MÙA XUÂN, LÀNG LÚA, LÀNG HOA”
(Nguồn: tác giả Nguyễn Thanh Bình đăng trên HaNoiMoi.com.vn ngày 17/01/2010)

(HNM) – Ở phía bắc Thủ đô, làng lúa giờ không còn và làng hoa bị thu hẹp nhưng mỗi khi Tết đến, ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” của nhạc sỹ Ngọc Khuê lại vang lên, nó gợi lại những gì mượt mà, đẹp đẽ của một thời. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhạc sỹ Ngọc Khuê, tác giả của ca khúc này.

Nhạc sỹ Ngọc Khuê. Ảnh: LangLuaLangHoa.com
Nhạc sỹ Ngọc Khuê. Ảnh: LangLuaLangHoa.com

– Thưa nhạc sỹ Ngọc Khuê, nhiều người đã nghe ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” của ông, nhưng vẫn biết rất ít về ông?

– Quả đúng như vậy. Dù trước và sau khi viết “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” tôi cũng đã sáng tác tới gần 300 bài hát, trong đó có ca khúc “Hạt nắng hạt mưa” từng đoạt giải thưởng… nhưng nhiều người khi cứ nhắc tới Ngọc Khuê là nhớ tới “Mùa xuân, làng lúa làng hoa”. Có người còn gọi tôi là “ông làng lúa làng hoa” nữa (cười). Tôi sinh năm 1947, là con thứ 5 trong một gia đình có 6 anh chị em ở Hoài Đức (nay là Hà Nội). 18 tuổi, tôi bắt đầu rời quê hương, gia đình để bước vào cuộc đời quân ngũ, sau đó trở thành một trong những người lính pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng. Rồi tới năm 1974 thì được chuyển về Đoàn Văn công Phòng không – Không quân, làm diễn viên hát. Rồi gắn bó với Quân chủng Phòng không – Không quân đến lúc nghỉ hưu.

– Ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” được ông viết trong hoàn cảnh nào?

– Như nhiều nhạc sỹ khác, từ lâu tôi muốn viết một ca khúc về Hà Nội, đặc biệt là về mùa xuân Hà Nội, nhưng viết mãi mà chưa thành. Tôi muốn ca khúc ấy sao cho nó là của riêng nhưng mọi người vẫn có thể thấy mình trong đó. Cho tới một chiều mùa đông năm 1981, khi đạp xe đi thăm người bạn ở gần hồ Tây, tôi mới phát hiện ra rằng hồ Tây không chỉ có hoa. Phía bên Xuân La, Xuân Đỉnh còn là “làng lúa”. Lâu nay người ta thường gọi đó là những cánh đồng lúa xanh mướt hay chín vàng. Nhưng tôi muốn ví đó là những “làng lúa”. Sự “phát hiện” đó cộng với hình ảnh những “làng hoa” ấp ủ viết bấy lâu đã giúp tôi bật ra câu hát: “Lúa ơi thơm ngát cho em hát cùng người/Bởi lúa yêu cuộc đời nên xanh thắm ruộng đồng…”. Câu hát đầu tiên ấy đã xuất hiện và nhờ đó, về nhà tôi đã viết xong bài hát.

– Ông có thể nói kỹ hơn?

– Cảm xúc của buổi chiều cuối năm 1981 ngay giữa thiên nhiên đó đã giúp tôi hoàn thành đoạn chính của bài hát trước. Đến khi về nhà tôi mới ngồi viết phần đầu và phần kết của bài hát. Tôi viết hai phần này thật khó khăn, nhất là đoạn mở đầu: “Bên lúa, anh bên lúa/Cánh đồng làng ven đê/Hồ Tây xanh mênh mông, trong tươi thắm nắng chiều/Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa…”. Tôi đã thử bằng nhiều cách khác nhau để bắt đầu bài hát, cuối cùng thấy hợp lý khi lấy âm hưởng của một điệu hò để thể hiện sự lấp lánh của mặt gương hồ Tây, sự dào dạt êm ả của sóng nước, sóng lúa. Đó là một sự giao duyên tình tứ rất mộc mạc nhưng lại vô cùng đằm thắm của những đôi trai gái mà tôi nghĩ rằng chỉ có những làng mạc lâu đời, trù phú mà thanh lịch ven hồ Tây Hà Nội mới có. Rồi đến đoạn kết của bài hát, vừa là cao trào của âm nhạc vừa là một tình cảm như đột ngột bừng dậy của tình yêu đôi lứa. Đến đây thì hồ Tây chỉ còn lại như cái cớ, như điểm tựa để nhường chỗ cho tình ca, cho tình yêu và hạnh phúc của con người. Với tôi, lúa và hoa như một biểu tượng đẹp đẽ nhất của cuộc sống. Làng lúa – làng hoa, cả mùa xuân nữa dường như mới chỉ bắt đầu.

– Nghe nói bài hát này còn “nhắm” tới một cô gái?

– Quãng những năm 1978 hay 1979 gì đó, tôi có quen một cô gái và thú thật cũng rất muốn viết ca khúc để tặng. Đôi khi chúng tôi chở nhau trên chiếc xe đạp lòng vòng trên những con đường ven Hồ Tây. Tôi nảy ra ý định “mượn” những làng hoa ven hồ để làm cái cớ. Định như vậy rồi nhưng khi viết thì vẫn thấy khó, thấy không ổn. Tôi đành “gác” kế hoạch viết bài hát ấy lại.

Hồi đó, chúng tôi thường hay đặt “bí danh” cho nhau bằng những con số. Cái tên của tôi được “dịch” sang con số 12, còn tên cô ấy là số 13. Nhưng tôi biết cái “ngưỡng” để dừng lại, vì lúc đó tôi là thượng úy, đồng thời là đội trưởng đội hát và tôi đã lập gia đình được 7 năm. Vì thế, giữa tôi và “13” chỉ là những tình cảm trong sáng. Đến bây giờ, “13” cũng đã chồng con đủ đầy, hiện làm ở một Đại sứ quán tại Hà Nội, thi thoảng chúng tôi vẫn thăm hỏi nhau và coi nhau như bạn bè thân thiết.

– Ban đầu ông đặt tên bài hát là gì? Và hẳn ông sẽ đề tặng người bạn gái đó?

– Lúc đầu tôi đặt tên cho bài hát là “Làng lúa, làng hoa” vì tôi nghĩ thế là đủ. Với lại tôi rất thích chữ “làng lúa”, “làng hoa” nên đã đặt luôn cho bài hát như vậy. Viết xong bài hát, tôi sướng lắm. Tôi nhớ khi ấy có hát cho “13” nghe, cô ấy vui lắm. Bên góc bản thảo, tôi cũng trân trọng đề dòng chữ: “Tặng bạn tôi: 13” kia mà.

– Lần đầu tiên bài hát chính thức xuất hiện trước công chúng là khi nào vậy, thưa ông?

– Đó là mùa xuân năm 1982. Lúc đó tôi mang tới Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi vẫn nhớ thời điểm đó, truyền hình còn mới mẻ, nhà ai giàu thì mới có chiếc tivi đen trắng, mà thời lượng phát sóng còn hạn chế nên Đài Tiếng nói Việt Nam là nhất. Khi đó, nhạc sỹ Thế Song đang là biên tập viên chuyên mục ca nhạc của đài, nghe xong bài hát, ông khuyên tôi thêm 2 chữ “Mùa xuân” vào tên bài hát. Sau đó, ca sỹ Thanh Hoa là người đầu tiên thể hiện bài hát này. Đến bây giờ, bài hát còn gắn liền với nhiều ca sỹ khác như Trung Anh, Mỹ Lệ…

– Cám ơn nhạc sỹ về cuộc trò chuyện thú vị này! 

[footer]

Mùa Xuân Ơi (Nguyễn Ngọc Thiện)

Cùng với “Ngày Tết Quê Em” của nhạc sỹ Từ Huy, bản “Mùa Xuân Ơi” của Nguyễn Ngọc Thiện có thể nói là một sáng tác tiêu biểu cho dòng nhạc xuân sau 1975. Nhân dịp Xuân Ất Mùi 2015, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu ca khúc này.

Mùa xuân ơi (Nguyễn Ngọc Thiện). Ảnh: vietfun.com
Mùa xuân ơi (Nguyễn Ngọc Thiện). Ảnh: vietfun.com

CHUYỆN “TẾT TẾT TẾT” & “XUÂN XUÂN XUÂN”
(Nguồn: tác giả Kim Khánh viết trên nld.com.vn ngày 31/01/2014)

(NLĐO) – Cứ mỗi độ Xuân về, đi đến đâu chúng ta cũng nghe những giai điệu quen thuộc “Tết Tết Tết Tết đến rồi” của cố nhạc sĩ Từ Huy, “Xuân xuân ơi xuân đã về…” của nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện cùng nhiều ca khúc xuân bất hủ khác. Thế nhưng, không phải ai cũng biết rõ những ca khúc tuyệt vời báo hiệu năm mới này ra đời thế nào, câu chuyện của chúng ra sao…

Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện kể rằng bài Mùa xuân ơi được sáng tác năm 1995. Thật ra, trước đó, ông viết 2 ca khúc Xuân khác, trong đó bài Mùa xuân lộc mới được viết theo văn phong và phong cách miền Trung rất thịnh hành và “nổi” vào khoảng năm 1994. Nhưng năm đó, khoảng tối 28 Tết, khi đang làm biên tập phim cho hãng Phương Nam Phim, ông được một người bạn rất thân là nhạc sĩ Từ Huy rủ đi dạo đường phố tìm mua quà tặng cho bạn gái.

“Bọn tôi đi dọc đường Lê Thánh Tôn, Lê Lợi … thấy các shop bán hàng đều phát bài hát của bạn tôi, đó là bài Ngày Tết quê em – “Tết Tết Tết Tết đến rồi…” do Tam ca Áo trắng hát. Tôi thấy rất bất ngờ và thú vị vì băng cassette đó chúng tôi vừa làm xong và phát hành 1 tháng sau Noel, 28 Tết đã nghe rồi. Tôi biết là băng bán được và bài hát của bạn tôi thành công” – nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện nhớ lại.

Khi đó, bỗng nhiên trong lòng ông nảy lên khát khao cũng phải viết được một bài hát thật thành công. Đến năm 1995, ông viết bài Mùa xuân ơi. Nếu nhạc sĩ Từ Huy viết “Tết Tết Tết…” thì ông viết “Xuân xuân xuân…”. Ông không dám dùng chữ Tết, không thì bạn lại càu nhàu bảo “chú mày lấy ý tưởng của tao”. Ông viết xong Mùa xuân ơi, cũng gọi Tam ca Áo trắng đến thu nhưng chưa quay video vì chưa biết bài hát “có ăn” hay không.

Sau đó, khi ông gặp nhạc sĩ Từ Huy đề nghị dùng bài Ngày Tết quê em quay video Xuân 1995 thì nhạc sĩ này không đồng ý về vấn đề giá cả. Cuối cùng, giám đốc hãng quyết định quay video bài Mùa Xuân ơi để thế chỗ và cũng mời nhóm Tam ca Áo trắng thực hiện.

Bài hát rất thành công vì Tam ca Áo trắng diễn rất dễ thương, hát tốt. Những năm sau đó, người ta hát bài này rất nhiều, Tam ca Áo trắng được mời đi diễn ở đâu cũng hát bài đó. Còn bài Ngày Tết quê em, một thời gian sau ông mới thuyết phục được bạn dựng video.

“Tôi viết bài Mùa xuân ơi nhanh lắm, vì thật ra, năm đó tôi cũng không định viết vì bài Mùa xuân lộc mới vẫn đang rất thịnh hành. Tôi nhớ trước nữa có bài Hoa Xuân Ca của Trịnh Công Sơn cũng rất hay, sau đó đến bài Lời tỏ tình mùa Xuân của Thanh Tùng cũng rất nóng rồi mới đến bài của tôi. Ít có người nào hát đơn bài Mùa Xuân ơi mà thường nhiều người hát, vì nguyên bản tôi đã dựng ca khúc này để hát nhóm và do Tam ca Áo trắng thể hiện đầu tiên. Sau này, cũng có nhiều ca sĩ hát lại, tôi thích thú vì anh em sau này phối nhạc hay hơn thời trước. Những nhạc sĩ phối nhạc bây giờ giỏi vi tính và phần mềm, phối không thua gì Hàn Quốc” – nhạc sĩ Ngọc Thiện nói.

Nhạc sỹ Nguyễn Ngọc Thiện. Ảnh: nld.com.vn
Nhạc sỹ Nguyễn Ngọc Thiện. Ảnh: nld.com.vn

Nói về hoàn cảnh sáng tác nhạc xuân ngày đó, nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện hồi tưởng: “Hồi nhỏ trong xóm lao động, cuộc sống của gia đình tôi rất tiết kiệm, ăn để cho no chứ không phải cho ngon, chỉ có Tết thì ăn ngon. Có những hình ảnh bây giờ bạn thấy bình thường nhưng thời đó bọn tôi thấy dưa hấu hay mứt là thích lắm, vì hồi xưa ngày Tết mới có những món đó”.

“Lúc nhỏ tôi rất mê Tết, khi lớn lên làm biên tập thì ca khúc Xuân thiếu thốn bộn bề vì thời đó chưa cho phép nhạc Xuân trước 1975 lưu hành, có những bài kháng chiến như Xuân chiến khu năm nào cũng dựng, sau đó may là cóHoa Xuân ca của Trịnh Công Sơn và Lời tỏ tình mùa Xuân. Tôi động viên mọi người cứ viết ca khúc dù không biết ca khúc có “đứng” được hay không vì một năm có một lần thôi”.

Theo nhạc sĩ Ngọc Thiện, đặc thù của mùa Tết Việt Nam là Tết đoàn tụ. Dù có đi đâu xa, đến ngày Tết tất cả đều trở về, dù nghèo, giàu hay bận rộn ở phương trời nào đó. Đó cũng là một cái tứ để anh em viết ca khúc. Ông thích viết về nhận thức đường phố thế nào, lòng người ra sao, có những người lúc nào cũng suy tư, bi ai nhưng đến ngày Tết tạm gác bỏ mọi thứ để tận hưởng niềm vui. Không riêng ông mà các nghệ sĩ viết nhạc Xuân ngày xưa đều viết về đề tài xã hội.

Ông thấy những ca khúc Xuân thành công là những ca khúc đi vào đề tài xã hội, còn chuyện tình yêu đôi khi chỉ là cái cớ thôi. Những nhạc sĩ thành công về nhạc Xuân như Lê Dinh hay Văn Phụng cũng viết về đề tài xã hội như trong ca khúc Xuân họp mặt – một bài hát ý nghĩa rất truyền thống của Tết Việt Nam.

[footer]

Văn Cao với ca khúc ‘Mùa Xuân Đầu Tiên’ (Văn Thao)

[dongnhacxua.com] đã có một bài viết về hai bản nhạc xuân đặc sắc có cùng tên ‘Mùa Xuân Đầu Tiên’ của Tuấn Khanh và Văn Cao, hai nhà nhạc sỹ ở hai bên chiến tuyến, sáng tác ở hai thời điểm khác nhau.  Hôm nay, nhân dịp Xuân Ất Mùi 2015, chúng tôi xin gởi đến quý vị yêu nhạc xưa thêm vài chi tiết thú vị về nhạc phẩm “Mùa Xuân Đầu Tiên” của Văn Cao qua bài viết của Văn Thao, con trai của chính nhạc sỹ Văn Cao.

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao). Ảnh: http://baicadicungnamthang.net
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao). Ảnh: baicadicungnamthang.net

VĂN CAO VỚI CA KHÚC ‘MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN’
(Nguồn: tùy bút của Văn Thao đăng trên tapchisonghuong.com.vn ngày 03/07/2009)

VĂN THAO… Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.

Nhạc sỹ Văn Cao.
Nhạc sỹ Văn Cao.

Văn Cao ngồi bên đàn. Đôi bàn tay khô gầy của ông đang lướt trên những phím đàn ố vàng, loang lổ. Tiếng đàn ấm áp, ngọt ngào, âm vang đầy ắp căn phòng. Tôi ngồi xuống đi văng, lặng nhìn đôi vai gầy guộc của ông phủ xuống cây đàn. Mái tóc bạc dài xõa phất phơ theo tiếng dương cầm thánh thót. Những vệt ánh sáng hắt qua ô cửa óng vàng chuyển động trên đôi bàn tay. Tiếng nhạc nhẹ dần, chậm chậm tan vào không gian, mênh mang. Đôi bàn tay gầy khẽ dâng lên khỏi bàn phím và bất động trong không trung. Lát sau, Văn Cao lặng lẽ đứng dậy, nhẹ nhàng rời khỏi cây đàn. Khuôn mặt ông bất động. Hình như tâm hồn ông vẫn còn bồng bềnh trôi theo những âm thanh của bản nhạc.

– Bố! Một chút ngơ ngác rồi sau đó ông mới nhận ra tôi.

– Thao đấy hả! Con về từ bao giờ đấy?

– Từ trên trung tâm chỉnh hình Ba Vì con đến thẳng đây.

– Vết thương của con thế nào? Đi chân giả có đau lắm không?

Tôi đứng dậy kéo ống quần lên cho ông nhìn thấy chiếc chân gỗ, rồi bình thản đi quanh phòng. Ông ngồi lặng nhìn theo tôi, đôi mắt ánh lên niềm vui. Từ trong khoé mắt, một giọt lệ lăn từ từ trên đôi gò má.

– Tốt! Tốt quá rồi!… Thôi ngồi xuống đi con.

Tôi ngồi xuống bên ông. Hai cha con nhìn nhau. Tôi định nói một điều gì đó mà không được. Cổ họng cứ tắc nghẹn. Mãi lúc sau mới thốt được nên lời:

– Lâu lắm con mới lại được nghe bố đánh đàn một cách say sưa như thế này. Giai điệu đẹp quá. Bài mới sáng tác của bố đấy à?

– Ừ! Bố sáng tác bài hát này mừng Mùa xuân đầu trên đất nước mình thống nhất.

– Vậy là bố lại sáng tác ca khúc?

Ông nhìn tôi giây lát. Hình như ông đã hiểu tôi định nói gì.

– Đúng thế.
Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng…

Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.

… Bố vừa sáng tác xong nhạc cho phim “Chị Dậu” do bác Khoa đạo diễn. Cả bản nhạc giao hưởng thính phòng cho phim “anh bộ đội Cụ Hồ” của xưởng phim quân đội.

Dư luận rất tốt. Bố phải cảm ơn con. Chính nghị lực của con đã giúp bố vượt qua được nỗi đau lúc con gặp nạn. Bố đã tưởng mất con.

Tôi thấy cay cay khoé mắt. Cổ họng tắc nghẹn.

– Thôi mà bố. Chuyện đã qua rồi.

– Bố biết! Mọi chuyện đã qua. Nhìn thấy con hôm nay bố mới thật sự yên lòng. Bố phải cố hoàn thành bài hát trong một vài ngày tới…

Văn Cao là một người cộng sản chân chính. Mơ ước và khát vọng của ông rõ ràng, cao đẹp: “Ta mơ trần gian lúc san bằng hết biên thuỳ. Chỉ còn loài người, chỉ còn tình thương trùm lên thế giới”… (BÀI CA BIÊN GIỚI). Ông tin sẽ có ngày xã hội “cùng sống tập đoàn, toàn thế giới công khai cùng kiến thiết xã hội ngày mai…” (CÔNG NHÂN VIỆT NAM). Chính vì vậy mà bao khó khăn gian khổ, bao thăng trầm đổ xuống cuộc đời vẫn không làm ông nao núng. Ông tin những việc ông làm, con đường ông đã chọn. Và ông đã đúng! Cái thời khắc “giải phóng tiến tới thống nhất” đã đến…

Ngày 30 – 4 – 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất cả dân tộc reo vui. Văn Cao im lặng. Chỉ thấy đôi mắt ông sáng lên lấp lánh.

Có một cái gì đó đang chuyển động trong đầu. Một âm thanh mơ hồ, mỏng mảnh như làn khói thoảng qua. Một tiếng gà gáy mênh mang. Một tia nắng lấp lánh… Và một cánh én. Những âm thanh, những hình ảnh chập chờn trong đầu ông rồi lại tan biến.

Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.

Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.

Sau tết. Tôi lên, ông đã đưa cho tôi xem bài MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN. Tôi vừa xướng âm, vừa lẩm nhẩm hát một cách say sưa:

“Rồi đặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường, mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông. Một tia nắng vui cho bao tâm hồn… Người mẹ nhìn đàn con nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy… Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao, trong xuân vui đầu tiên… Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người…

Lời ca thật dung dị với những hình ảnh gần gũi thân quen thấm đậm chất nhân văn. Giai điệu của bài hát đẹp, mượt mà và sâu lắng đã cuốn hút tôi. Càng hát tâm hồn ta càng thánh thiện hơn lên.

Cuối năm 1976 MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN được in trên báo sài Gòn giải phóng. Nhưng rồi số phận của nó cũng lại bị “người ta lãng quên”. Vào thời điểm đó, những bài hát mang tính Tụng ca ồn ào đang chiếm lĩnh diễn đàn.

Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.”

Mãi hai mươi năm sau, MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN mới được các “Nhà Đài nước ta” dàn dựng và phát sóng. Từ đó đến nay MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN ngày càng được đông đảo công chúng yêu thích.
MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN của Văn Cao đã khẳng định được giá trị đích thực của nó.

V.T
(179-180/01&02-04)

[footer]

Ly rượu mừng (Phạm Đình Chương)

 Ngày 20/02/2015:
Hôm nay là mùng 2 tết Ất Mùi. Chúng tôi vừa nhận vài phản hồi của người yêu nhạc về bản “Ly Rượu Mừng” của nhạc sỹ Phạm Đình Chương. Bài viết “Bình phẩm về ca khúc Ly Rượu Mừng” bên dưới là thể hiện ý kiến riêng của tác giả. [dongnhacxua.com] xin trích đăng để người yêu nhạc có thêm “món ăn tinh thần” nhân dịp xuân về.

Ngày 01/01/2014:
Chúng ta vừa bước qua những thời khắc đầu tiên của năm mới 2014. Chắc hẳn giai điệu quen thuộc của bản ‘Happy New Year’ của ban ABBA vẫn còn văng vẳng đâu đó. Một sự thật mà chắc quý vị nào cũng sẽ đồng ý với chúng tôi là ‘Happy New Year’ đã trở thành một món ăn tinh thần không thể nào thiếu được trong dịp năm mới.

Thế nhưng để chọn một bài nhạc xuân đặc trưng nhất cho người Việt chúng ta thì [dongnhacxua.com] không ngần ngại chọn bản ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương.

Theo nhiều tài liệu trên internet thì ‘Ly rượu mừng’ được viết vào năm 1955 nhưng theo tờ nhạc mà chúng tôi sưu tầm được thì bản này được quán nhạc Minh Phát cho in vào năm 1966.  Cho dù viết vào năm nào thì chắc chắc nhạc phẩm này cũng ra đời trong thời đất nước bị chia cắt và người dân còn sống trong cảnh binh đao khói lửa. Đó cũng là lý do mà nhạc sỹ Phạm Đình Chương đã ưu ái dành nhiều đoạn cho ‘người binh sỹ’ và thiết tha mong một ngày đất nước thanh bình.

Với thể điệu valse dìu dặt, cùng nét nhạc tài tình và ca từ đặc sắc, ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương xứng đáng được xưng tụng là bản nhạc xuân tuyệt vời nhất của dòng nhạc Việt.

Ly rượu mừng (Phạm Đình Chương). Ảnh: sachxua.net
Ly rượu mừng (Phạm Đình Chương). Ảnh: sachxua.net

ly-ruou-mung--1--pham-dinh-chuong--sachxua.net--dongnhacxua.com

ly-ruou-mung--2--pham-dinh-chuong--sachxua.net--dongnhacxua.com 

BÌNH PHẨM VỀ CA KHÚC “LY RƯỢU MỪNG”
(Nguồn: trích đăng bài viết của tác giả Cao Đắc Tuấn)

Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là bài hát thịnh hành trong dịp Tết. Bài hát mời mọi người cùng uống rượu mừng Xuân và nói những lời chúc Tết đến toàn dân và đất nước. Tuy bài hát không mô tả những cảnh tượng và sinh hoạt Tết như pháo nổ, hoa tươi sặc sỡ, bánh kẹo, bài hát tiêu biểu cho Tết Việt Nam vì chúc Tết là một tục lệ quan trọng trong Tết Việt Nam. Cộng với điệu nhạc vui tươi, giai điệu tiết tấu sống động, và lối diễn tả bình dị với vài điểm đặc sắc, “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ trong dịp Xuân về.

Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của “Ly Rượu Mừng.” Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc, nhưng sẽ có phần nói về các khía cạnh âm nhạc của bài hát. Tôi dùng “khán giả” để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.

“Ly Rượu Mừng” tiêu biểu cho nhạc Xuân vì bài hát chú trọng vào lời chúc Tết và có điệu nhạc vui tươi sống động

 “Ly Rượu Mừng” có nội dung đơn giản, là ca khúc mừng xuân với những lời chúc Tết tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do. Bài hát không có những mô tả hình ảnh hoặc sinh hoạt trong những ngày quanh dịp Tết (thí dụ, pháo nổ, màu hoa sặc sỡ, kẹo bánh) nhưng rất tiêu biểu cho ngày Tết Việt Nam. Đó là vì bài hát chú trọng vào điểm quan trọng nhất trong dịp Tết: chúc Tết. Ngoài ra, bài hát được viết với điệu nhạc Valse, đem lại nét vui tươi sống động trong mùa Xuân. Giai điệu vả tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

“Ly Rượu Mừng” gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do:

 Bài hát mở đầu với lời mời nâng chén rượu để chúc mọi người ở khắp nơi (“Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi“), từ anh nông phu được mùa lúa thơm, người buôn bán có lợi tức, cho tới công nhân lao động thoát được cảnh nghèo khó (“Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi/ Người thương gia lợi tức/ Người công nhân ấm no/ Thoát ly đời gian lao nghèo khó.”) Với các chữ “nông (phu),” “thương (gia),” và “công (nhân),” ta không thể không liên tưởng đến “sĩ nông công thương,” được coi là bốn giai cấp xã hội Việt Nam thời xưa. Không rõ tại sao Phạm Đình Chương bỏ “sĩ” (người học hành). Trong đoạn sau, ông có nhắc đến “sĩ,” nhưng đó là “nghệ sĩ” là những người sinh sống qua nghệ thuật, chứ không phải là những người sinh sống qua học hành hoặc hành nghề chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Có thể lúc bấy giờ, số người “sĩ” không nhiều trong xã hội bằng ba giới “nông, công, thương.”

 Với “nâng chén,” tác giả mở đầu bằng hành động giơ cao ly rượu khi chúc mừng. Tác gỉả dùng “chén” và “ly” như nhau trong toàn bài hát. Ta nên nói thêm về “chén” và “ly” trong tiếng Việt.

 Chữ “chén” có nhiều nghĩa trong tiếng Việt. Nghĩa thông thường của “chén” là vật dùng để uống nước, rượu, trà, thường bằng sành hay sứ. Một chữ có nghĩa tương tự là “tách” (do tiếng Pháp “tasse”) nhưng “tách” thường có tay cầm trong khi “chén” thường không có tay cầm. Nghĩa thứ hai là vật dùng để ăn, như chén cơm, chén cháo. Trong nghĩa này, người miền Nam dùng “chén” thay cho “bát” hoặc “tô” mà người miển Bắc thường dùng. “Chén” còn có thể dùng với nghĩa bóng, hàm ý chứa đựng ý tưởng, tâm tình (như “chén tình” trong bài hát).

Ngoài ra, tiếng Việt ta dùng “nâng chén” và “nhấc ly” chứ không dùng “nâng ly” hoặc “nhấc chén.” Đó là vì “nâng” là hành động trịnh trọng, hàm ý dùng sức (thực sự hay bề ngoài). Trong lúc uống rượu bằng chén thời xưa, người ta thường dùng hai tay để “nâng” chén rượu mời với ngụ ý trịnh trọng hoặc bày tỏ sự kính trọng. “Nâng” trong “nâng khăn sửa túi” hoặc tiếng lóng “nâng bi” có ý nghĩa kính cẩn trịnh trọng tương tự. Ngoài ra, vì chén thường không có tay cầm, dùng hai tay để “nâng” chén giữ cho chén thăng bằng, không đổ hoặc rớt. Ngược lại, “ly” thường có hình thể thon dài, có bầu sâu chứa rượu và chân ly dài, và nhẹ, nên cầm ly dễ dàng và không dùng sức nhiều. Do đó, khi đưa ly rượu lên cao, người ta thường dùng một tay để “nhấc” thay vì “nâng.” 

 Trở về với “Ly Rượu Mừng,” mọi người cùng nhấp chén rượu đầy vơi, chúc vui mọi người (“Á A A A Nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui.”) Trong dịp Xuân về, ai cũng nao nao với những mối duyên nợ cuộc đời (“Á A A A Muôn lòng xao xuyến duyên đời.”) Với quãng “Á A A A,” bài hát khuyến khích mọi người cùng ca. Có lẽ đó là lý do “Ly Rượu Mừng” thích hợp cho hợp ca và trong cuộc họp mặt đông người khi mọi người cùng nâng ly rượu chúc lẫn nhau.

 Ly rượu được rót tràn đầy để chúc người binh sĩ lên đường ra nơi trận mạc xa xôi được thành công, làm tươi sáng cuộc đời dân lành (“Rót thêm tràn đầy chén quan san/ Chúc người binh sĩ lên đàng/ Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành/ Mừng người vì nước quên thân mình.”) Ta hiểu “quan san” là quan ải và núi non, thường để chỉ những nơi xa xôi, hoặc ở biên giới, đồn trú cho binh lính. Lời chúc cũng được gửi tới những bà mẹ già nơi xa xôi, nhớ thương con cháu mong mỏi được gặp lại người con đi xa, sẽ có dịp gặp lại con trở về hội ngộ chan hòa niềm yêu thương (“Kìa nơi xa xa có bà mẹ già / Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa/ Chúc bà một sớm quê hương/ Bước con về hòa nỗi yêu thương.”) Mọi người cùng hát bài hát vui vẻ làm tươi thắm đời người chiến sĩ, và để cho người mẹ già không còn lo âu buồn bã vì con nữa (“Á A A A Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính/ Á A A A Chúc mẹ hiền dứt u tình.”)

 Ly rượu mừng cũng gởi đến những cặp tình nhân hoặc vợ chồng đang xây tổ ấm cùng nhau (“Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương/ Xây tổ ấm trên cành yêu đương.”) Điều đó không có nghĩa là chúc mừng những cặp vợ chồng mới cưới. Ta biế̉t ít ai làm đám cưới trong mùa Xuân vào dịp Tết. “Đôi uyên ương” chỉ có nghĩa cặp tình nhân, hoặc cặp vợ chồng trẻ đang tạo dựng gia đình nhỏ. Với người nghệ sĩ, chúc mừng họ đem lời ca, tiếng nhạc, câu thơ văn, và nét họa tô điểm cuộc đời thêm mới mẻ tốt đẹp (“Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ/ Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới.”) Như trình bày ở trên, “nghệ sĩ” đây không phải là giai cấp “sĩ” trong “sĩ nông công thương” mà là những người theo ngành nghệ thuật như nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, ̣điêu khắc gia, v.v.

Nhưng lời chúc thiêng liêng nhất là lời chúc cho đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, thịt rơi máu đổ. Đó là ngày quê hương được yên vui và những người lính trở về với chén rượu ấm chứa chan đầy tình thương yêu (“Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng/ Chúc non sông hòa bình, hòa bình/ Ngày máu xương thôi tuôn rơi/ Ngày ấy quê hương yên vui/ đợi anh về trong chén tình đầy vơi.”) Có thể đây là lý do ca khúc “Ly Rượu Mừng” không còn được thịnh hành tại Việt Nam hiện nay nữa, vì lời chúc hòa bình có vẻ mất ý nghĩa. 

Mọi người hãy cùng nhấc cao ly rượu, chúc cho tương lai sáng sủa tràn đầy tự do, đất nước thanh bình, và mọi người được hạnh phúc tràn trề (“Nhấc cao ly này/ Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự Do/ Nước non thanh bình/ Muôn người hạnh phúc chan hòa.”) Trước hết, ta để ý tác giả dùng “nâng chén” và “nhấc cao ly rượu” (thay vì “nâng ly” hoặc “nhấc chén”) như đã đề cập ở trên. Thứ nhì, trong phiên khúc này, tác giả chúc đất nước tự do và thanh bình. Ta phải hiểu Phạm Đình Chương ngụ ý cầu mong nước non thanh bình và sáng trời tự do cho toàn thể đất nước Việt Nam từ Nam ra Bắc. Phạm Đình Chương lúc nào cũng tưởng nhớ đến miền Bắc. Tên hát của ông là Hoài Bắc, nói lên tâm tư này. 

 Tổng kết, mọi người mơ ước hạnh phúc ở khắp mọi nơi và hương thơm thanh bình đang dâng cao (“Ước mơ hạnh phúc nơi nơi/ Hương thanh bình dâng phơi phới.”) “Phơi phới” hàm ý một khí thế đang lên. Lời chúc “thanh bình” gồm cả “hòa bình” lẫn yên tĩnh, và do đó có ý nghĩa mạnh mẽ hơn “hòa bình.”

 “Ly Rượu Mừng” là một ca khúc đơn giản, gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do. Bài hát có nhiều khía cạnh khác biệt với những bài hát khác về Xuân.

Tuy không mô tả cảnh tượng hoặc không khí Xuân, “Ly Rượu Mừng” tiêu biểu cho ngày Tết vì chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất trong Tết Việt Nam:

 Ca khúc “Ly Rượu Mừng” thuần túy là những lời chúc Xuân cho mọi người và đất nước. Bài hát hoàn toàn không có mô tả cảnh tượng đón Xuân, hoặc các trang lễ, chuẩn bị, và không khí của những ngày Tết theo truyền thống Việt Nam. Phạm Đình Chương cố tình gạt bỏ những hình ảnh về Xuân, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất là chúc Tết. Cả toàn bài hát không hề có các cảnh tượng thiên nhiên mùa Xuân như màu sắc hoa (mai, đào), mùi hương thơm hoa, nắng vàng, gíó ngàn, tiếng chim hót; hình ảnh đón Tết và trang hoàng trong nhà như bếp hồng, bánh dầy, bánh chưng, kẹo mức, hạt dưa, trái cây, cây nêu; cảnh tượng đường phố như trẻ em khoe quần áo mới, người đi nườm nượp, phố phường đông đúc; các hình ảnh và âm thanh Tết như pháo nổ đì đùng, trống đập múa Lân, phong bì đỏ lì xì, tiếng nhạc ca hát mừng Xuân, v.v.

 Những bài hát khác về Xuân luôn luôn có, không nhiều thì it, những hình ảnh hoặc gợi ý cho cảnh Xuân và không khí đón Tết. Thí dụ như: “Rừng hoa mai đua nở” (“Tâm Sự Nàng Xuân” của Hoài Linh); “Ngắm vườn bên thấy mai đào nở,” (“Nghĩ Chuyện Ngày Xuân” của Song Ngọc); “Hoa lá nở thắm,” “hoa đào hồng thắm,” (“Cánh Thiệp Đầu Xuân” của Minh Kỳ & Lê Dinh); “Hoa đào hoa mai,” “trẻ thơ khoe áo xinh xinh,” “mứt vàng hạt dưa,” “bánh dầy bánh chưng,” “phong bì thắm tươi” (“Ngày Tết Việt Nam” của Hoài An); “chim hót mừng,” “Lập lòe tà áo xanh xanh,” “đàn chim non xinh xinh tung bay,” “tiếng pháo đì đùng,” “Ngàn hoa hé môi cười vui” (“Xuân Đã Về” của Mink Kỳ); “cánh hồng tươi thắm,” “Muôn sắc khoe tươi,” “Nồng ngát hương thơm” (“Gió Mùa Xuân Tới” của Hoàng Trọng); “nụ hoa vàng mới nở,” “lộc non vừa trẩy lá,” “bầy chim lùa vạt nắng,” “rung nắng vàng ban mai,” (“Anh Cho Em Mùa Xuân” của Nguyễn Hiền, thơ Kim Tuấn); “mai đào nở vàng bên nương,” “pháo giao thừa rộn ràng,” “trông bánh chưng ngồi chờ sáng,” “cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe phố phường” (“Xuân Này Con Không Về” của Trịnh Lâm Ngân); “nắng vàng,” “nâng phím đàn cùng hát ca,” (“Xuân Họp Mặt” của Văn Phụng).

 Thực ra, cả toàn bài “Ly Rượu Mừng,” chỉ có một chữ “Xuân” duy nhất trong câu đầu. Nếu bỏ chữ “Xuân” này và thay bằng một chữ khác như “vui,” cả toàn bài chỉ hoàn toàn nói về chúc tụng mọi người và đất nước, và không có một chút xíu gì về Xuân hoặc Tết cả. Nhưng có thật là vậy không?

 Tại sao “Ly Rượu Mừng” luôn luôn được coi là bài hát tượng trưng cho dịp Xuân về, Tết đến?

 Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng có thể gây ngạc nhiên: Chính lời chúc tụng là đặc tính độc đáo của Tết Việt Nam.

 Tết Việt Nam có thể không có cảnh tượng thiên nhiên như chim hót, nắng vàng, gió mát, hoặc những hoạt động nhân tạo như pháo nổ, múa rồng, múa lân, hoa mai, hoa đào, bánh chưng, kẹo mứt, quần áo mới, tiếng hát Xuân, phong bì đỏ lì xì.

 Nhưng Tết Việt Nam không thể nào không có lời chúc Tết.

 Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau gần như là căn bản sinh hoạt ở xã hội Việt Nam. Người Việt hình như bị ám ảnh với chúc tụng. Người ta chúc nhau trong bất kỳ dịp nào: sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, sinh đẻ, thi cử (trước và sau khi thi), thăng quan tiến chức, mua sắm đồ dùng, mua nhà, mua xe, cưới hỏi, du lịch, nghỉ hè, đau ốm, ra vào bệnh viện, ra mắt tác phẩm, mở cửa hàng, nhận chức vụ mới, thuyên chuyển, trình diễn, trúng thầu, ký khế ước. Trong một buổi họp mặt, cho dù bất cứ có dịp gì, luôn luôn có người đứng lên ngỏ lời chúc mọi người. Trong một bữa tiệc, sẽ có người nói, “Chúc quý vị một bữa tiệc vui vẻ.” Trên đài phát thanh hoặc truyền hình hàng ngày, các xướng ngôn viên luôn luôn có lời chúc khán thính giả, lúc thì một ngày vui vẻ, một ngày nghỉ an toàn, hoặc một buổi tối ấm cúng với gia đình. Trong một lá thư hay một e-mail, người viết thường mở đầu hoặc kết luận bằng một lời chúc. Ngay cả trong lúc gặp nhau hàng ngày cũng có lời chúc vui vẻ hoặc mạnh khỏe. Những lời chúc nhiều khi biến thành những lời chào hỏi hàng ngày, thí dụ như “Chúc bạn một ngày vui,” tương tự như những câu nói sáo rỗng “Have a nice day!” ở Hoa Kỳ.

 Người Việt có lẽ tin tưởng vào các lời chúc tụng sẽ quả thật đem lại may mắn, sức khỏe, tiền bạc, thành công, tình yêu. Trong các dịp lễ long trọng như ngày Tết, lời chúc còn có ý nghĩa “thiêng liêng” hơn các dịp khác vì có sự tin tưởng vào thần thánh, tổ tiên ông bà hoặc những người đã khuất trong gia đình, hội họp trong dịp Tết và sẽ giúp những lời cầu chúc thành sự thật. Phong tục cổ truyền Việt Nam trong dịp Tết có nhiều tục lệ như cúng kiến, xông đất, xuất hành, chúc Tết, hái lộc, biếu quà, kiêng cữ, v.v. nhưng có lẽ chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất. Trong những ngày đầu năm, câu đầu tiên người ta nói với nhau khi gặp nhau là lởi chúc Tết. Ngay cả ngày nào đi chúc Tết ai cũng được quy định rõ rệt: “Mồng một chúc Tết mẹ cha/ Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy.”

 Do đó, tuy không có những mô tả thiên nhiên, cảnh tượng, nhà cửa, đường phố, thiên hạ, và các hoạt động Tết, ca khúc “Ly Rượu Mừng” biểu hiện một đặc tính quan trọng nhất trong Tết Việt Nam. Đó là những lời chúc Tết trong các ngày đầu năm. Tết Việt Nam sẽ mất ý nghĩa nếu không có những lời chúc Tết và do đó “Ly Rượu Mừng” luôn luôn là một ca khúc được hát trong dịp Tết hàng năm.

 Giai điệu, tiết tấu, và điệu nhạc valse thích hợp cho lời chúc mừng Xuân với nét vui tươi và sống động:

 Bài hát được viết với nhịp 3/4, dưới điệu nhạc Valse có tốc độ/ hành độ (tempo) nhanh và do đó đem lại nét sống động và vui tươi, thích hợp cho dịp vui ăn mừng ngày Tết. Nhạc sĩ thường chọn lựa điệu nhạc (tiết điệu) khi soạn nhạc. Tiết điệu là chu kỳ của các phách mạnh và yếu theo một nhịp điệu nào đó. Tiết điệu cho thấy sự liên kết nhịp nhàng trong chuyển động. Thí dụ: valse, rhumba, fox, slow, tango (Phạm Đức Huyến, 37). Ta nên biết có hai điệu nhạc Valse, hoặc Waltz theo tiếng Mỹ: Waltz chậm (slow Waltz) và Viennese Waltz. Cả hai đều có cùng nhịp điệu căn bản nhưng Viennese Waltz có tốc độ nhanh hơn Waltz chậm, có thể nhanh gấp ba bốn lần. Waltz chậm còn được gọi là Boston, do tên thành phố Boston tại Hoa Kỳ khi điệu Waltz được phát triển và du nhập qua Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 (Xem, thí dụ như, OSLH). Nhạc Việt thường dùng Boston cho Waltz chậm và Valse cho Viennese Waltz. Trong bài “Ly Rượu Mừng,” nhạc sĩ Phạm Đình Chương ghi rõ điệu Valse trên tờ nhạc, và bài hát nên được trình bày với tiết điệu nhanh và sống động của điệu Viennese Waltz.

 Giai điệu và tiết tấu của bài hát thích hợp cho hợp ca, như trong buổi họp mặt. Bài hát có những khúc trầm bổng, ngắn gọn và kéo dài tùy vào nội dung của câu hát, tạo nên nét linh hoạt và sống động. Thí dụ câu “Bạn hỡi/vang lên/ Lời chúc/ thiêng liêng” có bốn ngắt quãng với dấu nghỉ, và ở nốt cao, diễn tả lời kêu gọi mọi người cùng vang lên lời chúc. Lời kêu gọi đó được nhấn mạnh qua bốn ngắt quãng và nốt cao tạo nên khí thế thúc giục mạnh mẽ. Tương phản với câu kêu gọi thúc giục đó, câu “Kìa nơi xa xa có bà mẹ già” có cùng trường độ, nhưng không có dấu nghỉ và lời ca được kéo dài liên tục; do đó tạo ra âm hưởng êm ái nhẹ nhàng, thích hợp cho hình ảnh bà mẹ già mong chờ con.

 Bài hát gồm có những lời chúc mọi người và toàn dân đất nước. Do đó, âm hưởng bài hát sẽ có khí thế mạnh mẽ và ý nghĩa khi bài hát trình bày qua hợp ca. Tuy bài hát có thể do một ca sĩ hát, âm điệu sẽ được hay hơn nếu có nhiều ca sĩ cùng hát một lúc. Những quãng Á A A A trong bài hát là dành cho khúc hợp ca, có nhiều người đồng xướng. Bài hát cũng sẽ được trình bày linh động nếu có những khúc hát hợp ca xen kẽ những khúc hát đơn ca, hoặc hợp ca giọng nam xen kẽ hợp ca giọng nữ. Ban Hợp ca Thăng Long phối hợp kỹ thuật hợp ca và đơn ca, và hợp ca giọng nam cùng giọng nữ rất tinh vi, đem nét linh động, vui tươi, và nhiều sắc thái cho bài hát (Xem, thí dụ như, Doppelpass01 2010).

 Trong “Ly Rượu Mừng,” Phạm Đình Chương không có lối dùng chữ hoặc kỹ thuật trình bày gì đặc biệt. Bài hát có ít mỹ từ. Các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, không cầu kỳ bóng bẩy. Đó chính là điểm hay của bài hát. Bài hát gồm những lời chúc Tết cho mọi người; do đó, ngôn từ cần phải đơn giản thích hợp với bản chất bình dị và chất phác của đa số dân Việt thời bấy giờ. Không ai muốn nói những lời chúc khó hiểu hoặc bóng bẩy làm mất đi ý nghĩa chân thành của lời chúc đầu năm. Ngoài ra, vì bài hát là những lời chúc Tết và không phải là một câu chuyện hoặc tâm trạng của một người nên không có nhiều những khía cạnh kỹ thuật viết như lối trình bày, “cho thấy, đừng kể,” chú trọng vào chi tiết rõ rệt, v.v…

 Tác giả dùng những lời chúc chính xác, ̣đánh đúng vào nguyện vọng của mọi người. Với người nông phu, còn gì sung sướng hơn là ruộng lúa được mùa; thương gia buôn bán có lời nhiều; người lao động không còn nghèo khó; người chiến sĩ thành công nhiệm vụ, giúp dân lành; bà mẹ già gặp lại con trở về, hết cơn u buồn; cặp tình nhân xây tổ ấm; người nghệ sĩ tô điểm đời thêm tươi đẹp; non sông hòa bình và đất nước hưởng thanh bình tự do. Ta không thấy những lời chúc mơ hồ, sáo rỗng, máy móc, như “sức khỏe sung túc,” “sống lâu trăm tuổi,” “tài lộc dồi dào,” “con hiền dâu thảo,” “thăng quan tiến chức,” v.v…

 Tuy bài hát có lối diễn tả bình dị và đơn giản, cũng có vài điểm đặc sắc đáng ghi. Trước hết, Phạm Đình Chương trình bày cuộc uống rượu mừng là một chuỗi tác động rót rượu, nâng chén hoặc nhấc cao ly, nhấp nháp rượu, uống cạn ly, và rót thêm rượu (“nâng chén ta chúc nơi nơi / Nhấp chén đầy vơi/ Rót thêm tràn đầy chén/ Nào cạn ly/ chén tình đầy vơi/ Nhấc cao ly này“). Mỗi tác động kèm theo lời chúc mọi người. Cách mô tả đó tạo ra cảnh tượng linh hoạt sống động của một bữa tiệc khi mọi người cùng giơ cao ly rượu và chúc lẫn nhau. Thứ nhì, bài hát có vài chỗ dùng “cho thấy, đừng kể,” chi tiết rõ rệt, và ẩn dụ nhẹ nhàng. Thí dụ như “mắt vương lệ nhòa,” “máu xương thôi tuôn rơi,” “chén tình,” “thoát ly đời gian lao.” Cộng với điệu nhạc vui tươi và giai điệu tiết tấu sống động, các diễn tả này đem lại những nét chấm phá rải rác trên khắp bài hát, giúp khán giả có tâm trạng lâng lâng sảng khoái.

Kết Luận:

Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ cho Tết. Bài hát không có những mô tả thông thường về Tết như pháo nổ, hoa mai hoa đào nở, bánh kẹo trái cây, nhưng đánh đúng vào sắc thái quan trọng trong dịp Tết là chúc Tết. Ngoài ra, với điệu nhạc Valse vui tươi, giai điệu trầm bổng, tiết tấu sống động, và lời ca đơn giản, bài hát thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

 [footer]

Ngày Tết Quê Em (Từ Huy)

Trong số không nhiều những ca khúc xuân đi sâu vào lòng người sau năm 1975, [dongnhacxua.com] xin được trân trọng đặt “Ngày Tết quê em” của nhạc sỹ Từ Huy vào vị trí đầu bảng mà không sợ bị cho là quá thiên vị. Ca khúc Ngày Tết quê em do cố nhạc sĩ Từ Huy sáng tác vào năm 1994 và Tam ca áo trắng là nhóm nhạc đầu tiên thể hiện. Ca khúc bắt nguồn từ một câu hỏi nhạc sỹ Từ Huy tự vấn mình: “Tại sao ta không viết một ca khúc nói thẳng vào cái ngày thiêng liêng nhất đó của dân tộc?”. Đó là một bài hát phản ánh ngợi ca không khí vui vẻ, phấn chấn trên khắp nẻo đường đất nước.

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ TỪ HUY
(Nguồn: wikipedia.org)

Nhạc sỹ Từ Huy. Ảnh: wikipedia.org
Nhạc sỹ Từ Huy. Ảnh: wikipedia.org

Từ Huy, tên khai sinh là Tạ Từ Huy (15 tháng 10 năm 1948[1]10 tháng 9 năm 2006), quê ở Điện Bàn, Quảng Nam, là một nhạc sĩ Việt Nam.

Từ Huy vốn học Đại học Văn khoa Sài Gòn, Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Ông đã từng có những bài thơ yêu nước in trên các tạp chí Đối diện, Văn…. Sau năm 1975, Từ Huy đi vào sáng tác ca khúc. Ông là lớp nhạc sĩ đầu tiên trưởng thành sau 1975 [2].

Ngay từ những tác phẩm đầu tiên mang chất nhạc trẻ như Những lời em hát, Mùa xuân tình yêu… đã được giới thanh niên đón nhận. Những năm sau đó, ca khúc Từ Huy xuất hiện nhiều trên các sàn diễn như Chiều thứ bảy, Lời yêu thương, Một thoáng quê hương, Mong đợi ngậm ngùi, Ngày em đến

Là một trong bảy nhạc sĩ thuộc nhóm Những người bạn, Từ Huy vừa sáng tác vừa tổ chức Câu lạc bộ Nhạc sĩ nhằm giới thiệu các tác phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ và giới thiệu các ca sĩ trẻ.

Từ Huy đã xuất bản nhiều tuyển tập thơ, ca khúc và album tác giả. Ông từng là hoạ sĩ báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh và là thư ký toà soạn tờ Thế giới Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Ông mất tại Bệnh viện Chợ Rẫy sau một thời gian lâm bệnh [2].

[footer]