Thành Phố Buồn (Lam Phương)

Những ngày cuối tháng 12/2014, Dòng Nhạc Xưa có dịp trở lại Đà Lạt để tham gia đêm nhạc của vài anh chị thân hữu. Đã đến và đi nhiều lần nhưng cá nhân chúng tôi lần nào cũng lưu luyến Đà Lạt, thành phố với nhiều tên gọi: “thành phố mộng mơ”, “thành phố ngàn hoa”, … Với những ai yêu nhạc xưa thì nhắc đến Đà Lạt không thể không nói đến một cái tên khác: “thành phố buồn”. Đó cũng chính là tên của bản nhạc bất hủ của nhạc sỹ Lam Phương.

Thành phố buồn (Lam Phương). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Thành phố buồn (Lam Phương). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
thanh-pho-buon--1--lam-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
thanh-pho-buon--2--lam-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
thanh-pho-buon--3--lam-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

NHẠC SỸ LAM PHƯƠNG: “TÔI KHÔNG NGUÔI NGHĨ VỀ QUÊ CHA ĐẤT TỔ”
(Nguồn: tác giả Dạ Ly viết trên ThanhNien.com.vn ngày 18/08/2013)

Nhạc sĩ Lam Phương - Ảnh: Bến Thành Audio-Video cung cấp.
Nhạc sĩ Lam Phương – Ảnh: Bến Thành Audio-Video cung cấp.

Trong chuyến thăm Mỹ vào tháng 7 vừa qua, người viết đã có dịp nghe bạn bè nhạc sĩ Lam Phương kể về cuộc sống của ông tại miền nam California – Mỹ. Sức khỏe người nhạc sĩ tài hoa này giờ không được tốt nữa và cả giọng nói của ông cũng không còn rõ như xưa nên người viết đành gửi lại ông câu hỏi. Sau khi sức khỏe ổn định, ông đã trả lời qua email.

Nghe nói ông đã trải qua đợt tai biến, hiện tại sức khỏe của ông thế nào?

Ở cái tuổi hơn bảy bó rưỡi rồi, lại bị ảnh hưởng tai biến, nên sức khỏe của tôi cũng không thể nào như người bình thường được. Hiện nay, nhờ trời thương cùng bà con quan tâm, nên sức khỏe của tôi vẫn ở tình trạng… lúc mưa lúc nắng, đi đứng khập khễnh, nói năng vấp váp vậy thôi.

Nhạc sĩ Lam Phương có rất nhiều bài hát được yêu mến. Nhưng có lẽ với ông, bài viết năm 15 và 17 tuổi (Chiều thu ấy, Kiếp nghèo) hẳn đã để lại nhiều dấu ấn nhất. Vì đâu một người trẻ như ông lúc đó lại có thể viết nên những nỗi niềm sâu sắc như vậy?

Lớn lên giữa tình trạng đất nước chiến tranh đã tạo cho tâm hồn con người những rung động bi quan. Do đó, những sáng tác đầu đời của tôi cũng phản ánh tâm trạng thua thiệt. Và dĩ nhiên, đã để lại dấu ấn khá sâu đậm trong cuộc đời sáng tác của mình.

Rất nhiều người đã yêu say đắm bài Thành phố buồn. Phải chăng ông viết cho một người ‘đặc biệt’?

Không hẳn như vậy. Năm 1970, tôi theo Ban văn nghệ Hoa tình thương lên Đà Lạt trình diễn. Trước vẻ trầm lặng của một thành phố chập chùng đồi núi, sương mù bao quanh những con đường dốc quanh co, cùng nỗi cô đơn tràn ngập tâm hồn, tôi đã viết nên Thành phố buồn. Đây là một trong những ca khúc có số lượng xuất bản rất cao.

Được biết ngày xưa ông rất nghèo. Đến lúc nào thì ông vượt qua được cảnh túng thiếu? Có phải nhờ âm nhạc mà ông thoát nghèo và lạc quan hơn?

Cuộc đời tôi nhiều buồn hơn vui, thời gian nghèo khó cũng không phải là ít. Do đó, sáng tác của tôi có thể cũng chỉ là cái bóng của thân phận mình. Đứng về phương diện vật chất thì tôi đã tạm dễ thở được 5 năm từ năm 1970 – 1975. Nhưng sau đó lại tiếp tục với kiếp nghèo.

Có một thời gian nhạc của ông không buồn mà lại vui với Bài tango cho em, Cỏ úa, Ngày hạnh phúc… Đó có phải là thời điểm ông… yêu lại lần nữa nên thấy đời vui?

Như tôi trình bày ở trên, sáng tác của tôi thường thể hiện những tình cảm chân thành trong tình yêu và trước hoàn cảnh đời sống. Các ca khúc như bạn nói cũng chỉ là những bông hoa màu sắc đính trên tấm thảm tâm hồn của người nghệ sĩ sáng tác ở thời điểm đó mà thôi. Hơn nữa, những sáng tác âm nhạc của tôi luôn thể hiện tuần tự theo những khúc quanh trên đời sống của tôi như vừa lớn lên, mới biết yêu thì có: Chiều thu ấy, Chờ người, Kiếp nghèo; Tình cảnh an bình, hạnh phúc thì có: Trăng thanh bình, Khúc ca ngày mùa, Nắng đẹp miền nam… Đến khi tình cảm bị rụng rơi thì có: Cỏ úa, Thu sầu, Tình chết theo mùa đông…

Được biết ông từ Mỹ sang Pháp định cư rồi lại trở về Mỹ. Trong 10 năm qua ông có hạnh phúc không?

Di chuyển nơi ăn chốn ở, dù là của người nghệ sĩ, cũng bình thường mà thôi. Mặc dù không gian có đổi thay, thời gian có biến chuyển, nhưng tình yêu nghệ thuật vẫn âm ỉ trong tôi. Và nơi trái tim tôi, luôn tồn tại những nhịp đập yêu thương. Hạnh phúc nhất mà lúc nào tôi cũng cảm thấy là luôn được nhiều người thương cảm mình và yêu thích tác phẩm của Lam Phương.

Nghe nói Bến Thành Audio -Video đang dự định mời ông về làm live show đầu tiên tại Việt Nam vào cuối năm. Ông có dự định trở về?

Tháng 12 vừa qua, tôi có đi Úc trình diễn, nhưng đó là chuyện về trước. Giờ, tôi đã lớn tuổi rồi, không bao lâu nữa đã bát thập niên, lại thêm đi đứng khó khăn, ngồi xe lăn thường trực, nói năng chậm chạp, có lẽ sẽ khó tham dự được live show do Bến Thành Audio-Video tổ chức. Về hay không về thì lòng tôi lúc nào cũng không nguôi nghĩ về quê cha đất tổ, đến những người thân thương, những khán thính giả, bạn bè bằng hữu quý mến mình. Tôi cầu mong an lành và hạnh phúc thường trực ở với mọi người.

Nhạc sĩ Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng. Ông sinh ngày 20.3.1937 tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Ông bắt đầu sáng tác từ năm 15 tuổi. Ngoài âm nhạc, ông còn cộng tác với Ban kịch Thẩm Thúy Hằng và Ban kịch Sống của kịch sĩ Túy Hồng. Trước khi bị tai biến mạch máu não ông sống tại Mỹ, sau đó ông sang Pháp và năm 1995 ông về sống tại Mỹ với sức khỏe có phần yếu đi. Ông có đến hơn 200 tác phẩm được khán giả yêu mến. Trong đó có nhiều bài được người yêu nhạc thuộc nằm lòng: Chiều thu ấy, Kiếp nghèo, Từ ngày có em về, Tình đẹp như mơ, Thao thức vì em (Em là tất cả), Thành phố buồn, Bài tango cho em, Biển tình, Chỉ có em, Cỏ úa, Đèn khuya, Duyên kiếp, Em đi rồi, Giọt lệ sầu, Khóc thầm, Lạy trời con được bình yên, Xin thời gian qua mau, Ngày hạnh phúc…

Mùa Sao Sáng (Nguyễn Văn Đông)

Trong không khí Giáng Sinh vẫn còn đây đó, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Mùa Sao Sáng” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông, cũng chính là tác giả Phượng Linh của “Bóng nhỏ giáo đường” nổi tiếng mà chúng tôi đã có lần đề cập.

Mùa sao sáng (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa sao sáng (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

mua-sao-sang--1--nguyen-van-dong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-sao-sang--2--nguyen-van-dong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-sao-sang--3--nguyen-van-dong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

MÙA GIÁNG SINH TRONG TÂN NHẠC VÀ TÂN CỔ GIAO DUYÊN CỦA NGUYỄN VĂN ĐÔNG
(Nguồn: tác giả Phan Anh Dũng sưu tầm và đăng trên CoThomMagazine.com)

Mùa sao sáng (phiên bản tân cổ giao duyên). Ảnh: CoThomMagazine.com
Mùa sao sáng (phiên bản tân cổ giao duyên). Ảnh: CoThomMagazine.com

mua-sao-sang--tan-co--1--dong-phuong-tu--cothommagazine.com--dongnhacxua.com

“ Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
                     Mùa sao sáng năm xưa lại về đêm sinh nhật Chúa,
                     Sao người năm xưa quên lời hứa chưa về (hò 1).
                    Chạnh nhớ ngày xưa đôi bóng giao kề (hò 2). “

      Nghệ sĩ Mộng Tuyền xuống câu hò 1 vọng cổ trong tiếng chuông nhà thờ đổ ngân vang, cô chắp tay ngước nhìn về hang đá có tượng Đức Mẹ và Chúa hài đồng nằm trên máng cỏ, rồi cô ém hơi bỏ nhỏ hát tiếp câu hò 2 trong tiếng đàn ghi-ta-phím-lõm hào hoa của Văn Vĩ, hòa với đàn kìm của Năm Cơ, và tiếng vĩ cầm của Hai Thơm cùng “quyện” với nhau trong bài ca Tân Cổ giao duyên “Mùa Sao Sáng”. Sân khấu rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn trước 1975 như bùng nổ trong tiếng vỗ tay tán thưởng, nhưng tim mọi người thì chùng xuống như lịm đi, khi cô đào đẹp nhứt nhì sân khấu cải lương có nghệ danh là Mộng Tuyền, huy chương vàng giải Thanh Tâm 1963, quỳ trước tượng đài Đức Mẹ, nước mắt cô ràn rụa chảy dài trên đôi má trong ánh sáng lung linh của hai hàng bạch lạp trên ngôi cao Thánh mẫu. Trong tiếng nhạc dập dìu trầm bổng của 6 câu vọng cổ, nàng kể chuyện thời chinh chiến, có hai người yêu nhau cùng trao lời hẹn ước trong đêm Giáng Sinh. Bên hang đá Bê Lem, nụ hôn vội vã chia tay người yêu trong thời binh lửa, chàng trai trẻ khoác chiến y ra đi biền biệt từ đêm Giáng Sinh năm xưa, đã mấy mùa sao rồi chưa quay trở lại! Mùa Giáng Sinh năm nay, nàng vẫn đứng chờ bên gác chuông xưa nghe điểm hồi chuông nửa đêm, mỏi mòn trông đợi người yêu qua mấy lần sinh nhật Chúa. Tiếng đàn cò Năm Cơ cầm chịch dẫn dắt Ban cổ nhạc khi nhặt khi khoan, quăng bắt đẩy đưa nhau từ câu 1 sang qua câu 2 vọng cổ, tiếng vĩ cầm Hai Thơm lộng lẫy, khi hơi Nam khi hơi Oán, trên nền nhạc ngũ cung. Lúc danh cầm ghi-ta Văn Vĩ nhấn nhá chuyển sang cung thương thì Năm Cơ chân đạp “song lang”, tiếng mõ vang lanh lảnh báo tin sắp chuyển giao cho Ban tân nhạc Lê văn Thiện sẵn sàng bắt nhịp khi ca sĩ xuống “xề”. Khi đó, ca nữ Mộng Tuyền tiến sát lại gần hang Bê Lem, đèn sân khấu quét ngang người, nàng nức nở hát từ dây Đào cổ nhạc hò 5 chuyển sang qua ca tân nhạc với Ban Lê văn Thiện:
                                     Đêm nay tôi nhớ người chưa trở lại.
                                        Chênh chếch mùa sao lạc loài. 
                                        Ôi! Những mùa sao lẻ đôi.
                                        Cho tôi thương nhớ mùa sao ngày nào,
                                        Thương những mùa sao hồng đào.
                                        Ôi! Những mùa sao cách xa.”

       Sân khấu bềnh bồng như trôi dạt trong ánh sáng nhiệm mầu đêm Thánh lễ, khán giả đắm chìm trong tiếng đàn Tam tấu cổ nhạc Văn Vĩ, Năm Cơ và Hai Thơm là những đệ nhất danh cầm cổ nhạc cải lương miền Nam thời đó, cùng quăng bắt nhau, tung hứng cho nhau thật điệu nghệ, trong khi Ban tân nhạc Lê văn Thiện chờ lúc cao trào, chụp bắt, rượt đuổi Ban cổ nhạc, khi trao qua khi nhận lại, hình thành một cấu trúc nghệ thuật mới của thời đại 1960-1970, định danh là Tân cổ giao duyên. Theo mạch nhạc hết câu 5 rồi chuyền sang qua câu 6 vọng cổ, ca sĩ và hai ban Tân và Cổ nhạc như quyện vào nhau, mắt không rời nhau, khi vào Tân khi ra Cổ, nghệ sĩ Mộng Tuyền lúc thì song hành, khi thì bứt phá, rồi đợi khi Ban cổ nhạc xuống xề 24, và Ban tân nhạc “chầu” thêm nhịp 25, ca sĩ vào nhịp 26 với lời thơ áo não trong đêm Giáng Sinh thời chinh chiến:
                                      “ Người đi từ Giáng sinh xưa
                                        Mong về tương ngộ giữa mùa hội sao.
                                        Niềm tin xóa hết thương đau,
                                        Mùa sao đất Việt, mùa sao thanh bình.”

       Bài Tân cổ giao duyên Mùa Sao Sáng của soạn giả Đông Phương Tử đã ra đời trong thời binh lửa như thế, khi khắp miền Nam đã có mất mát, tang thương. Thuở đó, không khí chiến tranh lan tràn đến từng nhà, gia đình nào cũng có người thân vào quân đội. Những buổi chia tay, những giờ hò hẹn ngắn ngủi trên sân ga, trên bến tàu đưa tiễn người vào quân trường hay đi ra mặt trận, đã thấm đẩm vào thơ ca và âm nhạc. Bản Tân cổ giao duyên Mùa Sao Sáng nhanh chóng lan truyền từ sân khấu đến các Đài Phát Thanh và Truyền Hình rồi thâu vào băng và đĩa nhạc 45 tours. Miền Nam thời đó, nhứt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, ở các tỉnh Cần Thơ – Bạc Liêu vốn là cái nôi của bài ca Vọng cổ hoài lang của Cao văn Lầu, các ban đờn ca tài tử miền sông nước này bị mê hoặc cuốn hút trước một làn điệu canh tân mới mẻ, đã chung tay tiếp sức cho bài Tân cổ giao duyên bay xa. Mộng Tuyền, nghệ sĩ cải lương sân khấu vừa là minh tinh màn bạc, nổi tiếng tài sắc trong vở tuồng cải lương Dương Quí Phi và An Lộc Sơn, bạn diễn với Thanh Nga, Ngọc Giàu của đoàn Thanh Minh, đặc biệt với vai diễn để đời là sơn nữ Klai trong vở tuồng Mưa Rừng, Mộng Tuyền đã mang lại cho khán giả niềm say mê qua các bài tân cổ giao duyên Thầm Kín, Ngày Xưa Anh Nói, Thương Về Mùa Đông Biên Giới, Mùa Sao Sáng v v của soạn giả Đông Phương Tử, một bút danh của Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông. Rất tiếc, chất lượng âm thanh của đĩa 45 tours sau thời gian 45 năm không còn được như xưa (tuy nhiên, một số bản nhạc sẽ được đăng trong trang này để làm tài liệu).

[footer]

Cao Cung Lên (Hoài Đức – Nguyễn Khắc Xuyên)

Hôm nay là 25/12, khắp nơi hân hoan chào đón một mùa Giáng Sinh lại về. Hòa trong niềm vui đó, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Cao cung lên” của nhạc sỹ Hoài Đức, tức linh mục Giuse Lê Khắc Triệu. Đây có thể nói là một trong những bản nhạc về Giáng Sinh nói riêng và Thánh Ca nói chung đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.

Cao cung lên (Hoài Đức - Nguyễn Khắc Xuyên). Ảnh: tkaraoke.com
Cao cung lên (Hoài Đức – Nguyễn Khắc Xuyên). Ảnh: tkaraoke.com

CAO CUNG LÊN & NHẠC SỸ LINH MỤC HOÀI ĐỨC
(Nguồn: dotchuoinon.com)

Nhạc sỹ Hoài Đức, tức linh mục Giuse Le Đức Triệu. Ảnh: wikipedia.com
Nhạc sỹ Hoài Đức, tức linh mục Giuse Le Đức Triệu. Ảnh: wikipedia.com

Bản thánh ca nổi tiếng của Việt Nam: “Cao cung lên” được sáng tác bởi Linh mục nhạc sĩ Hoài Đức từ năm 1945.

Thực ra bản nhạc này là sáng tác của hai người. Lm Hoài Đức soạn nhạc và lời phần I, còn lời của những phiên khúc sau là của Lm.Nguyễn Khắc Xuyên.

Lm. Hoài Đức tên thật là Lê Đức Triệu (1923 – 2007) quê quán Nam Định.

Linh mục Hoài Đức (cha Triệu) có thời gian dài từng sống ở BanMêThuột (từ 1969- 1975), làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuột, thuở Đức Cha Nguyễn Huy Mai đang cai quản Giáo phận.

Theo lời cha Triệu, thời điểm 1940 chưa có thánh ca bằng tiếng Việt. Những bài hát trong phụng vụ đều bằng tiếng…Latinh. Thánh lễ, chầu Thánh thể phải hát hay đọc bằng tiếng Latinh. Những bài hát đều lấy từ cuốn “Paroissien Romain” hay ” Cantus Pro Festis Solemnioribus” hoặc “Cantus Officiorum in Cantus Greoriano”.

Đôi khi được hát nếu không bằng tiếng Latinh thì bằng tiếng Pháp, chủ yếu lấy từ cuốn “Cantiques de la Jeunesse”.

Sau 1940 mới xuất hiện những ca khúc Việt Nam hoàn toàn.

Như vậy bài hát “Cao cung lên” được coi như mở đầu cho dòng nhạc thánh ca Việt Nam. Một bản nhạc xưa mà còn mãi ngân vang mỗi độ Giáng sinh về, và mỗi độ nghe lại ca khúc này, lòng ta tựa hồ rộn rã tiếng chuông ngân…

[footer]

Hai Mùa Noel (Đài Phương Trang)

Không khí Giáng Sinh đã tràn ngập khắp các nẻo đường Sài Gòn. Tiếp nối dòng nhạc về mùa Noel, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu bản “Hai mùa Noel” của nhạc sỹ Đài Phương Trang sáng tác năm 1973. Một điều đáng để ý là không hiểu sao khi chúng tôi đi tìm khuôn nhạc cho “Hai mùa Noel” thì phần lớn đều ghi tên tác giả là Nguyễn Vũ trong khi đó là đứa con tinh thần của nhạc sỹ Đài Phương Trang (tác giả “Người yêu cô đơn”, “Hoa mười giờ”, v.v.) Theo thiển ý của chúng tôi, có sự nhầm lẫn này là do nhạc sỹ Nguyễn Vũ quá nổi tiếng với nhạc Giáng Sinh với “Bài Thánh ca buồn” chăng?

ĐÔI NÉT VỀ BẢN “HAI MÙA NOEL”
(Nguồn: hopamviet.vn)

Những ngày này, khi giai điệu da diết quyện với ca từ “mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường” cùng cái lạnh len lỏi khắp nẻo đường thành phố, tác giả của bài hát Hai mùa noel bất ngờ báo tin “Giáng sinh của chàng trai năm xưa không còn buồn nữa”.

Nhạc sỹ Đài Phương Trang. Ảnh: HopAmViet.vn

Tại quán cà phê ở Q.1, TP.HCM, nhạc sĩ Đài Phương Trang lên sân khấu trình bày ca khúc mới: Hai mùa Noel 2: “Hỏi em hai mùa Noel đã qua từ lâu, mà sao giai điệu mênh mang mãi luôn gọi nhau…”. Ngoài 70 tuổi nhưng giọng hát ông vẫn khỏe và còn tình cảm lắm, cứ thế “kể” tiếp câu chuyện tình dở dang của chàng trai năm nào. Ông nói: “Nếu ngày xưa, chàng trai ấy đau khổ bao nhiêu vì bị tình phụ, cô đơn bao nhiêu trong cái tê tái của “nửa đêm tan lễ bước anh bơ vơ trở về” thì hôm nay, trong Hai mùa Noel 2, anh ta đã vượt qua nỗi đau. Vẫn đi lễ nhà thờ nhưng chỉ “cầu xin ơn lành ban cho những mối duyên đời luôn được chung đôi mãi không chia rời”.

Nhạc sĩ cho biết bạn bè ai cũng hỏi ông: Chàng trai này có phải là tác giả không? Bởi chỉ khi rút ruột viết ra nỗi niềm của mình thì những lời ca, giai điệu ấy mới thấm vào lòng người và day dứt khôn nguôi đến thế. Không chỉ vậy đã 40 năm kể từ khi Hai mùa Noel ra đời, nó vẫn luôn được ngân vang cùng tiếng chuông giáo đường, vẫn luôn được xuất bản với nhiều giọng ca khác nhau của nhiều thế hệ ca sĩ: Anh Khoa, Như Quỳnh, Mạnh Đình, Tuấn Vũ, Vũ Khanh, Hương Lan, Đàm Vĩnh Hưng, Cẩm Ly…

Rồi ông hóm hỉnh: “Tôi có thất tình bao giờ đâu, tất cả những chuyện tình buồn ấy đều viết cho bạn bè hoặc những người xa lạ mà tôi thấy, nghe được”. 40 năm trước, khi chở người yêu – là vợ ông bây giờ – dạo phố xem người ta đi lễ, ông vô tình bắt gặp chàng trai đứng tựa gốc cây gần nhà thờ Đức Bà (TPHCM) hàng giờ đồng hồ.
“Tan lễ, khi mọi người về gần hết tôi vẫn còn thấy anh đứng đó. Hình ảnh này cứ ám ảnh trong tôi… 2 năm sau, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông gợi ý các tác giả viết bài Noel cho đĩa Giáng sinh của hãng Sơn Ca, tôi nghĩ ngay đến chàng trai trong đêm lễ ấy và hư cấu thành Hai mùa Noel”, ông nói.

Dù có nhiều sáng tác dành cho giáo đường nhưng nhạc sĩ thổ lộ: “Tôi không phải là người Công giáo, mà chỉ may mắn được hai người bạn thân tặng hai quyển thánh kinh. Có lẽ nhờ đó mà tôi viết nhạc Noel được khen tự nhiên như người có đạo”. Hỏi nhạc sĩ lâu nay toàn sáng tác để nói hộ tiếng lòng và an ủi người khác, có bao giờ ông viết cho chính mình, ông hào hứng mở tập ca khúc viết từ năm 2010, khoảng hơn 20 bài. “Đây mới là những tâm sự của tôi, cũng là nhạc tình hết đấy, được viết theo thể loại slow và boston”.

* Nhạc sĩ Đài Phương Trang tên thật là Phạm Văn Tứ, sinh năm 1940 tại Sài Gòn, có 3 người con. Ông từng là giáo viên dạy nhạc Trường Phú Định, Q.6 và hiện sống cung vợ tại Q.Bình Tân, 3 người con của ông cũng ở gần đó. “Khi mới học đàn, tôi chỉ chơi đàn những nơi có bạn bè là nam, vì cứ có nữ là tôi mắc cỡ không đàn được. Vậy nên khi bắt đầu sáng tác, tôi nghĩ ngay: Đàn Phương Trai, chỉ đàn nơi nào có con trai! Nhưng sau bạn bè lại bảo: tên gì đọc khô quá, rồi có ông bạn vui tính lái lại: hay là Đài Phương Trang đi, êm tai hơn nhiều” nhạc sĩ thổ lộ

Theo Mothegioi.vn

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ ĐÀI PHƯƠNG TRANG
(Nguồn: wikipedia.com)

Đài Phương Trang (sinh 1940) là một nhạc sĩ nhạc vàng Việt Nam. Ông là cháu của nhạc sĩ Ngọc Sơn.

Đài Phương Trang tên thật là Phạm Văn Tứ, sinh năm 1940 tại Sài Gòn. Hai bút danh khác là Phạm Vũ Anh Tứ và Quang Tứ.

Trước 1975
Bắt đầu sự nghiệp sáng tác nhạc từ năm 1966, đến nay ông đã có hơn 500 ca khúc. Ông là cựu giáo viên âm nhạc Trường Trung học cơ sở Phú Định (Quận 6).

Một số ca khúc phổ biến của ông là: Hoa mười giờ (đồng sáng tác với Ngọc Sơn), Căn nhà dĩ vãng, Chuyến xe miền Tây, Tình nghèo có nhau, Ước mộng đôi ta… và đặc biệt là bài “Người yêu cô đơn” (viết năm 1973) là ca khúc tiêu biểu của ông và cũng là nhạc phẩm giúp tên tuổi ca sĩ Tuấn Vũ được thính giả khắp nơi biết đến.

Sau 1975
Sau 1975, ông là một trong số ít các nhạc sĩ ở lại Việt Nam tiếp tục sự nghiệp sáng tác. Giống như các nhạc sĩ cùng thời như Thanh Sơn, Hàn Châu, Tô Thanh Tùng, Vinh Sử,Giao Tiên… ngoài sự tiếp nối của dòng nhạc trữ tình Boléro, ông còn viết thêm mảng nhạc quê hương mang âm hưởng Nam Bộ và khá thành công.

Nhưng nhạc hài mới là thể loại nhạc mà ông tâm huyết nhiều nhất. Ấp ủ từ lâu nhưng đến năm 1990 ông mới bắt tay vào viết nhạc hài và tìm bạn diễn. Cùng với Phương Khanh (diễn viên Đoàn kịch Kim Cương), ông thành lập nhóm “Hai Con Dế”, ra sân khấu với trang phục truyền thống áo dài khăn đóng và chơi đàn guitar. Sau khi Phương Khanh qua đời, ông tiếp tục duy trì nhóm với một số bạn diễn mới như Kông Thanh Bích[1], Hải Thanh và hiện nay là nhạc sĩ Đức Tân.

Gia đình
Đài Phương Trang hiện sống cùng vợ và ba người con (2 gái, 1 trai) tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

“ Ước vọng của chúng tôi là được đem lời ca tiếng đàn để phục vụ công chúng qua thể loại ca hài hầu mang đến những nụ cười dí dỏm, ý nhị có tính nghệ thuật trong những ca khúc hoàn toàn mới – từ giai điệu đến lời ca chứ không phải đặt lời mới trên những giai điệu cũ mà người ta thường gọi là “nhạc chế”. ”
—Đài Phương Trang

Giáo Đường Im Bóng (Nguyễn Thiện Tơ – Phi Tâm Yến)

Với nhiều thế hệ yêu nhạc xưa, bản “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ có thể được xem như là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho dòng nhạc về Giáng Sinh của tân nhạc Việt Nam. Xung quanh nhạc phẩm bất hủ này, có nhiều chi tiết thú vị. Nhân dịp Noel về, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu đến quý vị bản “Giáo đường im bóng” nổi tiếng này.

“SỰ TÍCH” GIỮA MÙA NOEL (Nguồn: tác giả Mai Hoàng đăng trên An Ninh Thủ Đô ngày 23/12/2013)

 ANTĐ – Lâu nay, các nhà thơ, công bố thơ trên các phương tiện thông tin đại chúng, rồi các nhạc sĩ đọc, nếu rung động, đồng cảm sẽ phổ nhạc. Nhanh thì một đêm là xong, lâu thì cũng trong vòng một tháng. Vậy mà, từng có chuyện “ngược đời” xảy ra cách đây đã… 73 năm. Tác giả nhạc viết giai điệu trước, sau đó “người thơ” mới viết phần lời. Đó là ca khúc “Giáo đường im bóng”, nhạc: Nguyễn Thiện Tơ; lời: Phi Tâm Yến.

Bản nhạc “Giáo đường im bóng” được xuất bản năm 1951. Ảnh: AnNinhThuDo.vn
Bản nhạc “Giáo đường im bóng” được xuất bản năm 1951. Ảnh: AnNinhThuDo.vn

“Lá êm êm rơi trên gương hồ/ Hình như mối tơ duyên xa mờ/ Sóng rung rinh hồ xưa đây/ Hồn tôi nhớ nàng mê say/ Ngày xa ấy u trầm quá/ Và sóng mắt huyền còn biết tìm đâu… /… Nơi giáo đường im bóng, tôi thầm mong ngóng/ Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ”.

Nghe ca khúc này nhiều lần, qua nhiều giọng hát ở các thế hệ khác nhau, từ Khánh Ly, Tuấn Vũ, Sỹ Phú cho tới Thu Minh, Ngọc Anh – dù rất mong một lần được gặp gỡ và trò chuyện với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ – người viết ra những giai điệu ấy, nhưng tôi không nghĩ mình còn cơ hội gặp ông. Nghĩ vậy, bởi tôi biết ông sinh năm 1921, giờ cũng đã bước qua cái ngưỡng “cửu thập”. Cái tuổi này, dễ khiến bất cứ ai đều có thể trở thành những người của cõi nhớ thương. Hoặc nếu còn sống thì biết đâu người ta đã lẫn lộn nhiều thứ, và bệnh tật tuổi già cũng đã khiến cho mọi trí tuệ có thể trở nên không còn minh mẫn nữa. Vì thế tôi cứ cầm chắc cơ may đã không còn đến với mình.

Bẵng đi, cho đến năm ngoái tôi được một người bạn trong giới nhạc sĩ “bật mí” nhạc sĩ của Giáo đường im bóng vẫn còn sống, hiện ở phố Mai Hắc Đế và vẫn minh mẫn để trò chuyện, khỏi nói tôi đã mừng thế nào. Tôi không thể chần chừ hơn, vội tìm gặp ông.

Phố phường Hà Nội những ngày giữa tháng 12 nhộn nhịp đến ồn ã cái không khí Giáng sinh. Và khi bước vào căn nhà nhỏ của ông trên phố Mai Hắc Đế, cứ như là bắt gặp một Hà Nội cũ, của một thời tưởng như đã quá xa rồi.

Nguyễn Thiện Tơ và vợ khi trẻ. Ảnh: AnNinhThuDo.vn
Nguyễn Thiện Tơ và vợ khi trẻ. Ảnh: AnNinhThuDo.vn

Thấy chúng tôi đến, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ ngồi dậy. Ở tuổi ngoài 90, ông vẫn còn giữ được nét đẹp của một người Hà Nội xưa, dù khuôn mặt và đặc biệt là đôi mắt tỏ rõ sự thiếu ngủ. Người ta không có thời gian để ngủ, còn ông, thừa thời gian nhưng lại không ngủ được. Sắp tới Giáng sinh rồi, biết thế nào tôi đến cũng lại hỏi về ca khúc Giáo đường im bóng, ông cười hóm hỉnh, bảo lâu quá rồi. Cái thời của ông, ngày lễ Noel nó sâu lắng và lịch lãm lắm chứ không lòe loẹt và ồn ã như bây giờ.

Rồi ông kể: “Từ năm khoảng 10 tuổi, tôi đã mê âm nhạc. Đến năm 12 tuổi, nghe tin thầy giáo Trần Đình Khuê mở lớp guitare Hawai thế là tôi xin bố cho đi học. Học với thầy Khuê, thì thoảng tôi lại được đi biểu diễn cùng thầy. Vài năm sau tôi học thêm Tây ban cầm do một người Pháp dạy. Khi sử dụng thành thạo hai loại nhạc cụ này, tôi đi biểu diễn ở mấy phòng trà, thi thoảng lại tham gia các chương trình biểu diễn từ thiện. Trong một lần về Nam Định biểu diễn từ thiện như thế, tôi bắt gặp một cô gái Thành Nam. Lúc ấy tôi còn là học sinh trường Thăng Long ở Hà Nội. Cô ấy cũng chơi đàn và hát trong buổi biểu diễn từ thiện này. Ngay từ cái nhìn đầu tiên ấy, tôi đã cảm thấy mình yêu người con gái này. Sau đó, chúng tôi có gặp lại đôi ba lần. Nhưng rồi có trắc trở. Tôi buồn quá vì nghĩ như thế là mình không cưới được cô gái ấy. Vì thế mà tôi viết bài hát này”.

Thì ra là vậy.

Nhưng tôi vẫn còn tò mò nên gặng hỏi nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, rằng, thưa ông, trên bài hát có ghi: “Nhạc Nguyễn Thiện Tơ; Lời: Phi Tâm Yến”. Vậy Phi Tâm Yến là ai, là bút danh của ông, hay là…? Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ cười: “Đây là bài hát đầu tay của tôi, khi đó tôi mới 17 tuổi.  Ca khúc này được tôi hoàn thành nhạc trước, sau đó người bạn phổ thơ vào. Phi Tâm Yến là người bạn thân, chúng tôi chơi với nhau từ khi lên 10 tuổi. Cậu ấy tên thật là Trần Văn Phụng. Sau này tôi cũng có viết nhạc, bạn viết lời thơ trong vài ca khúc khác, nhưng giờ thất lạc hết rồi”.

Thêm một chi tiết bất ngờ. Hóa ra là vậy.

Ca khúc Giáo đường im bóng đã đồng hành với nhiều thế hệ người nghe, và chất chứa trong nó không chỉ một câu chuyện tình tuyệt đẹp, mà còn cả một “sự tích” nhạc viết trước lời viết sau mà ít người biết tới. Lời ca thì thoáng buồn, xen chút tuyệt vọng về một mối tình đầu, nên khi hoàn thành, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ cũng không đề tặng cô gái Thành Nam Vũ Hà Tiên, cũng không hát cho “nàng” nghe. Chỉ âm thầm giữ kín cho riêng mình.

Nguyễn Thiện Tơ và vợ hiện nay. Ảnh: AnNinhThuDo.vn
Nguyễn Thiện Tơ và vợ hiện nay. Ảnh: AnNinhThuDo.vn

Nhưng rồi vượt qua những định kiến, họ đã trở thành vợ chồng suốt từ năm 1944 đến nay. Bây giờ, cô gái đẹp đất Thành Nam xưa đã trở thành bà lão 90 tuổi, sống hồn hậu bên con cháu. Mỗi năm, cứ mùa Giáng sinh về, đôi vợ chồng già lại có dịp ôn lại câu chuyện tình thuở đôi tám của mình. Còn người yêu nhạc hôm nay lại có dịp nghe lại những giai điệu êm dịu: Trong giáo đường đêm Noel ấy…

Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ sinh năm 1921, tại Hà Nội, xuất thân trong một gia đình công nhân (xưởng in Viễn Đông) tại căn nhà số 22 phố Charron, nay là phố Mai Hắc Đế, Hà Nội. Sau ngày quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, Nguyễn Thiện Tơ về Đài Tiếng nói Việt Nam, thổi sáo trong dàn nhạc của đài. Đến năm1959, ông chuyển sang dàn nhạc giao hưởng nhạc vũ kịch. Năm 1965, ông chuyển về hãng Phim truyện Việt Nam. Một số tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ: Chiều quê, Chiều tà, Cung đàn xuân xưa, Đêm trăng xưa, Khúc nhạc canh tàn, Nắng xuân, Nhắn gió chiều, Nhớ quê… Và một số tác phẩm nhạc của Nguyễn Thiện Tơ, lời của Hoàng Giác, Văn Khôi, Phi Tâm Yến như: Qua bến năm xưa, Tiếng hát biên thuỳ, Trên đường về, Giấc mơ xưa, Ngày vui đã qua…

Hoa Soan Bên Thềm Cũ (Tuấn Khanh)

Trong nền tân nhạc Việt Nam, có nhiều nhạc sỹ đã thành công trong việc đưa hình ảnh “hoa” vào nhạc. Thế nhưng có lẽ chỉ mỗi nhạc sỹ Tuấn Khanh là người viết nhạc về hoa soan. Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu nhạc phẩm nổi tiếng “Hoa soan bên thềm cũ” của nhà nhạc sỹ lão thành.

Hoa soan bên thềm cũ (Tuấn Khanh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hoa soan bên thềm cũ (Tuấn Khanh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hoa-soan-ben-them-cu--2--tuan-khanh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Thưở đó, cách đây hơn 30 năm, làng quê miền Trung của chúng tôi có rất nhiều cây xoan, mà người dân thường gọi là cây thầu đâu. Thật tình lũ con trai chỉ quan tâm đến trái thầu đâu vì bọn chúng tôi dùng làm “đạn” chơi trò bắn nhau. Trái thầu đâu rất cứng nên nếu đứa nào bị “bắn” trúng là coi như “thua cuộc”.

Quả xoan. Ảnh: wikipedia.org
Quả xoan. Ảnh: wikipedia.org

Mãi sau này, khi lớn lên và có dịp nghe bản “Hoa soan bên thềm cũ” của nhạc sỹ Tuấn Khanh (tác giả của “Chiếc lá cuối cùng”), chúng tôi mới giật mình nhận ra hoa soan kể ra cũng đẹp!

Hoa xoan. Ảnh: wikipedia.org
Hoa xoan. Ảnh: wikipedia.org

Thế mới biết, có nhiều cái thú vị xung quanh ta mà chúng ta nào để ý! Nhân bài viết này, Dòng Nhạc Xưa xin gởi lời chúc sức khỏe đến nhạc sỹ Tuấn Khanh và chúc ông vui hưởng tuổi già nơi đất khách!

Em ơi, Hà Nội Phố (Phú Quang – Phan Vũ)

Những ngày đầu tháng 12, trời Hà Nội trở lạnh. Chúng tôi có dịp lang thang trên những con phố Hà Nội. Những cảm xúc về một “Em ơi, Hà Nội phố” như ùa về. [dongnhacxua.com] xin giới thiệu đến người yêu nhạc xưa bài thơ nổi tiếng của Phan Vũ, cũng như bản phổ tuyệt vời của nhạc sỹ Phú Quang.

TÔI VIẾT BÀI THƠ “EM ƠI, HÀ NỘI PHỐ”
(Nguồn: nhà thơ Phan Vũ viết trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần ngày 04/10/2010)

TTCT – Ngày 25-9 tại Hà Nội, Em ơi, Hà Nội phố – sau “gần nửa thế kỷ ra đời nhưng vẫn chưa trở về Hà Nội” như lời tác giả, đã được nhà thơ Phan Vũ đọc lần đầu tiên trong đêm thơ tổ chức cho riêng ông ở Thư viện Hà Nội. TTCT giới thiệu bài viết của nhà thơ về cuộc hành trình gần 50 năm của Em ơi, Hà Nội phố và trích đăng một số khổ của bài thơ.

Nhà thơ Phan Vũ đọc Em ơi, Hà Nội phố trong đêm thơ của riêng ông vào tối 25-9 tại Thư viện Hà Nội - Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Nhà thơ Phan Vũ đọc Em ơi, Hà Nội phố trong đêm thơ của riêng ông vào tối 25-9 tại Thư viện Hà Nội – Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Tôi viết Em ơi, Hà Nội phố từ năm 1972 nhưng trong một thời gian dài, vì những lý do riêng, bài thơ chưa đến với độc giả. Cho đến năm 2009, nguyên tác bài thơ mới in trong tập Thơ Phan Vũ. Ở Huế, tôi đã đọc bài thơ dưới ánh sáng của một ngọn nến, trong một căn nhà cổ cho một số bạn Huế yêu thơ. Ở Sài Gòn, tôi đã đọc tại quán Guitare Gỗ do nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đệm đàn và viết một ca khúc phụ họa.

Như vậy là gần nửa thế kỷ bài thơ viết về Hà Nội, tại Hà Nội vẫn chưa trở về Hà Nội. Và tôi vẫn mong đợi một dịp được lần đầu đọc Em ơi, Hà Nội phố giữa thủ đô.

***

Tháng chạp năm 1972, khi B-52 của Mỹ bắn phá thủ đô với lời hăm he “đưa Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá!”, tôi khởi viết những câu đầu tiên: Em ơi, Hà Nội phố… Ta còn em, mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa… Điệp từ Ta còn em, ta còn em… được lặp lại trong từng đoạn của bài thơ. Có người nghĩ điệp từ này có ý nghĩa thách thức với lời hăm dọa của ông Nixon. Tôi không có ý đó, chỉ thấy lòng mình chùng xuống vì âu lo trước cảnh tượng đất đai Hà Nội bị bom đạn cày xới và máu người Hà Nội đổ trên phố phường nên đọc một câu “niệm chú” để tự trấn an. Ta còn em… là còn những hoài niệm yêu thương của tôi về Hà Nội mà đôi lần khi trong trạng thái cần nương tựa, an ủi, tôi lại tìm về.

Nhưng Em ơi, Hà Nội phố không phải là một lời thủ thỉ tự tình, đó là một tiếng kêu thương tha thiết… Tháng chạp bi tráng năm ấy, những sự việc hằng ngày đã khắc ghi những đường rãnh trong ký ức, giữ lại cho con người một nỗi nhớ xót xa, sâu đậm. Chỉ một đêm xuống phố Khâm Thiên sau trận bom, nghe tiếng than khóc của dân phố, nhìn những vành khăn tang trắng xóa trong đêm và ngửi mùi hương cúng đã hình thành ngay hoài niệm để một đời không thể nào quên.

Tôi cũng phải nói thêm điệp từ Ta còn em… còn có nghĩa “ta mất em…”. Đó là sự tiếc nuối về những gì “thật Hà Nội” không còn nữa! Không chỉ do chiến tranh mà có thể vì những sai lầm, những vô ý, vô tình của người đời, không ngoại trừ sự quên lãng của thời gian, đã gây ra những đổ vỡ không thể hàn gắn được. Chỉ cần mấy câu thơ của người xưa Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương… cũng làm chúng ta rung động huống hồ những xót đau, mất mát thuộc về tâm linh, một thứ để thờ phụng, khiến con người có thể thí mạng để bảo vệ, gìn giữ. Và tinh thần của người Hà Nội trong tháng chạp năm ấy đã chứng tỏ rõ ràng.

Tôi đã sống một mình trên căn gác suốt 12 ngày đêm khốc liệt của Hà Nội. Bao hoài niệm thật đẹp mà tôi đã có trong quãng thời gian được gọi là “chàng trai Hà Nội” đã trở về trên căn gác, tại một khu trắng triệt để sơ tán vì gần Nhà máy điện Yên Phụ, một mục tiêu oanh kích. Những hình ảnh, những ngôn từ dồn dập kéo đến, đan xen, chồng chéo, không theo một thứ tự thời gian, không gian.

Tôi như đang trong một giấc mơ giữa ban ngày với đôi mắt mở! Em ơi, Hà Nội phố với 25 khổ thơ đã ra đời trong khoảng cách những hồi còi hụ trên nóc Nhà hát Lớn, với giọng Hà Nội thật chuẩn của cô phát thanh viên báo tin những đợt B-52 vào thành phố. Tôi ghi lại một cách vội vàng, theo sự tình cờ, bất chợt, không xếp đặt. Tất nhiên, trong một quá trình dài dặc nửa thế kỷ, bài thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà luôn cựa quậy, bắt tôi phải chỉnh sửa nhiều lần. Nhiều khi có vài ly rượu ngà ngà lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niềm, chợt tìm thấy một dáng, một hình, một con chữ cần thêm, cần bớt.

Tôi cũng thường bỏ công chép cả bài thơ dài dặc để tặng ai đó, nhưng khi khách ra về lại hí hoáy sửa lại vì trong lúc chép tặng chợt phát hiện một câu, một chữ chưa vừa ý. Do đó Em ơi, Hà Nội phố đã thành tam sao thất bản, đến mức tác giả cũng không sao phân biệt được!

Tranh Phan Vũ. Ảnh: tuoitre.vn
Tranh Phan Vũ. Ảnh: tuoitre.vn

Cho đến năm 1985, một lần gặp Phú Quang, một đoạn thơ đã được phổ nhạc. Khi ca khúc Em ơi, Hà Nội phố đã nổi tiếng với nhiều khen tặng, có người đến nói về giá trị phần ca từ của tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ sự xứng đáng thuộc về Phú Quang với những giai điệu mượt mà, du dương quen thuộc của anh; cả về công lao của Phú Quang với ca khúc ấy đã giới thiệu một bài thơ còn lận đận, chưa ra đời! Mấy câu thơ của tôi, một tâm tư mang tính cá nhân, là nỗi đau thầm lặng, nỗi buồn da diết riêng mang không có tính cộng đồng.

Ngày ấy, có một nhà thơ lớn khi đọc bài thơ này đã thật lòng khuyên tôi không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ vào thân. Tôi cũng mệt mỏi vì nhiều sự phiền hà văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe lời bỏ xó.

***

Tôi hi vọng lần đọc đầu tiên bài thơ ở Hà Nội cũng là đọc bản chính thức cuối cùng của Em ơi, Hà Nội phố. Bởi với tuổi 85, hành trình đi qua trần gian, hay nói theo Trịnh Công Sơn là quãng đời “ở trọ trần gian” của tôi cũng đã quá dài so với bao nhiêu bè bạn. Giữa Hà Nội hôm nay bỗng nhiên tôi nghĩ đến những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ cùng đứng với tôi trong ban chấp hành đầu tiên của Chi hội Văn nghệ Nam bộ thành lập từ năm 1952 giữa rừng U Minh, như các anh Diệp Minh Châu, Hà Mậu Nhai, Đoàn Giỏi, Quách Vũ, Dương Tử Giang, Huỳnh Văn Gấm, Chi Lăng, Ngọc Cung, Trương Bỉnh Tòng…

Trong số đó, có người tập kết ra Hà Nội đã nằm lại trong lòng đất thủ đô, những người ở lại miền Nam bị bắt bớ, tù đày cũng đã qua đời. Các anh ấy chỉ biết Hà Nội trong tưởng tượng, càng không thể hình dung có một Hà Nội của thơ như hôm nay với người cuối cùng còn sót lại của ban chấp hành xa xưa trở về Hà Nội đọc thơ!

Tôi cũng nghĩ tới những người bạn đã kết thân khi tôi từ miền Nam trở về Hà Nội năm 1956, đó là các anh Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phùng Quán, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Hữu Loan… tất cả các anh ấy đều có một số phận không may và đã lần lượt kéo nhau ra đi về “Bến lạ” (tên một tập thơ của Đặng Đình Hưng). Và tôi lại trở thành một trong những kẻ sống sót để thụ hưởng những gì mà đáng lẽ các anh ấy đều được hưởng!

Nhạc sĩ Phú Quang - Ảnh: Hoàng Điệp
Nhạc sĩ Phú Quang – Ảnh: Hoàng Điệp

“Những năm đầu tiên tôi mới vào Sài Gòn, một buổi ngồi nói chuyện với nhà thơ Phan Vũ ở sân Nhà văn hóa quận 3, được anh đọc cho nghe một bài thơ. Nghe xong tôi nói với anh rằng tôi cảm giác bài thơ này có thể phổ nhạc được nhưng lúc ấy chưa định là sẽ phổ ra sao. Ngay tối hôm đó tôi đã viết “Em ơi, Hà Nội phố” trong nỗi nhớ của những ngày xa Hà Nội. Viết xong, hát cho anh Phan Vũ nghe, anh bảo âm nhạc đã làm cho bài thơ lung linh lên.

Lần đầu tiên bài hát được lên sóng phát thanh là năm 1987 với giọng hát của ca sĩ Lệ Thu. Cũng rất lạ, trước đấy Lệ Thu hát khá nhiều bài hát của tôi trên sân khấu kịch, có một lần cô ấy nói: “Sao anh chẳng cho em hát bài nào trên đài nhỉ”. Tôi đưa bài hát ấy cho Thu, nó vừa vặn và hợp với giọng hát cô ấy đến độ tưởng như bài hát ấy tôi “đo ni đóng giày” cho Thu. Sau này có nhiều người hát hay và thành công ca khúc này nhưng khán giả nói không ai hát hay hơn Lệ Thu lần đầu tiên ấy.

Tuy nhiên, bài hát cũng có số phận khá đặc biệt, đó là suýt nữa thì không được phát hành, và khi Nhà xuất bản Dihavina phát hành lần đầu thì bài Em ơi, Hà Nội phố đứng khiêm tốn ở mặt B trong danh mục ca khúc. Nhưng thật may là khán giả đã ưu ái và bài hát vẫn được nhiều người biết đến. Hơn nữa, bài hát này cũng mang đến cho tôi giải thưởng đầu tiên trong đời về âm nhạc”.

NGUYÊN VĂN BÀI THƠ “EM ƠI, HÀ NỘI PHỐ” CỦA PHAN VŨ

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa sữa.
Tiếng giày ai gõ nhịp đường khuya?
Cọt kẹt bước chân quen
Thang gác
Thời gian
Mòn thân gỗ
Ngôi sao lẻ lạc vào căn xép nhỏ…

Ta còn em chấm lửa
Xập xòe
Kỷ niệm…
Một con đường
Một ngôi nhà
Khuôn mặt ai
Dừng trong khung cửa…
Những phong thư bỏ quên trong hộc tủ
Không tên người,
Không tên phố.
Người gửi không tên.
Ta còn em chút vang động lặng im,
Âm âm tiếng gọi
Trong lòng phố…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em một gốc cây,
Một cột đèn
Ai đó chờ ai?
Tóc cắt ngang
Xõa xõa bờ vai,
Khung trời gió
Con đường như bỏ ngỏ…

Ta còn em khăn choàng màu tím đỏ
Thoáng qua
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ
Mỗi góc phố một trang tình sử.

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em chuỗi cười vừa dứt
Chút nắng còn le lói vườn hoang,
Vàng ngọn cỏ.
Cô gái khẽ buông rèm cửa,
Anh chàng lệch mũ đi qua,
Lời tỏ tình đêm qua dang dở…
Ta còn em ngày vui cũ,
Tàn theo mùa hạ.
Tiếng ghita bập bùng tự sự,
Đêm kinh kỳ thuở ấy xanh lơ…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em vầng trăng nửa
Người phu xe đợi khách bến đầu ô.
Tiếng rao đêm lạc giọng
Ơ hờ…
Căn gác trọ đường vào bằng cửa sổ
Lão Mozart hàng xóm
Bảy nốt cù cưa.
Từng đêm quên giấc ngủ…

Ta còn em cây dương cầm
Trong khung nhà đổ
Lả tả trên thềm
Bettho và sonate Ánh Trăng.
Nốt nhạc thiên tài lẫn trong mảnh vỡ…
Cô gái áo đỏ Venise
Xa Hà Nội,
Vẽ clavecin,
Tập đàn
Trên phản gỗ…

Ta còn em, một đêm lộng lẫy,
Những tràng pháo tay vang dậy
Cô gái dương cầm đứng giữa rừng hoa,
Nước mắt lã chã trên tà áo đỏ
Rồi một ngày tả tơi,
Loạn gió
Vườn Ngọc Hà
Mất một mùa hoa.
Đường Quan Thánh
Bản giao hưởng ”Lặng Câm”
Trong một ngôi nhà…

Ta còn em một đam mê,
Một vật vã,
Một dang dở,
Một trống không,
Một kiếp người,
Những phím đàn long…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em ráng đỏ chiều hôm.
Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ.
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá
Gã đầu trần thơ thẩn đường mưa…

Ta còn em một tên thật cũ
Cổ Ngư
Chiều phai nắng
Cành phượng vĩ la đà
Bông hoa muộn in hình ngọn lửa.
Chiếc lá rụng
Khỏi đầu nguồn gió
Lao xao sóng biếc Tây Hồ
Hoàng hôn xa đến tự bao giờ?
Những bước chân tìm nhau
Vội vội.
Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm
Thoáng mùi sen nở muộn.
Nhớ Nhật Tân
Mùa hoa năm ấy
Cánh đào phai.
Người dẫu ra đi vạn dặm dài.
Gió ngọn vẫn vương hương phố cũ…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em cơn mưa rào qua nhanh
Ướt bậc thềm
Chiếc lá bàng đầu tiên nhuộm đỏ.
Cô gái vội sang đường
Chợt hồng đôi má.
Một chút xanh hơn
Trời Hà Nội
Hôm qua…
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu qua cổng chợ
Những chùm hoa tím
Ngát
Mùa thu…

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em con đê lộng gió
Dòng sông chảy mang hình phố.
Cô gái dựa lưng bên gốc me già
Ngọn đèn đường lặng thinh
Soi bờ đá…

Ta còn em mùa nước đổ
Mất tăm bãi Giữa
Dòng sông Hồng
Bè nứa xuôi nhanh,
Con tàu nhổ neo, về bến.
Hồi còi vọng
Như một tiếng than dài:
“Mùa này trăng vỡ trên sông”…

Ta còn em hàng cây khô,
Buồn như dãy phố.
Người bỏ xứ
Quay nhìn lần cuối
Đôi mắt nhòe với hạt sương tan
“Người đi, ừ nhỉ, người đi thực!”… (1)
Ly khách khẽ ngâm câu tống biệt
Đành đoạn một lần dứt áo xanh.

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em một Hàng Đào.
Không bán đào.
Một Hàng Bạc
Không còn thợ bạc.
Đường Trường Thi
Không chõng, không lều
Không ông nghè bái tổ vinh quy.

Ta còn em ngày đi
Một nỗi mang tên nhớ.
Ngày về phố cũ bỗng quên tên.
Quên bậc đá,
Quên mái hiên.
Quên cây táo trồng ngay trước cửa.
Thuở ấu thơ thỏa thích leo trèo…
Ngày về ra rả tiếng ve
Võng trưa hè kẽo kẹt
“À ơi! Tùng tùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền
Nước mắt như mưa…”
Bài tập đọc
Quốc văn giáo khoa thư
Bà ru cháu ngủ
Người về sững sờ bên cánh cửa,
Tiếng ơi à…
Gợi lại mảnh đời quên.

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em chiếc xe hoa
Qua hàng liễu rủ
Cánh tay trần trên gác cao
Mở cửa.
Mùa xuân trong khung
Đường phố dài
Chi chít chồi sinh
Màu ước vọng in hình xanh nõn lá
Giò phong lan.
Điệp vàng rực rỡ.
Những gót son dập dìu đại lộ
Bờ môi ai đậm đỏ bích đào?

Ta còn em tiếng trống tan trường.
Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủ
Đêm hoa đăng tà áo nhung huyết dụ.
Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa.
Phường cũ lưu danh người đẹp lụa.
Bậc thềm nào in dấu hài hoa?

Em ơi! Hà – Nội – phố…
Ta còn em đường lượn mái cong
Ngôi chùa cổ
Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương.
Ai còn ngồi bên gốc đại già?
Chợt quên vườn hồng đã ra hoa.
Chợt quên bên đường ai đứng đợi…
Cuộc đời có lẽ nào
Là một thoáng bâng quơ!

[footer]

Quốc Dũng, Một Vùng Mây Trắng Tìm Nhau

Sinh năm 1951, trưởng thành từ phong trào nhạc trẻ của Sài Gòn năm xưa, nhạc sỹ Quốc Dũng đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho nền nhạc Việt. Hôm nay [dongnhacxua.com] hân hạnh giới thiệu một bài viết về nhà nhạc sỹ đa tài.

Điệp khúc mùa xuân (Quốc Dũng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Điệp khúc mùa xuân (Quốc Dũng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

diep-khuc-mua-xuan--1--quoc-dung--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com diep-khuc-mua-xuan--2--quoc-dung--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com diep-khuc-mua-xuan--3--quoc-dung--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

QUỐC DŨNG, MỘT VÙNG MÂY TRẮNG TÌM NHAU (Nguồn: tùy bút của tác giả Vĩnh Phúc đăng trên GiaiDieuXanh.vn ngày 31/08/2011)

(GĐX)Quốc Dũng còn đó với chúng tôi, đàn trong tay trên ghế ngồi cà phê Phong Nguyệt và còn đó với tất cả chúng ta trên hành trình âm nhạc… Âm nhạc như một tiếng gọi, một đường bay, một thử thách gian lao và người nhạc sĩ 17 tuổi ngày nào hình như vẫn đang bước đi với một chút phân vân, một ít dọ dẫm kiếm tìm, cả nghi hoặc chính mình…Vâng, tôi tin QD đã thành công và sẽ còn thành công hơn nữa khi vượt lên chính mình, vượt lên vệt chân cũ của mình …

Một vùng mây trắng bay đi tìm nhau Chẳng còn thấy đâu, mắt em hoen sầu Vì mình xa nhau nên em chưa biết xuân về đấy thôi…

Quốc Dũng đã bước ra từ đây, từ một …vùng mây trắng, những đám mây lạc tìm nhau và người nhạc sĩ 17 tuổi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe: những ám ảnh ám thị về mất mát chia biệt, về một ban mai rụng xuống hoàng hôn, về những rối bời rã rượi của một xác quỳnh đêm qua vừa nở, cỏ chưa hết xanh đã vội vàng …“Em đã thấy mùa xuân chưa” như là bước khởi đầu cũng là khởi động vùng tâm thức đầy hoặc nghi của người nhạc sĩ mà anh hoa phát tiết ra ngoài …hơi sớm: 11 tuổi đã viết nhạc, 15 tuổi trình diễn mandolin trên truyền hình, 16 tuổi là thủ khoa trường Quốc gia âm nhạc (môn nhạc pháp Tây phương). Tài không đợi tuổi. Ngoài ”Em còn nhớ mùa xuân”, những ca khúc “Mai, Đường xưa, Cơn gió thoảng, Chuyện ba người, Còn mãi nơi đây, Điệp khúc mùa xuân, Thoát ly…” đã thực sự đánh dấu sự xuất hiện một phong cách, một khuôn mặt âm nhạc. Anh còn tài hoa hơn vì bao quát nhiều lãnh vực : từ ca sĩ (cặp đôi với Thanh Mai những năm 70 của thế kỷ trước), rồi nhạc công chơi đủ loại nhạc cụ, người tổ chức phối khí thu âm đầu tiên ở Sài Gòn …

Nhạc sỹ Quốc Dũng thời trẻ. Ảnh: GiaiDieuXanh.net
Nhạc sỹ Quốc Dũng thời trẻ. Ảnh: GiaiDieuXanh.net

1- Quốc Dũng, nhạc sĩ của mùa xuân

“Xuân thanh bình, Mùa xuân đầu tiên, Xuân dịu êm, Bài ca tết cho em, Hẹn ước mùa xuân, Xuân trên đất khách, Xuân xa vắng  …”…Quốc Dũng có hơn 20 ca khúc viết về xuân, lấy chữ xuân làm tựa đề. Cảm hứng xuân rõ ràng là đầy tràn nhưng cảm thức về xuân ở Quốc Dũng là một dị biệt. Với anh, xuân không hề là biểu tượng của sức sống tươi nguyên, của niềm hy vọng, của rộn ràng nên xuân không có bướm trắng mai vàng, câu đối đỏ, nụ cười hồng thắm …Ngay cả “Điệp khúc mùa xuân” như một tưng bừng xuân ca có hoa vàng, nắng say, bướm bay vang lên trong một giai điệu tiết tấu rộn vui, bài hát vẫn chỉ là một gọi mời của tình yêu: Tình yêu ơi xin dệt nối yêu thương/ từ bao nhiêu năm tình sầu muôn hướng. Đến “Bài ca Tết cho em” dù là riêng tặng người yêu dấu cũng chỉ rung lên chầm chậm trong một khúc điệu Bossa Nova, tuyệt không có én trắng vườn đào chỉ có môi em cười như chứa cả mùa xuân. Do đó, những bài hát của QD không thể là xuân ca mà chỉ là những khúc xuân tình. Xuân với anh là cõi tâm xuân, là ý xuân, tình xuân… Xuân không về/ chưa về đơn giản là Vì mình xa nhau nên em chưa biết xuân về đấy thôi…”Hẹn ước mùa xuân” lắng lại một thì thầm và kết thúc trong một hợp âm trưởng đinh ninh: Mùa xuân tới ta hẹn ngày đẹp đôi. Chào mừng năm 2000, QD viết “ Mùa xuân đầu tiên” như một lời tỏ tình với những quãng hai dìu dặt mềm mại buông lơi: Từ khi có em yêu trong tay/ Ta nghe mùa xuân bắt đầu…”Hà Nội em và mùa xuân” là một ví dụ khác cho một ngỏ tình của Quốc Dũng. Bài hát viết ở cung trưởng, tiết tấu khá nhanh nhưng những quãng 2 rồi cũng níu giữ cái không khí êm đềm mộng ảo của tình được và mất. Mở ra là “ Từ ngày ta xa cách nhau/ Thời gian lắng im trong u sầu” và để kết thúc “ Hà Nội mùa xuân có em/ đầy hạnh phúc hơn bao giờ”…Rồi “ Xuân thương nhớ, xuân trên đất khách…”, âm nhạc QD trải ra nỗi niềm day dứt của một mất mát, một thất lạc, một chơ vơ, cả một hoặc nghi …tình …Không, là xuân không thực, cõi xuân của QD chính là nỗi tình được/ mất để buồn vui vì thực chất, anh là người viết tình khúc cho muôn đời …

2- Quốc Dũng, kẻ du ca với gánh tình trên vai

Ngay từ buổi đầu xuất hiện, QD đã để lại ấn tượng đậm nét về những khúc tình ướt rượt với mộng tàn, sương khói, những rụng rời chia biệt: “Thoát Ly (1968), Bên nhau ngày vui ( 1972), Cơn Gió thoảng( 1972), Lối thu xưa ( 1972), Em đã thấy mùa xuân chưa, Biển mộng…Trong tâm thức của người nhạc sĩ trẻ sinh năm 1951 đã mọc dậy nỗi buồn, đã thắp nến những chiêm bao và tình, treo lên ám ảnh.

Thôi mình đi, còn trông chờ chi /Kỷ niệm chỉ thêm xót xa mà thôi /Mộng … đã tàn rồi ! “Thoát ly”, rồi nhịp cuốn đi nhưng còn đó là nước mắt với ê chề thất vọng. Câu kếtKhi tinh cầu đã thu hẹp rồi mở ra một bến vực ngờ lo âu …Bên cạnh, “Cơn gió thoảng” vút vút lên những nốt nhạc chao đảo nỗi bấp bênh phận người, những lay lắt tình yêu: buồn theo cơn gió những cánh lá rơi cuốn trôi về đâu. Đến “Lối thu xưa” thì giai điệu đã lìm chìm da diết diết da trong giọng đô thứ ngậm đủ mùi vị của một thất lạc trăm năm : Anh vẫn tìm em giữa mây ngàn …

Rồi, đi qua phận người với áo cơm mưa nắng những dập vùi, người nghệ sĩ tưởng chừng sẽ tỉnh ra, thức ngộ nhưng không, QD vẫn nặng trên vai một gánh tình. “Hoang vắng, Đường xưa, Ru tôi giấc mộng, Mãi cùng em ngày xanh, Cõi buồn ….”. Và những tình khúc dù khác nhau trong giai điệu, tiết tấu nhưng quen thuộc một màu Quốc Dũng với sương rơi, trăng tà, nước mắt, môi hôn, những xanh niềm đau, những phai tàn nhanh , những thoáng hương bay…Và anh run lên, thổn thức với những melody tuyệt đẹp của yêu thương.

 “Ru tôi giấc mộng” là bài hát tâm đắc của nhạc sĩ, âm ỉ một kiếm tìm mê mỏi trong phiên khúc: Hãy cho tôi tìm gặp trong giấc mơ để rồi nung nấu cháy bùng nỗi nhớ trong điệp khúc: Nhớ dạt dào…Nhớ thẹn thùng … Không, là không thê thiết với bi lụy, không kêu gào để rơi xuống vực lầy không đáy. Âm điệu của QD dẫn ta về một chốn lung linh của mắt ngọc xanh ngời, môi hôn đỏ ối, những vân vê cuống quít thẹn thùa, những hẹn hò trăng mơ. Không, Quốc Dũng không làm ta buồn đến não nề mà cầm tay ta bay vào không gian cao và sâu của chữ tình muôn sắc điệu. Có chăng ở đây là một thoáng hoang mang nghi ngại! Và phải chăng, đó chính là thông điệp Quốc Dũng muốn nhắn gửi đến những tình nhân? Phải chăng QD đã làm người nghe bị mê hoặc vì một nỗi tình thiết tha gắn bó và chân thật…?

Nhạc sỹ Quốc Dũng. Ảnh: GiaiDieuXanh.vn
Nhạc sỹ Quốc Dũng. Ảnh: GiaiDieuXanh.vn 

3- Quốc Dũng,  nhạc sĩ đa phong cách …

Đa phần, mỗi nhạc sĩ, bằng tâm thức của mình, chỉ có thể viết được một phong cách nhất định. Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên…rồi chỉ yên bề với một thể loại. Quốc Dũng là một biệt lệ khi âm nhạc trải ra từ trữ tình, nhạc trẻ, đến nhạc quê hương …”Em có thấy mùa xuân chưa – Bên nhau ngày vui- Lối Thu xưa”, ba sáng tác buổi đầu tiên đã cho thấy nội lực của QD trên các phong cách khác biệt… Nhờ “ đa phong cách”, Quốc Dũng đã thành công lớn trong việc hội nhập với thị trường và xu hướng của thời đại, tiếp cận được với nhiều tầng lớp người nghe ( thính phòng, dân gian, trẻ trung sôi động…). Đa phong cách, trong một chừng mực là ưu điểm, một cách thế hòa nhập nhưng đôi khi là một hạn chế  vì phải chăng mỗi người chỉ nên nói …một giọng nói. Người ta nhớ Lê Hựu Hà với dòng nhạc trẻ, nhớ Trịnh, Ngô Thụy Miên với chất trữ tình, nhớ Cung Tiến với dòng semi-classic …Vâng, là thuần nhất làm nên một hồn riêng không lạ lẫm…

Quốc Dũng đang mỉm cười với chúng tôi. Sáu mươi, tóc chỉ lơ phơ bạc, vẫn rất ”đàn ông” …Hỏi chuyện phong cách âm nhạc, anh có vẻ trầm ngâm: Tôi thuộc trường phái bình dị, thích dòng nhạc quê hương và viết ra lại sẵn có một đồng điệu là giọng ca Bảo Yến, và cả những nhà thơ đồng điệu như Nguyễn Đức Cường, Phạm Ngọc…giúp cho phần lời…À, mà cuộc đời lạ thật. Những bài hát tôi thích lại không trùng với sở thích mọi người…Tôi nhìn anh, nheo nheo mắt. Chính tôi, tôi cũng nhớ đến QD với những ca khúc trữ tình phong vị cổ điển (Em đã thấy mùa xuân chưa) hay hiện đại (Hoang vắng….) mà không đậm đà lắm với dòng nhạc quê hương của anh trong  “Lối thu xưa, Chuyện ba người, Chuyện hợp tan”…Vâng, người sáng tác có quyền chọn lựa cho mình một khuynh hướng và người nghe, dĩ nhiên, có chọn lựa của riêng mình.   * Quốc Dũng còn đó với chúng tôi, đàn trong tay trên ghế ngồi cà phê Phong Nguyệt và còn đó với tất cả chúng ta trên hành trình âm nhạc… Âm nhạc như một tiếng gọi, một đường bay, một thử thách gian lao và người nhạc sĩ 17 tuổi ngày nào hình như vẫn đang bước đi với một chút phân vân, một ít dọ dẫm kiếm tìm, cả nghi hoặc chính mình…Vâng, tôi tin QD đã thành công và sẽ còn thành công hơn nữa khi vượt lên chính mình, vượt lên vệt chân cũ của mình …

Vĩnh Phúc Tùy bút 31/8/2011 (Bài viết riêng cho Giai Điệu Xanh)

[footer]

Cô Láng Giềng (Hoàng Quý)

Trong một bài viết về nhạc phẩm “Bến Xuân”, chúng tôi có đề cập đến mối tình hay có thể chỉ là những rung động đầu đời của một chàng trai trẻ mới ngoài đôi mươi Văn Cao với người đẹp Hoàng Oanh. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Cô Láng Giềng” của nhạc sỹ Hoàng Quý, người anh cả của nhóm Đồng Vọng và cũng là một người bạn thân của Văn Cao.

Bìa nhạc "Cô láng giềng" xuất bản trước 1975. Ảnh: trungtamasia.com
Bìa nhạc “Cô láng giềng” xuất bản trước 1975. Ảnh: trungtamasia.com

TỪ “BẾN XUÂN” ĐẾN “CÔ LÁNG GIỀNG” (Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên Thanh Niên ngày 14/04/2012)

Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng (của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một “bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.

"Cô láng giềng" trong tuyển tập nhạc tiền chiến. Ảnh: ThanhNien.com.vn
“Cô láng giềng” trong một tuyển tập nhạc sau 1975 . Ảnh: ThanhNien.com.vn

Em đến tôi một lần

Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao – cây đại thụ của nền tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay (Buồn tàn thu, năm 1939) và các tình khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa,Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ bắc chí nam. Người có công đầu là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy – Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam), Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng) nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).

Trong cuốn băng video Văn Cao – Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc Đàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”… Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Bến Ngự (Hải Phòng) thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân”. Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao – Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời mới và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.

Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý. 

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về

Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn… Tuy nhiên, người ta nhớ đến Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúcCô láng giềng bất hủ.

Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng bước phiêu du về thăm nhà. Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi, tôi đã hình dung nét ai đang cười… Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm. Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền. Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng sóng. Xao xuyến nỗi niềm yêu… Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi không hề. Quên bóng ai bên bờ đường quê. Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”.

Năm 2002, người viết có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng: “Trước ngõ vào sân vang tiếng pháo. Chân bước phân vân lòng ngập ngừng. Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao. Tôi biết người ta đón em tưng bừng… Đành lòng nay tôi bước chân ra đi. Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi. Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi. Đừng nói đến phân ly… Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ rồi. Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về?”.

Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao, khi mới 26 tuổi.

Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế nào.

Hà Đình Nguyên

[footer]

Bụi phấn (Vũ Hoàng – Lê Văn Lộc)

Sáng nay đi qua các nẻo đường nhộn nhịp của Sài Gòn, [dongnhacxua.com] chúng tôi có cảm giác trẻ lại, quay về cái thuở học sinh của 20-30 năm về trước. Ngày đó, cũng vào dịp 20/11 như hôm nay, chúng tôi lại được ba mẹ, anh chị dẫn đi thăm và tặng quà cho các thầy cô giáo cũ, như một cử chỉ nhỏ nhoi tri ân công lao to lớn của những người làm công việc “đưa đò”. Nhân dịp 20/11, chúng tôi xin gởi lời tạ ơn đến các quý Thầy/Cô và chúc cho quý Thầy/Cô luôn khỏe mạnh và bình an trong công việc dạy dỗ cao đẹp. Cũng nhân dịp này, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản nhạc “Bụi phấn”, bài hát đã gắn liền với nhiều thế hệ học sinh như chúng tôi.

Bụi phấn (Vũ Hoàng - Lê Văn Lộc). Ảnh: vnmylife.com
Bụi phấn (Vũ Hoàng – Lê Văn Lộc). Ảnh: vnmylife.com

BỤI PHẤN VẪN RƠI TRÊN TÓC THẦY
(Nguồn: tác giả Nguyên Minh viết trên TheThaoVanHoa.vn ngày 20/11/2014)

(Thethaovanhoa.vn) -Hơn ba thập niên qua, rất nhiều thế hệ học trò đã lớn lên cùng kỷ niệm với bài hátBụi phấn của nhạc sĩ Vũ Hoàng, ý thơ Lê Văn Lộc. Nhưng ít ai biết được bài hát ra đời vào ngày 20/11/1982 – đúng ngày nhà giáo Việt Nam – đến nay đã được 32 năm.

Bài hát gắn liền số phận

Nhạc sĩ Vũ Hoàng có một thời gian khá dài theo nghề sư phạm, tại Trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, Khoa Âm nhạc và mỹ thuật, giảng dạy các bộ môn ký xướng âm, nhạc lý, lịch sử âm nhạc thế giới. Lúc bấy giờ mọi người đều đã biết anh là một người sáng tác với những bài hát khá nổi tiếng như Ngày mai tôi sẽ lên đường, Hương tràm…

Năm 1982, có một sự kiện nên nhà trường đề nghị Vũ Hoàng viết một bài hát về thầy cô giáo. Ngày 28/9/1982, Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) ban hành quyết định số 167-HĐBT theo đó 20/11 hằng năm sẽ là ngày lễ truyền thống mang tên Ngày Nhà giáo Việt Nam – trước đó, ngày này được gọi tên chung là Quốc tế hiến chương các nhà giáo. “Đối với bọn tôi lúc ấy, chuyện này gây xúc động ghê gớm”, nhạc sĩ Vũ Hoàng nhớ lại. Trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM quyết định làm một cuốn sách có tên gọi là Vui học, trong đó sẽ có một trang để vừa vặn một bài hát và đó sẽ là trách nhiệm của Vũ Hoàng. Yêu cầu cũng giản dị: Bài hát đơn giản, dễ nhớ và làm sao để in vừa trong một trang sách nhỏ để tất cả sinh viên đều dễ dàng học thuộc.

Ca khúc Bụi phấn và hình ảnh nhạc sĩ Vũ Hoàng 32 năm trước. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Ca khúc Bụi phấn và hình ảnh nhạc sĩ Vũ Hoàng 32 năm trước. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

“Tôi trăn trở lắm, bản thân mình là một thầy giáo thì rất háo hức nhưng chẳng biết dựa vào đâu để viết. Tôi không có tứ nào để lẩy cả…”, Vũ Hoàng bộc bạch. Thế rồi một lần tình cờ đi trên phố Vũ Hoàng gặp lại người bạn thanh niên xung phong Lê Văn Lộc. Hai người vui quá lôi nhau vào một quán cà phê vỉa hè tâm sự. Vũ Hoàng hỏi bạn: “Ông có cảm nhận như thế nào về thầy cô giáo tụi tôi không?”. Tưởng hỏi vậy thôi, bất ngờ Lê Văn Lộc kể: “Tôi vừa đi dự một buổi chia tay với một ông thầy ở chỗ tôi làm việc. Ông thầy này có một cái đặc biệt là ông viết gì trên bảng thì bụi phấn cũng rơi làm trắng mái tóc. Nên tôi thấy đẹp quá và làm liền mấy câu thơ: “Khi thầy viết bảng/Bụi phấn rơi rơi/Có hạt bụi nào rơi trên bục giảng/Có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy”. Nhưng tôi chỉ sáng tác được tới đó, không thêm được nữa”. 6 câu thơ này gần như hóa giải tất cả những trăn trở của Vũ Hoàng trước đó: “Vậy ông cho tôi xin 6 câu này nhé, để tôi nghiên cứu viết thêm thành một bài hát”. Lê Văn Lộc đồng ý ngay.

Về nhà, Vũ Hoàng ngồi thừ với những câu thơ đầy xúc động của Lê Văn Lộc. “Tông của anh Lộc là La trưởng nhưng tôi phải chuyển sang Đô trưởng cho dễ hát, giai điệu thơ anh Lộc khi cất lên lại mang màu sắc dân ca miền Trung. Cuối cùng tôi vẫn giữ nguyên nhưng tỉa tót lại thành cái của mình. Và sau nhiều lần suy nghĩ tôi triển khai đoạn B thành: “Em yêu phút giây này/Thầy em tóc như bạc thêm/Bạc thêm vì bụi phấn, cho em bài học hay”. Kết lửng ở đó để nối tiếp bằng: “Mai sau lớn lên người/Làm sao có thế nào quên/Ngày xưa thầy dạy dỗ/Khi em tuổi còn thơ…”. Làm xong tôi rất hài lòng, ý tưởng bài hát này đã được triển khai khá đầy đủ. Sự đầy đủ này mang tâm trạng của một người thầy như tôi lúc đó, nó đúng và đầy ý nghĩa. Tôi đã sáng tác rất nhiều bài cùng đề tài nhưng bài hát này tôi ưng nhất, nó như thể gắn liền với số phận của tôi”.

Chỉ có thể “Bụi phấn”

Sáng tác xong, Vũ Hoàng “va” ngay một vấn đề khó khác: tựa đề. Bụi phấn ban đầu có một cái tên khác. Bởi có một vấn đề hơi bất hợp lý ở đây là nguyên tắc các thầy cô giáo khi được đào tạo ra làm giáo viên thì không bao giờ viết bảng để rơi bụi phấn lên đầu. Nhưng hình tượng này đẹp quá, làm sao bỏ nó ra được! Chi tiết này dễ làm nhớ tới trong lịch sự nhạc Việt cũng có nhiều trường hợp gần giống vậy. Ví dụ như bài Bến cảng quê hương ta của nhạc sĩ Hồ Bắc có câu: “Ơi cô gái lái xe trên cảng/Xe em bon nhanh và tóc em bay trên sóng biển quê hương”. Một hình ảnh rất đỗi dịu dàng, tạo nên nhịp thở cho cả bài hát nhưng việc “xe em bon nhanh và tóc em bay” là vi phạm quy định lao động, không đội mũ khi lái xe, dễ gây tai nạn. Nhưng hình ảnh đó sau cùng lại được công chúng chấp nhận và rất yêu thích.

Lúc ấy Vũ Hoàng có hát cho bạn bè nghe và nhiều người cũng bảo anh rằng cái tựa Bụi phấn là có vấn đề vì nó có vẻ buồn buồn, mang tính bụi bặm, hạ hình tượng người thầy giống như bụi phấn, dễ làm người ta hiểu lầm. Nghe thế Vũ Hoàng lại càng hoang mang. Bài hát này mà không mang tên Bụi phấn thì biết đặt tên gì? Cuối cùng, sau khi đắn đo, suy nghĩ anh quyết vẫn để tên Bụi phấn cho bài hát bài bởi hình tượng đó không thể thay đổi, bụi phấn chỉ tôn thêm nét đẹp của người thầy…

Ngày 20/11/1982, bài hát Bụi phấn lần đầu tiên chính thức ra mắt tại sân Trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM với tiếng hát của hơn 2.000 sinh viên. Nhạc sĩ Vũ Hoàng không bao giờ quên giây phút xúc động ấy, “nó làm tôi thấy thêm yêu nghề thầy giáo, bài hát làm lòng tôi thắt lại và tôi nghĩ nhiều người cũng cảm giác như thế. Nghề dạy học là nghề đưa đò qua sông. Đưa từng thế hệ này đến thế hệ khác, có cháu còn nhớ, có những người cũng chẳng nhớ chẳng quên, chính vì thế khi viết bài này tôi có mơ ước làm chiếc cầu nối để đưa họ trở về trường, nhớ công ơn thầy cô đã từng dạy dỗ mình”.

Bụi phấn trở thành một cú “hit” thời ấy. Năm 2000 ca khúc Bụi phấn được chọn vào danh sách 50 bài hát thiếu nhi hay nhất thế kỷ 20 do báo Thiếu niên Tiền phong, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Ban Khoa giáo VTV, Ban Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức.

Khi được hỏi thầy cô bây giờ dùng phấn không bụi thì hình tượng bụi phấn đã lạc thời, nhạc sĩ Vũ Hoàng trả lời: “Bụi phấn giờ không còn, bảng đen chắc rồi cũng thế, chúng ta không thể đi ngược dòng chảy nhưng hình tượng người thầy giáo với cái bục giảng thì vẫn ở lại. 32 năm trước, khi sáng tác bài này tôi làm sao dám nghĩ nó vẫn được hát đến hôm nay. Tôi ngỡ nó sẽ bị trôi đi nhưng cuối cùng nó vẫn ở đây. Vậy thì hình tượng người thầy với mái tóc bạc vì bụi phấn kia tôi nghĩ chẳng bao giờ mất”.

Nguyên Minh
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

[footer]