Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy (Trầm Tử Thiêng)

Trưa nay, 20.03.2016, cầu Ghềnh ở thành phố Biên Hòa bị sập. Nhiều người bị rơi xuống sông, hàng trăm hành khách đường sắt bị điêu đứng. [dongnhacxua.com] xin gởi lời chia buồn đến các gia đình nạn nhân và mong những tổn thất nếu có sẽ được hạn chế tối đa.

Nhân sự kiện này, chúng tôi chợt nhớ đến biến cố Mậu Thân 1968. Khi đó, cầu Trường Tiền ở Huế (có lẽ cũng được Pháp xây dựng cùng thời với cầu Ghềnh) cũng bị gãy. Cũng bao nhiêu người dân vô tội bị chết, bao gia đình tan nát, điêu linh. Thời chiến cũng như thời bình, dù cố tình hay vô tình, thì người dân vô tội vẫn phải gánh chịu hậu quả không lường. Một lần nữa, [dongnhacxua.com] cầu mong mọi điều tốt lành nhất cho các nạn nhân và mong những người có thẩm quyền hành động vì lợi ích của người dân, của dân tộc để nước Việt mình không phải hứng chịu những thảm họa mà cố nhạc sỹ Trầm Tử Thiêng phải đau buồn thốt lên trong nhạc phẩm “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”

Ảnh: vietstamp.net
Ảnh: vietstamp.net

CẦU TRƯỜNG TIỀN
(Nguồn: wikipedia)

Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền [1], là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m [2], được thiết kế theo kiến trúc Gô tích, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế thuộc Việt Nam.

Cầu Trường Tiền bên nhành phượng vĩ, sáng mùa hè 2007. Ảnh: wikipedia
Cầu Trường Tiền bên nhành phượng vĩ, sáng mùa hè 2007. Ảnh: wikipedia

Căn cứ bài thơ “Thuận Hóa thành tức sự” của nhà thơ Thái Thuận [3], thi sĩ Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tôn, sông Hương đã có cầu. Chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống [4]. Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.

Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi ấy Khâm sứ Trung Kỳ là Levécque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do Gustave Eiffel thiết kế) và khởi công xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này [5]. Tổng cộng tiền xây cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng bạc Đông Dương, là một số tiền lớn vào thời đó [6]. Tổng chiều dài cây cầu lúc bấy giờ là 401,10 m, rộng 6,20 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược (hay hình bán nguyệt); và hình dáng đó về cơ bản được giữ nguyên cho tới ngày nay.

Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn làm cầu hư hỏng nặng. Hai năm sau, tức năm Thành Thái thứ 18 (1906)[7], chiếc cầu mới được tu sửa lại, và mặt cầu được đúc bằng bê tông cốt thép.
Năm 1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất.

Năm 1937, dưới triều vua Bảo Đại, cầu Trường Tiền được trùng tu, cải tạo lớn. Cầu được mở rộng hành lang hai bên cho xe đạp và người đi bộ. Ở hành lang tại vị trí trụ cầu giữa 2 vài có các bao lơn (ban công) phình rộng ra – là nơi nghỉ chân, ngắm cảnh hay tránh nhau.

Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng.

Năm 1946, trong chiến tranh Việt – Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại.

Năm 1953, cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ.

Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy [8], khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.

Cầu nổi do đội công binh Quân đội Hoa Kỳ bắc qua sông Hương sau khi cầu Trường Tiền bị giật sập. Ảnh: wikipedia
Cầu nổi do đội công binh Quân đội Hoa Kỳ bắc qua sông Hương sau khi cầu Trường Tiền bị giật sập. Ảnh: wikipedia

Sau khi kết thúc chiến tranh (1975) cầu được đổi tên thành “Tràng Tiền”.

Mãi tới năm 1991 cầu Tràng Tiền mới được khôi phục, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,…[9].

Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại… và đến năm 2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền

 [footer]

Đồi Thông Hai Mộ (Hồng Vân)

Trong một bài viết về bản “Người ấy” của nhạc sỹ Trần Quý, tức Hồng Vân, chúng tôi có nhắc đến sáng tác có lẽ là nổi tiếng nhất của ông: “Đồi thông hai mộ”. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, chúng tôi xin giới thiệu bản nhạc này.
[dongnhacxua.com] không có nguồn tư liệu chính xác về thực hư của câu chuyện tình buồn “Đồi thông hai mộ” nhưng nếu đúng như truyền thuyết kể lại thì chúng tôi cầu mong linh hồn của hai nhân vật sẽ được an lạc nơi chốn vĩnh hằng “như lời xưa thề ước”!

Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

doi-thong-hai-mo--1--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com doi-thong-hai-mo--2--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ CÂU CHUYỆN “ĐỒI THÔNG HAI MỘ”
(Nguồn: wikipedia.org)

Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.
Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.

Thắng cảnh Đồi thông hai mộ thường được gắn với những câu chuyện ly kì, tuy nhiên có một câu chuyện được cho là trung thực nhất kể rằng: chàng tên Vũ Minh Tâm, nàng tên Lê Thị Thảo. Chàng quê ở Gò Công, Tiền Giang, sinh trong một gia đình đại điền chủ giàu có, là sinh viên Trường Võ bị Đà Lạt. Nàng:

        “… năm ấy khi tuổi vừa đôi chín
        Tâm hồn đang trắng trong
        Như chim non khi ăn còn chưa no
        Khi co còn chưa ấm”

Họ gặp nhau tâm đầu ý hợp, yêu nhau tha thiết và thề non hẹn biển. Tốt nghiệp, chàng về xin cha mẹ trầu cau cưới hỏi… nhưng bị gia đình phản đối kịch liệt vì gia đình nàng không “môn đăng hộ đối” và bắt đi cưới người con gái mà chàng không hề yêu. Chàng đã xin chuyển đến một vùng tuyến đầu lửa đạn để tìm quên… Và rồi, nàng nhận được tin báo tử của chàng từ chiến trường. Đau khổ tột cùng:

        “nàng buồn thơ thẩn chẳng còn ngồi
        trang điểm qua màu phấn
        Để phai úa đến tàn cả hương sắc
        tháng ngày luôn héo hon”

Sau đó, nàng tìm đến khu đồi thông bên bờ hồ Sương Mai (sau tình sử này được gọi là hồ Than Thở), nơi hai người xưa kia từng hò hẹn, tự vẫn chết vào ngày 15 tháng 3 năm 1956. Thuận theo nguyện vọng, gia đình đã chôn cất nàng ngay dưới khu đồi thông. Nhưng thật ra người ta đã nhầm khi báo tử, chàng không tử trận và đang trở về thăm nàng. Hay tin nàng chết, Tâm tìm đến mộ nàng vật vã khóc than, sau đó cũng tự tử chết theo để giữ trọn lời thề[6]. Trước khi chết, chàng để lại bức thư tuyệt mệnh với mong ước được yên nghỉ bên cạnh mộ nàng để hai người mãi mãi được gần nhau. Và:

        “… mộ chàng đã được ở cạnh nàng
        Như lời xưa thề ước
        Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc
        dưới mộ sâu đất khô
        Qua bao năm rêu xanh phủ che kín…”

Hai ngôi mộ trên đồi thông.
Hai ngôi mộ trên đồi thông.

Tuy nhiên, sau năm 1975, do tuổi cao sức yếu, không thể thường xuyên lên thăm mộ con, cha mẹ chàng đã cho bốc mộ anh đưa về quê. Dù hài cốt chàng đã được dời đi nhưng cảm thương mối tình của hai người, người thân của nàng vẫn để ngôi mộ đôi. Và sau này ngôi mộ được tôn tạo khang trang lại, trở thành điểm tham quan du lịch độc đáo như hiện nay.

Nhân dịp Festival hoa Đà Lạt 2012, Ban tổ chức đã cho trồng toàn hoa tím chung quanh khu mộ.

[footer]

Sắc Hoa Màu Nhớ (Nguyễn Văn Đông)

Tiếp nối dòng nhạc Nguyễn Văn Đông, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu một sáng tác gắn liền với tên tuổi của nhà nhạc sỹ: bản “Sắc hoa màu nhớ”.

Sắc hoa màu nhớ (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: http://vnchord.com
Sắc hoa màu nhớ (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: http://vnchord.com
sac-hoa-mau-nho--1--nguyen-van-dong--vnchord.com--dongnhacxua.com
sac-hoa-mau-nho--2--nguyen-van-dong--vnchord.com--dongnhacxua.com

ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA “SẮC HOA MÀU NHỚ”
(Nguồn: lời kể của chính nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông trong bài phỏng vấn của nhà báo Hoàng Lan Chi)

Nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông thời trẻ. Ảnh: CoThomMagazine.com
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông thời trẻ. Ảnh: CoThomMagazine.com

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

[footer]

Phiên Gác Đêm Xuân (Nguyễn Văn Đông)

Trong không khí Xuân Bính Thân 2016, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu một nhạc phẩm nổi tiếng của nhạc sỹ lão thành Nguyễn Văn Đông: “Phiên Gác Đêm Xuân”. Ra đời trong bối cảnh chiến trang nên chắc chắn “Phiên Gác Đêm Xuân” có vương màu khói lửa. Thế nhưng nếu nghe kỹ, người yêu nhạc dễ nhận ra tâm sự của người lính thời chiến cũng không khác gì mấy so với tâm trạng của những đứa con xa nhà thời bình vào mỗi dịp xuân về. Nhân dịp đầu xuân, [dongnhacxua.com] xin kính chúc nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông dồi dào sức khỏe và vui hưởng tuổi già cùng con cháu và hàng triệu người mến mộ các sáng tác của ông qua nhiều thế hệ!

Phiên gác đêm xuân (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Phiên gác đêm xuân (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

phien-gac-dem-xuan--1--nguyen-van-dong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com phien-gac-dem-xuan--2--nguyen-van-dong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA “PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN”
(Nguồn: lời kể của chính nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông trong bài phỏng vấn của nhà báo Hoàng Lan Chi)

Nguyễn Văn Đông (1974).
Nguyễn Văn Đông (1974).

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh  lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:

“Đón giao thừa một phiên gác đêm
      chào Xuân đến súng xa vang rền.
      Xác hoa tàn rơi trên báng súng
      ngỡ rằng pháo tung bay
      ngờ đâu hoa lá rơi…”

Rồi mơ ước rất đời thường:

“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây máinhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”

Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.

[footer]

Tâm sự của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân

Tiếp nối dòng nhạc của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân, [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến người yêu nhạc vài nét chính về hoạt động nghệ thuật cũng như sinh hoạt đời thường mà chính nhạc sỹ đã chia sẻ trong cuộc trao đổi với nhóm DongNhacVang. Xin cảm ơn nhóm DongNhacVang và chúc nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân luôn dồi dào sức khỏe để an hưởng tuổi già!

Tâm sự về hoàn cảnh ra đời của bản “Hái hoa rừng cho em”, Trương Hoàng Xuân cho biết bản này nhạc sỹ sáng tác ngoài quân trường. Nhiều lúc nhớ “người yêu”, nhạc sỹ đã viết thư và trộm hái hoa rừng (vì sợ cấp trên phát hiện thiếu nghiêm túc trong lúc di hành) để ép vào những lá thư từ chiến trường gửi về người em hậu phương. Nhạc sỹ cũng tiết lộ thêm một chi tiết thú vị: đối tượng trong bài này là Hoàng Ngọc Quyên, người được Trương Hoàng Xuân ưu ái để tên đồng tác giả “Trương Hoàng Xuân – Hoàng Ngọc Quyên”.

Hái hoa rừng cho em (Trương Hoàng Xuân - Hoàng Ngọc Quyên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hái hoa rừng cho em (Trương Hoàng Xuân – Hoàng Ngọc Quyên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hai-hoa-rung-cho-em--1--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hai-hoa-rung-cho-em--2--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hai-hoa-rung-cho-em--3--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT TIỂU SỬ NHẠC SỸ TRƯƠNG HOÀNG XUÂN 
(Nguồn: wikipedia)

Trương Hoàng Xuân sinh năm 1939 tại Sài Gòn.

Năm 1960, ông tốt nghiệp Sư phạm, về dạy tại Long Khánh, tỉnh Bình Tuy.

Năm 1968 đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng.

Năm 1972 ông được Bộ Giáo dục VNCH bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10.

Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới cho thôi việc, ông xin qua Ngành Bưu điện làm công tác văn nghệ quần chúng cho đến ngày nghỉ hưu.

TÂM SỰ CỦA NHẠC SỸ TRƯƠNG HOÀNG XUÂN 
(Nguồn: nhóm DongNhacVang)

[footer]

Đoàn Quân Việt Nam (Phan Huỳnh Điểu)

Sau sáng tác đầu tay ‘Trầu cau’, bản nhạc kế tiếp gây tiếng vang của nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu là ‘Đoàn quân Việt Nam’. [dongnhacxua.com] xin lấy đúng tên gốc là ‘Đoàn quân Việt Nam’ do nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) đã phát hành mà chúng tôi sưu tầm được. Trong một bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên mà chúng tôi mạn phép trích đăng thì tên ban đầu là ‘Đoàn vệ quốc quân’ rồi theo nhiều biến động của thời cuộc, bản này giờ đây được đổi thành ‘Đoàn giải phóng quân’.

Dù với tên gọi nào, dù với vài thay đổi trong ca từ cho phù hợp với “thời cuộc, chế độ”, theo thiển ý của [dongnhacxua.com], đây là một trong những sáng tác có giá trị nhất của nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu, thể hiện tinh thần dân tộc cao độ của một người con mang dòng máu Lạc Hồng, cùng sự dấn thân hy sinh vì tổ quốc Việt Nam.

Qua bài viết này, chúng tôi xin được phép nghiêng mình và thắp một nén nhang cho những linh hồn đã khuất vì đất Mẹ thân yêu!

Đoàn quân Việt Nam (Phan Huỳnh Điểu). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Đoàn quân Việt Nam (Phan Huỳnh Điểu). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

doan-quan-viet-nam--1--phan-huynh-dieu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com doan-quan-viet-nam--2--phan-huynh-dieu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com doan-quan-viet-nam--3--phan-huynh-dieu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

PHAN HUỲNH ĐIỂU – COM ‘CHIM VÀNG’ CỦA TÂN NHẠC: ĐOÀN VỆ QUỐC QUÂN VÀ SỐ TIỀN TÁC QUYỀN KỶ LỤC
(Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên trên ThanhNien.com.vn)

Nhiều người gọi nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là “con chim vàng của tân nhạc Việt”. Ông cũng tỏ ra thú vị với biệt danh này, bởi theo cách giải thích của ông, “huỳnh” không phải là một cái họ, mà là biến âm của chữ “hoàng” (nghĩa là màu vàng), còn “điểu” là con chim. “Ừ thì mình sáng tác nhạc nên người ta gọi như thế cũng… oách, mà lại không sai nghĩa!”.

Nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu - Ảnh: Độc Lập
Nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu – Ảnh: Độc Lập

Chiều 30.6, tại Nhà tang lễ TP.HCM, lãnh đạo TP.HCM cùng đông đảo văn nghệ sĩ, bạn bè, đồng nghiệp và người hâm mộ đã đến viếng nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Bà Phạm Thị Vân, vợ ông không có mặt vì bị tai biến. Con trưởng ông là nhạc sĩ Phan Hồng Minh đang ở Đức chưa về kịp.
Mọi người vẫn còn nhớ, mới đầu tháng 6 này, “đại gia đình” Hội Âm nhạc TP.HCM còn chứng kiến lão nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu ngồi an nhiên trên băng ghế “chủ tọa đoàn” trong Đại hội Hội Âm nhạc TP.HCM nhiệm kỳ 7 (2015 – 2020) tại Nhà hát Thành phố. Ở đại hội này, ông tham dự với tư cách cố vấn. Là nhạc sĩ cao tuổi nhất nhưng ông không hề tỏ ra mệt mỏi khi tham dự các buổi đọc tham luận và tranh luận. Ông lúc nào cũng tươi cười. Khi các đại biểu bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới, ông chụp hình lia lịa những khuôn mặt em út, học trò thân quen… Anh chị em trong Hội Âm nhạc TP.HCM chắc sẽ khó quên được những kỷ niệm với bác Bảy (tên gọi thân mật của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu), nhất là những mẩu chuyện tiếu lâm mà bác Bảy kể bằng giọng xứ Quảng rất duyên trên những chuyến xe, chuyến tàu đi thực tế sáng tác hoặc đi dự hội nghị, khiến mọi người cười rần rần suốt buổi…

Những nhạc phẩm đầu tay

Phan Huỳnh Điểu thuộc lớp nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc cải cách (thường gọi là “tân nhạc”, để phân biệt với cổ nhạc dân tộc). Nên nhớ, nếu như nhạc phẩm Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên (phổ thơ Nguyễn Văn Cổn) ra đời năm 1938 và được coi là bản tân nhạc đầu tiên của VN (dù trước đó, đã có nhiều bản nhạc và nhóm nhạc theo nhạc lý Tây phương), thì chỉ 2 năm sau, chàng thiếu niên 16 tuổi Phan Huỳnh Điểu đã cho ra đời bài hát Trầu cau (1940), dù lúc đó trình độ nhạc lý của chàng chỉ “a-bê-xê” nhưng vẫn… liều sáng tác. Bản nhạc đầu tay ấy, đến mãi 75 năm sau (lúc tác giả qua đời, 2015) nhiều người vẫn còn nhắc và chắc chắn chừng nào còn nói đến nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, sẽ còn phải nhắc đến Trầu cau.

Một giai thoại gắn liền với ca khúc thứ hai của Phan Huỳnh Điểu là bài Đoàn Vệ quốc quân (sáng tác cuối năm 1945, sau sửa lại là Đoàn Giải phóng quân). Ca khúc được sáng tác khi VN vừa giành được độc lập và đang hừng hực khí thế trước âm mưu quân Pháp tái chiếm, nhất là ở miền Nam. Lúc đó, Phan Huỳnh Điểu mới 21 tuổi. Hằng ngày, khi các đoàn tàu chở các chiến sĩ trên đường Nam tiến dừng chân ở ga Đà Nẵng, thì Đội Tuyên truyền Việt Minh (trong đó có Phan Huỳnh Điểu) đến từng toa tàu, hát vang ca khúc này, động viên tinh thần chiến sĩ… Lúc đó ở Huế có ông Tăng Duyệt (cha người Hoa, mẹ Việt) mở nhà in Tân Hoa ở đường Gia Long (sau đó chuyển thành NXB Tinh Hoa ở số 121 Trần Hưng Đạo, Huế). Ông Duyệt rất thích ca khúc này nên đã ký hợp đồng xuất bản, tiền tác quyền là… 800 đồng. Phan Huỳnh Điểu hết hồn, vì số tiền quá lớn. Sau này, ông vẫn kể: “Đấy là số tiền tác quyền kỷ lục mà tôi được trả cho một ca khúc”. Với số tiền ấy, ông hoan hỉ mua được cây đàn guitar “đã qua sử dụng” của… vua Bảo Đại từ một người quen (ông này được một chính khách ngoại quốc nhượng lại) hết 80 đồng. Còn lại 720 đồng đủ cho ông “ăn cơm bụi” suốt 5 năm!

Nhưng nói vậy thôi, chứ ông đâu thể “ăn cơm bụi” suốt 5 năm vào cái thời chiến tranh loạn lạc ấy. Ông dành 700 đồng về trao cho mẹ và nói rõ: “Đây là tiền ông Tăng Duyệt ngoài Huế mua bài hát Đoàn Vệ quốc quân của con”. Mẹ ông cũng bất ngờ, cứ hỏi đi hỏi lại: “Có đúng như vậy không? Hay là con phỉnh má?”… Đến 30 năm sau (1975), đất nước thống nhất, sau một giai đoạn dài lửa khói đạn bom, ông mới có dịp gặp lại người mẹ thân yêu. Mẹ hỏi: “Biết là con đi theo cách mạng, nhưng con làm nghề gì?”. “Thì con vẫn làm… bài hát mà má!”. Số tiền nhuận bút của ông Tăng Duyệt ngày nào làm ấm lại buổi hàn huyên… Ngày mẹ ông mất (năm 1982, thọ 95 tuổi), ông rất xúc động, bảo rằng: “Tôi rất biết ơn giọng hát ru con ngọt ngào của mẹ (nhà ông có đến 11 anh em). Giọng hát ru ấy đã thấm đẫm vào tâm hồn non nớt của thằng bé mới 6 – 7 tuổi là tôi. Mẹ tôi xứng đáng là nghệ sĩ nhân dân vô danh”.

Hà Đình Nguyên

[footer]

Diệt Phát Xít (Nguyễn Đình Thi)

Trong những ngày đầu tháng năm này (08-09/05/2015), thế giới đang kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, cuộc chiến được cho là khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại.  Chiến Tranh Thế Giới II gắn liền với một chủ nghĩa Phát Xít cực đoan, phi nhân tính mà đứng đầu là nước Đức Quốc Xã.

Cùng với hàng tỷ con tim yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Diệt Phát Xít” của cố nhạc sỹ Nguyễn Đình Thi để qua đó thế hệ trẻ hình dung phần nào về lịch sử của dân tộc, qua đó có nhận định đúng hơn về giá trị của hòa bình, dân chủ và tự do.

Diệt Phát Xít (Nguyễn Đình Thi). Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net
Diệt Phát Xít (Nguyễn Đình Thi). Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

CHUYỆN CHƯA KỂ VỀ BÀI HÁT ‘DIỆT PHÁT XÍT’ CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
(Nguồn: vov.vn)

Mỗi lần xa quê hương, xa đất nước mà nghe nhạc hiệu “Diệt phát xít” trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) thì lòng tôi cứ xốn xang, bồi hồi. Tôi đã đôi lần trải qua những thời khắc đáng nhớ ấy, nên càng yêu mến tiếng nói quê hương, tự hào về nó.

Trong thời gian công tác ở Đài TNVN, tôi được vài lần gặp gỡ với ông Nguyễn Đình Thi – Tác giả của bài hát “Diệt phát xít” khi đến trò chuyện với anh chị em biên tập văn nghệ. Vốn là người “nhà Đài” từ những ngày đầu mới thành lập, như lời Tổng biên tập Trần Lâm giới thiệu, nên buổi gặp gỡ nào cũng thân mật, chân tình. Có lẽ vì vậy mà ông đã trải lòng mình, kể nhiều chuyện vui buồn, những lo âu của nghề biên tập cũng như trên bước đường nghệ thuật của một nhà văn hóa lớn đầy tài hoa về văn, thơ, họa, nhạc, kịch…

Nhạc sỹ Nguyễn Đình Thi (Ảnh: Văn Nghệ Quân Đội)
Nhạc sỹ Nguyễn Đình Thi (Ảnh: Văn Nghệ Quân Đội)

Tôi đã hỏi ông về sự ra đời của bài hát “Diệt phát xít”. Nguyễn Đình Thi như nhớ lại rồi chậm rãi kể: “Khoảng năm 10 tuổi, bố tôi bắt tập đàn Nguyệt, dần dà đánh thạo được mấy bài Cổ Bản, Tứ Đại Cảnh, Lưu Thủy… Thấy hay hay, tôi học thêm đàn Mandolin và đánh được mấy bản nhạc Tây. Tôi học lý thuyết từ sách dạy nhạc của trường Tiểu hoc Pháp do bố mẹ mua. Tôi tự học nhạc bằng nghe nhiều hơn, có lẽ vì vậy mà tôi viết nhạc không nhiều.

Vào đầu năm 1945, đời sống của Hà Nội rất thê thảm. Cả nội ngoại thành người chết đói la liệt. Tôi chưa nhìn thấy cảnh đó bao giờ. Chúng tôi chưa đến nỗi chết, nhưng cũng đói vàng mắt, mềm người.

Hồi đó, tôi và một số anh em hoạt động trong hội Văn hóa Cứu Quốc nhận được chỉ thị của Trung ương về Nhật, Pháp bắn nhau. Chỉ thị đó như kêu gọi, như thúc giục. Truyền đơn của Việt Minh và các tờ báo như Cờ Giải Phóng, Cứu Quốc được truyền tay nhau đọc. Phong trào cướp kho thóc, phá nhà giam, cướp vũ khí của địch từ ngoại thành và các vùng phụ cận dội đến. Tin về khu giải phóng Việt Bắc, tin về quân đội Liên Xô đánh quân Phát xít ở châu Âu thua tơi bời, đang dồn vào tận hang địch.

Chúng tôi thấy rõ bọn Phát xít sắp bị tiêu diệt. Ở ta thì quân phiệt Nhật sắp ngã gục. Thời cơ nổi dậy của các dân tộc đang đến. Những cái tôi viết hồi bấy giờ là trong không khí như vậy. Hai chữ Phát xít hầu như ai cũng nghĩ đến, cũng nói đến. Anh Văn Cao, anh Đỗ Nhuận là hai bạn học và cùng hoạt động ở Hải Phòng, nay cùng tham gia viết và in báo Độc Lập.

Một hôm, chúng tôi bàn nhau mỗi người viết một bài hát cách mạng để đáp ứng yêu cầu của phong trào. Ít hôm sau, chúng tôi đã có ‘Tiến quân ca’ (Văn Cao), ‘Du kích ca’ (Đỗ Nhuận). Tôi nghe nói ở trong Nam, anh Lưu Hữu Phước vừa viết xong ‘Lên đàng’. Riêng tôi hơi vất vả mới hoàn thành xong ‘Diệt Phát xít’. Bài hát của tôi không in trên báo Độc Lập như hai bài của Văn Cao và Đỗ Nhuận, tôi chỉ chép tay mấy bản đưa đến mấy nơi tập cho các bạn trẻ.

Có lẽ do nội dung bài hát là lời kêu gọi khởi nghĩa, phù hợp với chương trình hành động của Việt Minh, nên được nhiều người hát trong các cuộc sinh hoạt. Giữa tháng 8, tôi đi Tân Trào để dự họp nên không được chứng kiến cuộc mít-tinh ngày 17. Anh em kể lại rằng, chiều hôm đó, không khí sôi sục của quần chúng tiến đến tổng khởi nghĩa, trong cuộc diễn thuyết ở Nhà hát Lớn, một lá cờ đỏ sao vàng rất to được buông từ trên nóc xuống.

Sau bài hát tập thể ‘Tiến quân ca’, một anh thanh niên bước ra trước máy phóng thanh hát luôn bài ‘Diệt Phát xít’. Nghe kể lại mà tôi vui quá, nước mắt cứ chạy vòng quanh. Sau cuộc mit-tinh, Hội khuyến nhạc ở Hà Nội in thêm nhiều bản, dàn nhạc Bảo An Binh (đã về theo cách mạng) hay diễn tấu ở những nơi đông người, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên. Bài này cũng đã biểu diễn mở đầu cho Tuần Lễ Vàng ở Hà Nội. Cũng từ đó, tôi vinh dự được anh Trần Lâm lấy bản nhạc ‘Diệt Phát xít’ làm nhạc hiệu cho Đài TNVN…”.

Chất hành khúc kêu gọi của bài hát “Diệt Phát xít” đã thể hiện nét nhạc nhảy quãng 4 (sol đô) theo tiếng kèn đồng giục giã và nhấn mạnh: “Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than” (Si la sol la si sol la ). Trên cơ sở đó tác giả đã phát triển các đoạn nhạc rất khéo léo xen lẫn giữa trữ tình và bi tráng: “Đã đến ngày trả mối thù chung… Dưới bóng cờ đỏ ánh vàng sao”. Kể cả nét nhạc thúc bách mau mau hành động: “Đồng bào tuốt gươm vùng lên…Giành lại áo cơm tự do”.

Chủ đề âm nhạc mở đầu là “Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than”. Chủ đề này còn được nhắc lại ở đoạn kết “Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam! Ôi đất Việt yêu dấu ngàn năm. Việt Nam, Việt Nam muôn năm”.

Giữa những ngày tháng 9 lịch sử này, mỗi khi nghe bài hát “Diệt phát xít” càng nhớ một người con của Hà Nội, một sĩ quan quân đội nhân dân và là đồng nghiệp của chúng tôi, đó là nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003). 11 năm trước, ông đã bay về phía “Mặt trận trên cao”, về với tổ tiên và thế giới người hiền, nơi có nhiều “Tia nắng”…/.

Nhạc sĩ Dân Huyền

[footer]

Những Đóm Mắt Hỏa Châu (Hàn Châu)

Với lịch sử gắn liền với quá nhiều cuộc chiến như Việt Nam chúng ta, hẳn nhiên âm nhạc không thể nào không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Một trong những hình ảnh của thời binh đao đã đi vào âm nhạc là hình ảnh của những đóm hỏa châu.

Hỏa châu hiểu một cách đơn giản là một dạng pháo sáng, gắn một tấm vải dù bên trên. Khi được bắn lên bầu trời, hỏa châu sẽ bay lơ lửng để chiếu sáng vùng mặt đất bên dưới để giúp phát hiện đối phương đang tác chiến bên dưới.

Saigon 1967 - Hỏa châu trên thành phố, phía sân bay TSN. Phía dưới ảnh là Thương xá TAX.  Saigon 1967 - 4 flares hanging over the city. Photo by Bill Mullin.
Saigon 1967 – Hỏa châu trên thành phố, phía sân bay TSN. Phía dưới ảnh là Thương xá TAX.
Saigon 1967 – 4 flares hanging over the city. Photo by Bill Mullin.
Saigon 1967 - Tòa nhà cao bên trái là trụ sở USAID trên đường Lê Văn Duyệt  Saigon 1967 - 2 flares hanging over the city near my hotel. The tall building at the left is the USAID headquarters.
Saigon 1967 – Tòa nhà cao bên trái là trụ sở USAID trên đường Lê Văn Duyệt.
Saigon 1967 – 2 flares hanging over the city near my hotel. The tall building at the left is the USAID headquarters. Photo: Flickr

Trên tinh thần góp một phần nhỏ nhoi để bảo tồn dòng nhạc xưa, hôm nay [dongnhacxua.com] xin hân hạnh giới thiệu bản “Những đóm mắt hỏa châu” của nhạc sỹ Hàn Châu. 

Qua nét nhạc bolero dặt dìu, nhạc sỹ Hàn Châu đã lột tả tâm trạng đời thường chân thực của người lính chiến và qua đó làm đẹp hơn hình ảnh hỏa châu vốn gắn liền với sự đau thương của chiến tranh.

Những đóm mắt hỏa châu (Hàn Châu). Ảnh: HopAmViet.com
Những đóm mắt hỏa châu (Hàn Châu). Ảnh: HopAmViet.com

nhung-dom-mat-hoa-chau--1--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com nhung-dom-mat-hoa-chau--2--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com

nhung-dom-mat-hoa-chau--3--han-chau--hopamviet.com--dongnhacxua.com

[footer]

Một Mai Giã Từ Vũ Khí

Với tiêu chí phi chính trị, [dongnhacxua.com] không có ý định đào sâu thêm về cuộc chiến với quá nhiều đau thương mà dân tộc Việt Nam chúng ta đã trải qua trong hơn 20 năm 1954-1975. Tuy nhiên, trong những ngày tháng tư này, dù muốn dù không, những hình ảnh của một thời khói lửa vẫn tràn về, bằng cách này hay bằng cách khác, tùy vào góc nhìn của mỗi người.

Hôm nay, chúng tôi trân trọng giới thiệu bản “Một mai giã từ vũ khí” của nhạc sỹ Nhật Ngân, ký dưới nghệ danh Ngân Khánh, tên con gái ông. Theo đánh giá chủ quan của [dongnhacxua.com] thì đây là nhạc phẩm tiêu biểu nhất cho những sáng tác về một thời chinh chiến.

Bản nhạc gồm 3 đoạn mà ý chủ đạo là niềm mơ ước chấm dứt chiến tranh, hòa bình lặp lại và người lính sẽ từ bỏ vũ khí để trở về với cuộc sống thường ngày, với kỷ niệm tuổi thơ mà vì chiến tranh, đã bị cướp mất. Trong “Một mai giã từ vũ khí”, chúng ta không bắt gặp một từ ngữ nào về ý thức hệ, về “chiến thắng” mà chỉ là sự chờ đợi đến héo hon cho “một ngày chinh chiến tàn”.

Nhạc sỹ Nhật Ngân đã nói lên mong ước tưởng chừng như rất giản đơn của cả một thế hệ trai trẻ thời chiến: một ngày được “trả súng đạn này, thôi sạch nợ sông núi” để xây dựng lại quê hương qua những hình ảnh bình dị như “nương dâu”, “con trâu”, “chiếc cầu tre”, … 

Nghe kỹ lời nhạc, chúng ta không tìm thấy một chi tiết nào về “lòng thù hận” mà xuyên suốt là tính nhân văn của một người con dân tộc Việt, nhất là chi tiết “dìu em về thăm” những “người bạn đã ngàn năm yên nghỉ” để chúng ta hôm nay hãy biết quý trọng hòa bình và hãy biết yêu thương nhau. 

Một mai giã từ cũ khí (Nhật Ngân). Ảnh: VietStamp.net
Một mai giã từ vũ khí (Nhật Ngân). Ảnh: VietStamp.net

mot-mai-gia-tu-vu-khi--trinh-lam-ngan--1--dongnhacxua.com mot-mai-gia-tu-vu-khi--trinh-lam-ngan--2--dongnhacxua.com

[footer]