Ngậm ngùi (Huy Cận – Phạm Duy)

Chúng tôi rất lấy làm vinh dự khi vừa nhận được một bài viết rất có giá trị của một thân hữu yêu thơ nhạc có tên là Nguyễn Hữu Nghĩa viết về bản ‘Ngậm ngùi’ mà Phạm Duy đã phổ nhạc một cách rất tài tình từ bài thơ cùng tên của thi sỹ Huy Cận. Dòng Nhạc Xưa xin chân thành cảm ơn và giới thiệu bài viết đến những người yêu mến dòng thơ nhạc của một thời tiền chiến.

Tản mạn về ‘Ngậm ngùi’

(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi riêng cho DongNhacXua.com ngày 2019-09-16)

Những câu thơ buồn bã dường như không phân định được đâu là cõi mộng và đâu là thực đã thâm nhập vào văn học nước nhà từ thập niên thứ tư của thế kỷ trước, nhiều thế hệ đã thưởng thức và đến nay lời thơ đẹp như ca dao ấy vẫn mê hoặc lòng người.

Thơ hay, được nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc. Sự phối hợp đã chắp cánh cho thơ vượt qua những sàng lọc nghiệt ngã của thời gian và ý thức hệ. Ý thơ và giai điệu quấn quýt nhau để tạo thành cuộc hôn nhân đẹp đẽ.

Giòng văn học đang trên đà phát triển nhưng cuộc đời cũng bắt đầu thấp thoáng những gập ghềnh. ‘Ngậm ngùi’ cũng không thoát khỏi, tựa đề bài thơ phải chăng cũng là sự tiên liệu cho số phận của chính nó bởi nó đã bị ai đó nhân danh một hệ văn hóa nào đó tước đoạt quyền rong chơi trên một phần đất nước trong những giai đoạn biến động đã qua.

Ngày còn nhỏ, đã bao lần tôi nghe ‘Ngậm ngùi’. Thuở ấy, nhạc phẩm này từng ngày vang vang trên đài phát thanh, nơi quán cà phê, phòng trà, tư gia… Các chương trình phát thanh tiếng Việt ở nước ngoài cũng nhiều lần trang trọng đưa ‘Ngậm ngùi’ lên làn sóng. Thanh niên các thế hệ đã hòa tiếng hát với tiếng guitare dìu dặt để thổn thức với ‘Ngậm ngùi’. Tôi cũng thế và làm lây lan ‘Ngậm ngùi’ đến bạn bè và đến cả người trong mộng. Nay nghĩ lại mà thấy lạ, ngày ấy tuổi còn vị thành niên mà sao cứ thích đóng vai một kẻ đã từng nếm trải đắng cay!

Nhưng nội dung bài thơ lại không thể hiểu cặn kẽ. Ngay câu đầu tiên “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…” đã là cái gì đó rất đỗi mơ hồ. Tôi thầm mong có ai đó giải thích nhưng chưa biết hỏi ai, đến lúc vừa lớn thì đất nước lại sôi sục biến động, thế là đành xếp lại mộng mơ để chuẩn bị cho một thực tế đầy khác lạ. Kể từ đấy ‘Ngậm ngùi’ bị buộc phải rời khỏi đời sống công khai, nó chỉ còn sống lặng lẽ, lây lất trong tâm hồn những ai từng biết và yêu mến nó.

Ngày tháng trôi đi, do công việc nên tôi thường xuyên qua lại trên con đường xuyên Việt vào nhiều thời khắc khác nhau. Trên đường cái quan, tôi mê mải ngắm những di tích bị bỏ mặc cho hoang tàn, xót xa trước những phế tích tan tác đang oằn oại gánh nặng nỗi buồn đau quá khứ. Nhưng núi non trùng điệp, nương đồi chập chùng, biển xanh mênh mông và những cánh đồng tuy nhỏ hẹp nhưng xanh tươi dọc duyên hải miền Trung lại gây hưng phấn, thích thú cho kẻ có tâm hồn thích ngao du. Không quá lời khi nói rằng những ai có dịp đi đó đây là những người may mắn, vì chỉ có  thực tế theo cách này mới cảm nhận được cái đẹp nhiều khi đến sững sờ do thiên nhiên ban tặng. Riêng miền Trung, ngoài sự hùng vĩ của thiên nhiên thì quanh đó vẫn còn những cảnh sắc, những phận người buồn đến nghẹn ngào.

Một lần trên đường từ Bắc về Nam, khi ngang qua vùng Hà Tĩnh vào buổi chiều, một hình ảnh không lẫn vào đâu được chợt chói lòa trong tâm thức. Theo cách diễn tả của thi nhân thì khi “Nắng đã xế về bên xứ bạn” chính là lúc mặt trời đã ngả về Tây, tức là đã vượt chếch qua bên kia dẫy Trường sơn. Lúc này phía Trường sơn Tây đang còn nắng thì mé Trường sơn Đông, tùy từng chỗ, nắng chỉ còn thoi thóp hoặc nắng đã không còn. Hoa lá sau những nỗ lực khoe sắc cuối cùng đã ảm đạm dần đi, mầu hoàng hôn đang bảng lảng.

Chiều xuống rất nhanh, hơi lạnh từ rừng sâu, từ vách đá bắt đầu lan tỏa rồi vươn mình che mờ thôn xóm, nương đồi. Nhưng điều muốn nói là trên đường cái quan và những cánh đồng ven biển; thì ơ hay, nắng chiều còn vương vấn! Thế đấy, chiều đã chia đôi không gian, nửa còn nắng và nửa đã chiều rồi. Câu lục đầu tiên thoát khỏi sự bí ẩn đã giúp những câu sau dễ hiểu hơn.

Nhà thơ quê ở Hà Tĩnh, hẳn là đã chứng kiến không biết bao lần cảnh chiều quê trong không gian đôi ngả này, thi nhân bồi hồi trước cảnh vẻ buồn bã của mầu thời gian đang dần phai, ông đã nhuốm lạnh trong không gian se sắt buổi chiều tà thưa thớt người qua lại, thi thoảng có ai thấp thoáng trên nương đồi thì bóng cũng nhòa đi trong sương nhẹ; tiếng tù và mộc mạc vang vọng không gian băng qua lũng đồi nhắc đàn bò đến giờ rồi, về thôi! Chim chóc từng bầy xôn xao quay về nơi ẩn trú. Hoa lá cũng cuộn mình vào cõi miên man.

Trinh nữ – loài hoa dân dã, cũng là một vị thuốc dân gian mọc bạt ngàn dọc đôi bờ quốc lộ, chúng đã đến giờ khép lá nghỉ ngơi để chuyển tiếp một giai đoạn của chu kỳ sinh học. Đó đây trên cành Trinh nữ; lác đác vài con nhện bắt đầu giăng tơ, rồi từng con nhện xuất hiện trong nỗi cô đơn như định mệnh của loài nhện mượn cành Trinh nữ để cộng sinh theo cách đơn giản nhất. Từng đường tơ trải ra, chúng mong manh rung ring trong gió, từng nút thắt hình thành khởi đầu cho một cuộc sinh tồn. Cuộc mưu sinh nhẫn nại đến lạ lùng diễn ra trong thinh lặng khi trần gian đã vắng bóng mặt trời, chỉ có những vệt đêm lấp lánh ánh sao trong gió rừng vi vu, trong động đậy hỗn mang của núi rừng nguyên sơ và đôi khi dưới ánh trăng sơn cước tròn đầy theo chu kỳ từ thuở hồng hoang. 

Chiều đã qua, đêm mênh mông đang xuống. Em dịu dàng xếp lá, gió nhẹ nhàng như vuốt ve, dỗ dành. Em khép mắt nhưng mở lòng đón nhận những ẩn dấu thiên nhiên, những ẩn dấu vốn chỉ mở riêng ra cho những tâm hồn biết thao thức đang từ từ hé lộ. Em biết từng đàn chim đã quay về yên lành trong tổ ấm, không gian đã tắt rồi tiếng ríu rít gọi đàn. Em mỉm cười nhủ lòng ghi nhớ những âm thanh ấy như những lời thủ thỉ bè bạn hẹn gặp nhau khi ngày mai tươi sáng, sự quyến luyến lúc chia tay đã nâng tâm hồn em lên một cung bậc mới. Em biết nơi thôn xóm xa mờ kia, những đụn khói la đà trong sương nặng phủ che đàn bò nằm lặng yên nhơi cỏ. Em biết em có bạn bè và được họ yêu thương.

Em nhìn lại và hài lòng với công việc đã làm trong một ngày vừa qua, một công việc được thiên nhiên giao phó, dù vô cùng nhỏ bé nhưng nhằm đến mục đích chung là hoàn thành những mắt xích cần thiết cho sự tồn vong của muôn loài trên trái đất này. Không ai chấm công, nhưng em vẫn làm tốt công việc mình. Em sống và hồn nhiên đón nhận nguồn sống từ đất mẹ bao dung và em trao lại cho đời thành quả đạt được cũng hồn nhiên như lúc nhận. Xa hơn nữa phía ngoài kia văng vẳng tiếng gió hòa theo sóng rì rào từ bờ đại dương băng qua đường cái quan vang lên như tiếng ru dào dạt, nâng niu. Em thiếp dần, thiếp dần vào giấc ngủ hồn nhiên bình thường, không mộng mị xa xôi.

Trước đó một thời khắc; ven sườn đồi, khói lam chiều nhè nhẹ vấn vương trên mái tranh từng nhà sàn cô quạnh, đây đó vang tiếng giục giã nhau chiều rồi như tiếng lòng hướng về nơi ấm cúng.

***

Chiều rồi! Tiếng kêu thảng thốt thổi bùng nỗi nhớ nhà thoáng đến, nó lay động da diết tâm hồn, khuấy động nỗi bùi ngùi trong tâm cảnh kẻ phiêu du. Nhà thơ hẳn phải buồn hơn, buồn đến mức đã ngậm cả nỗi bùi ngùi trong tâm tưởng để tế cáo với Trời đất nỗi buồn muôn thuở “Chiều rồi” trên quê hương bộn bề sỏi đá. Nỗi buồn ấy không dừng lại mà mỗi ngày mỗi cao, cao dần cho đến khi nỗi buồn vượt qua mọi đỉnh điểm để tan chẩy rồi kết tụ thành trái sầu như một di sản gây vấn vương tâm hồn. Khi sầu đã chín, sầu không còn cưu mang nổi chính mình thì lúc đó “ Ngậm ngùi ” cũng đến kỳ khai hoa nở nhụy!

Tiếng chuông từ ngôi chùa trơ vơ trên nền phiến đá lớn đang vang trong không gian quạnh quẽ như lời nhắc nhở “ về thôi ” bởi ngày đã sắp qua, bởi đêm đang dần đến.

Về thôi! về với gia đình để được cùng quây quần bên bữa cơm chiều ấm áp tình thân.

Về thôi! để đêm đêm, dưới mái nhà sàn, tình yêu âm thầm triển nở dẫu ai đó vẫn cứ thẹn thùng.

***

Nhà thơ không kiếm đề tài nơi xa xôi, chỉ quan sát và nhạy cảm với những thay đổi vốn có nơi thiên nhiên cạnh kề, ông đã tắm gội trong nguồn cảm hứng vô tận ấy. Một tâm hồn biết lắng nghe sẽ đón nhận nỗi xúc cảm đang dâng tràn để dệt cho đời những tác phẩm có giá trị bền lâu…

Nhìn nắng sớm ngắm sương chiều, nhà thơ đọc được những chuyển dịch của thiên nhiên, người hòa nhập tâm hồn vào đấy rồi mặc cho thiên nhiên tâm trạng con người, nhân cách hóa hoa lá cỏ cây để chúng cùng đồng hành với chúng ta trên con đường đi tìm hạnh phúc dù không là vĩnh cửu. ‘Ngậm ngùi’ không chỉ là nỗi lòng của tâm hồn trước thiên nhiên hoang sơ vào những thời khắc nhất định mà còn là tâm trạng của chúng ta khi đối diện với thiên nhiên tuyệt đẹp đang bị đe dọa bởi sự hủy diệt môi trường đang diễn ra hàng loạt.

Rồi đây các đô thị càng lúc càng phát triển, các khu công nghiệp rồi cũng thế và tất cả sẽ tập trung dọc con đường cái quan. Cuộc sống khá giả lên, lòng người không còn đơn sơ kéo theo những tính toán tất nhiên của đời sống thị dân sẽ làm diện mạo thiên nhiên thay đổi theo hướng thu hẹp lại, xấu dần đi. Đô thị mở rộng đấy, những dẫy nhà bê tông san sát nhau, vui vẻ sầm uất đấy nhưng chẳng còn mối liên hệ nào với thiên nhiên, mà nếu còn thì xin đừng là những liên hệ thảm thiết – như Formosa chẳng hạn.

Còn có thể sống hòa hợp với thiên nhiên để được giấc ngủ hồn nhiên như em với chim mộng đầu giường không? Câu trả lời tùy thuộc vào loài người có còn biết ơn Đấng Tạo Hóa đã ban cho mình một trái đất đẹp đẽ, đa dạng, phì nhiêu; có còn nhớ rằng mình có bổn phận quản lý nó như một người quản lý trung tín không ? Và kế tiếp đâu là chân dung của văn hóa, cách sống, thái độ của xã hội và của từng cá nhân trước thảm trạng sinh thái đang diễn ra hằng ngày.

Sẽ buồn lắm nếu một mai ‘Ngậm ngùi’ được thế hệ tiếp nối hát lên như oán trách mà kể lại, rằng thời cha ông chúng ta đã xảy ra một loại tội ác!

Nguyễn Hữu Nghĩa – 09/2019

Lệ Đá (Trần Trịnh – Hà Huyền Chi)

Nhạc sỹ Trần Trịnh (1937 – 2012) sáng tác không nhiều nhưng chỉ cần một bản ‘Lệ đá’, tên tuổi ông đã lưu danh vào dòng nhạc Việt. Với giai điệu mượt mà và lời ca trau chuốt nhưng lại gần gũi, bản này xứng đáng được coi là một tác phẩm bất hủ. Dòng Nhạc Xưa xin mời người yêu nhạc tìm hiểu đôi nét ca khúc này qua một bài viết của tác giả Trần Chí Phúc mà chúng tôi xin mạn phép đăng lại từ trang sbtn.tv.

Ca khúc Lệ Đá – giao duyên đẹp giữa nhạc Trần Trịnh và lời Hà Huyền Chi

(Nguồn: bài viết của tác giả Trần Chí Phúc đăng trên sbtn.tv ngày 2015-10-28)

Kiếp nào có yêu nhau (Minh Đức Hoài Trinh – Phạm Duy)

Tiếp nối bài viết về sự ra đi của nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh, Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng giới thiệu một bài viết của tác giả Hiếu Dũng – Ngân Vi đăng trên ThanhNien.vn đầu năm 2013.

 

Kiếp nào có yêu nhau (Minh Đức Hoài Trinh – Phạm Duy). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Kỳ 6: Yêu nhau kiếp nào

(Nguồn: bài viết của tác giả Hiếu Dũng – Ngân Vi trên thanhnien.vn ngày 2013-01-01)

Mối duyên với nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh trải dài gần hết một kiếp người của nhạc sĩ Phạm Duy. Từ những chuyến rong ruổi thời trai trẻ, từ trong kháng chiến, đến mùa đông lạnh lẽo trên đất người… Giai đoạn nào cũng phảng phất bóng hình giai nhân.

​Đi tìm đôi mắt người Sơn Tây

Dòng Nhạc Xưa đã có một bài viết về bản “Đôi mắt người Sơn Tây” của nhạc sỹ Phạm Đình Chương lấy ý thơ từ hai bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” và “Đôi bờ” của thi sỹ Quang Dũng. Thế nhưng chúng tôi vẫn cứ tự hỏi cơ duyên nào mà Quang Dũng trong thời kháng chiến có thể cho ra những áng thơ trác tuyệt như vậy. Nhân đọc được một bài viết có giá trị của tác giả Quốc Việt đăng trên Tuổi Trẻ Xuân 2017, Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng giới thiệu cho người yêu thơ nhạc xa gần.

 

Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương – Quang Dũng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương – Quang Dũng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

​Đi tìm đôi mắt người Sơn Tây

(Nguồn: bài viết của tác giả  Quốc Việt đăng trên tuoitre.vn ngày 2017-01-30)

Dương Thiệu Tước: cây đại thụ của tân nhạc Việt Nam

Dòng Nhạc Xưa trước đây đã có hai bài về nhạc sỹ Dương Thiệu Tước khi chúng tôi giới thiệu bản “Bến xuân xanh” và “Ơn nghĩa sinh thành“. Hôm nay chúng ta lại có dịp tìm hiểu đôi nét về một trong những “cây đa cây đề” của tân nhạc Việt Nam qua một bài viết của Cung Mi.

 

Chiều (Dương Thiệu Tước – Hồ Dzếnh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước: xuất sắc trong cả nhạc Tây lẫn nhạc Ta

(Nguồn: bài viết của tác giả Cung Mi đăng trên sbtn.tv ngày 2016-08-01)

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước – Nguồn: Đàn Chim Việt

Sinh năm 1915, bắt đầu sáng tác từ thập niên 40 trước cả nhạc sĩ Phạm Duy, ông được xem là một trong những con chim đầu đàn của nền tân nhạc Việt Nam. Ông bắt đầu học chơi đàn nguyệt từ năm 7 tuổi, và chơi được cả đàn tranh. Ông chơi đàn tây ban cầm rất giỏi, sau nầy là giáo sư dạy tây ban cầm tại Viện Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn.

Anh Cho Em Mùa Xuân (Kim Tuấn – Nguyễn Hiền)

Trước đây Dòng Nhạc Xưa đã có bài giới thiệu bản “Anh cho em mùa xuân” của nhạc sỹ Nguyễn Hiền lấy ý thơ từ bài “Nụ hoa vàng ngày xuân” của thi sỹ Kim Tuấn. Hôm nay, nhân dịp mùa Xuân Đinh Dậu 2017 đang gần kề, xin mời quý vị yêu nhạc xưa nghe lại bản nhạc bất hủ này.

Anh cho em mùa xuân (Nguyễn Hiền – Kim Tuấn). Ảnh: huyvespa.multiply.com

Anh Cho Em Mùa Xuân – Nhớ thi sĩ Kim Tuấn & nhạc sĩ Nguyễn Hiền

(Nguồn: bài viết của tác giả Trần Chí Phúc đăng trên sbtn.tv ngày 2015-02-05)

Động Hoa Vàng (3): “Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư

Dòng Nhạc Xưa mời quý vị yêu nhạc tìm hiểu thêm về không gian và thời gian mà thi sỹ Phạm Thiên Thư đã cho ra đời thi phẩm bất hủ “Động hoa vàng”.

‘ĐỘNG HOA VÀNG’ CỦA PHẠM THIÊN THƯ

(Nguồn: bài viết của tác giả Yến Trinh – Tiến Long đăng trên Tuổi Trẻ ngày 2016-12-05)

Những ai say đắm bài thơ Động hoa vàng của nhà thơ Phạm Thiên Thư chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều ý tứ về “động hoa vàng” được ông lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long.

Một người hàng xóm của nhà thơ Phạm Thiên Thư kể về khu xóm ngày xưa và “động hoa vàng” nay biến thành căn nhà ba tầng – Ảnh: TỰ TRUNG

Động Hoa Vàng (2) : Nguyên tác bài thơ và bản nhạc

Sau bài viết về mối lương duyên giữa thi sỹ Phạm Thiên Thư và nhạc sỹ Phạm Duy qua “Đưa em tìm động hoa vàng”, Dòng Nhạc Xưa nhận được nhiều câu hỏi về nguyên tác của bài thơ và bản nhạc. Để các thế hệ sau có thêm tư liệu, chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ thi phẩm và nhạc phẩm nổi tiếng này.

NHẠC PHẨM “ĐƯA EM TÌM ĐỘNG HOA VÀNG”

(Nguồn: amnhacmiennam.blogspot.com)

Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

Động Hoa Vàng (1) : Suối nguồn thi cảm Phạm Thiên Thư (Tâm Nhiên)

Mối lương duyên giữa thi sỹ Phạm Thiên Thư và nhạc sỹ Phạm Duy đã để lại cho hậu thế nhiều bản nhạc bất hủ. Một trong số đó là “Ngày xưa Hoàng Thị” mà Dòng Nhạc Xưa đã có dịp giới thiệu. Hôm nay chúng tôi xin mạn phép tiếp tục dòng thơ Phạm Thiên Thư qua thi phẩm “Động hoa vàng” mà Phạm Duy đã phổ thành tuyệt phẩm “Đưa em tìm động hoa vàng”.

Hoàng Thị: Ngày xưa, ngày nay (Phanxipăng)

[dongnhacxua.com] đã có một bài viết về nhạc phẩm “Ngày xưa Hoàng Thị” của nhạc sỹ Phạm Duy phổ theo thơ Phạm Thiên Thư. Hôm nay chúng tôi xin góp thêm chút ít thông tin bên lề qua bài viết của nhà báo Phanxipăng đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 790 ngày 2012-07-20

Ngày Xưa Hoàng Thị (Thơ: Phạm Thiên Thư. Nhạc: Phạm Duy). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Ngày Xưa Hoàng Thị (Thơ: Phạm Thiên Thư. Nhạc: Phạm Duy. Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

ngay-xua-hoang-thi--1--pham-duy--pham-thien-thu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

HOÀNG THỊ: NGÀY XƯA, NGÀY NAY
(Nguồn: bài viết của nhà báo Phanxipăng đăng trên tạp chí Thế Giới Ngày Nay số 790 ra ngày 2012-07-20)

 Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971, được nhiều ca sĩ lần lượt thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng. Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã xảy ra khá nực cười.