Tháng Sáu Mùa Thi (Nguyễn Văn Hiên)

Sáng nay trời Sài Gòn chợt đổ mưa. Ngồi nhâm nhi ly cafe sáng trong góc một sân trường, nhìn những cánh phượng rơi lả tả, Dòng Nhạc Xưa biết rằng mùa hè đã về. Đây đó, trong các dãy lớp, các cô cậu học trò những lớp cuối cấp, lớp 9 hay lớp 12 (tức đệ tứ và đệ nhất ngày xưa) vẫn còn đang tất bật chuẩn bị cho một kỳ thi đang đến rất gần.

Xin cảm ơn cơn mưa hạ. Cơn mưa đã đưa chúng tôi về với những tháng ngày đã qua với nhiều cảm xúc buồn vui lẫn lộn của hơn 20 năm về trước: chia tay tuổi học trò và chuẩn bị cho một kỳ thi cam go để làm hành trang vào đời. Khi những cuốn lưu bút đã viết xong, chín tháng của một niên học cuối đã khép lại, chúng tôi bỗng chợt nhận ra mình không còn trẻ nữa, đứa nào cũng trở nên chín chắn hơn với bao ước mơ, hoài bão cho một chặng đường dài phía trước.

Trong  niềm cảm xúc ấy, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu bản “Tháng Sáu Mùa Thi” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Hiên qua tiếng hát của nam ca sỹ Khắc Dũng. Xin chúc tất cả các bạn trẻ có một kỳ thi tốt đẹp và tiếp nối thế hệ chúng tôi và bao thế hệ tiền bối khác để dấn bước vào đời và xây dựng quê hương Việt Nam mình tươi sáng hơn!

Nhạc sỹ Đỗ Kim Bảng

Khi nói về những bản nhạc lấy cảm hứng từ mưa, chúng ta không thể không nhắc đến “Mưa đêm ngoại ô” của nhạc sỹ Đỗ Kim Bảng. Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu đôi nét về người nhạc sỹ dễ tính này, qua một bài viết của cố ký giả – nhạc sỹ Trường Kỳ trong chuyên mục “Nghệ sỹ & đời sống”.

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Đỗ Kim Bảng và những sự tình cờ

(Nguồn: bài viết của tác giả Trường Kỳ đăng trên giadinhhoangtrong.wordpress.com ngày 2014-09-01)

Bây giờ thì những buổi chiều Chủ Nhật cũng như Thứ Bảy hoặc bất cứ buổi chiều nào khác trong tuần đối với nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng, tác giả của nhạc phẩm nổi tiếng “Bước Chân Chiều Chủ Nhật”, cũng chẳng khác gì nhau.

Đặng Thế Phong (1918 – 1942): Tài Hoa Bạc Mệnh

Xin giã biệt những ngày hè với chút buồn man mác của tuổi học trò, [dongnhacxua.com] xin mời quý vị yêu nhạc xưa bước vào dòng nhạc về mùa thu.
Có thể nói không ngoa rằng chính nhạc sỹ tài hoa bạc mệnh Đặng Thế Phong (1918 – 1942) là người đã khai sinh mở lối cho những sáng tác về mùa thu của tân nhạc Việt Nam.

Giọt mưa thu (Đặng Thế Phong). Ành: VietStamp.net
Giọt mưa thu (Đặng Thế Phong). Ành: VietStamp.net

giot-mua-thu--2--dang-the-phong--bui-cong-ky--vietstamp.net--dongnhacxua.com giot-mua-thu--3--dang-the-phong--bui-cong-ky--vietstamp.net--dongnhacxua.com

ĐẶNG THẾ PHONG – TÀI HOA BẠC MỆNH (1918-1942)
(Nguồn: trích bài viết của nhạc sỹ Lê Hoàng Long đăng trên Vietnet)

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)

Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.

Nhạc sỹ Đặng Thế Phong (1918-1942). Ảnh: wikipedia.com
Nhạc sỹ Đặng Thế Phong (1918-1942). Ảnh: wikipedia.com

Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!

Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.

Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!

Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).

Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà, chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40 năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.

Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp:

Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có đuyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!

Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:

– Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !

Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.

Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:

Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…

Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!”
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.

Chính vì thế mà có một ngườl ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong :

– Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !

Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !

Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.

Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!

Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!

Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.

Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.

Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.

Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.

Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:

– Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !

Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :

– Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.

Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !

Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

Lê Hoàng Long

[footer]

Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương – Anh Việt Thanh)

Tiếp nối dòng nhạc Hà Phương, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Mưa đêm tỉnh nhỏ’ mà nhạc sỹ cùng sáng tác chung với nhạc sỹ Anh Việt Thanh. Bản này, cùng với ‘Mùa mưa đi qua’ đã gắn liền tên tuổi của Hà Phương (tức Du Uyên) với những cơn mưa buồn, như chính tâm sự của ông: “Tình yêu đầu đời là những kỷ niệm sâu sắc. Đó là những đêm trên sân khấu tôi đệm đàn cho nàng hát tình khúc do tôi sáng tác. Sau đó, hai đứa dìu nhau dưới những đêm mưa buồn nơi tỉnh lẻ, ánh đèn mờ ảo, phố vắng thưa người… Ôi nhớ sao là nhớ!”.

Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương - Anh Việt Thanh). Ảnh: QuanNhacVang.com
Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương – Anh Việt Thanh). Ảnh: QuanNhacVang.com

mua-dem-tinh-nho--1--ha-phuong--anh-viet-thanh--quannhacvang.com--dongnhacxua.com  mua-dem-tinh-nho--2--ha-phuong--anh-viet-thanh--quannhacvang.com--dongnhacxua.com

Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương - Anh Việt Thanh). Ảnh: QuanNhacVang.com

HÀ PHƯƠNG: NHẠC SỸ CỦA MIỆT VƯỜN NAM BỘ
(Nguồn: tác giả Trương Trọng Nghĩa đăng trên TienGiang.gov.vn)

Nhạc sỹ Hà Phương. Ảnh: TienGiang.gov.vn
Nhạc sỹ Hà Phương. Ảnh: TienGiang.gov.vn

Con hẻm ngoằn nghèo dưới chân Cầu Đỏ nằm trên Quốc lộ 60 (phường 6, thành phố Mỹ Tho) dẫn tôi vào một khu vườn nhỏ yên tĩnh, mát mẻ và trong lành. Ở đó, có một nhạc sĩ nhiều năm qua vẫn âm thầm sáng tác những ca khúc viết về quê hương, đất nước mang đậm âm hưởng dân ca Nam bộ. Đó chính là nhạc sĩ Hà Phương – tác giả của ca khúc “Bông điên điển” từng làm rung động biết bao trái tim, đặc biệt là với những người con xa xứ.

Nhạc sĩ Hà Phương tên thật là Dương Văn Lắm. Ông sinh năm 1938 tại xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang. Sinh ra trong một gia đình không có truyền thống hoạt động văn học nghệ thuật nhưng chính niềm đam mê là động lực mạnh mẽ giúp ông tìm đến với âm nhạc. Ca khúc đầu tay mang tên “Đường khuya” được nhạc sĩ Hà Phương viết năm ông 19 tuổi, bằng điệu tango nhẹ nhàng, chất chứa một nỗi buồn man mác: Đường về đêm nay buồn vắng, lạnh lùng cô đơn một bóng, nghe mưa buốt trong tâm hồn. Đường về không quen một bóng, tìm về trong hơi lửa ấm, thương ai nhớ ai vẫn còn… Chẳng rõ chàng thanh niên trẻ Dương Văn Lắm khi đó, vốn đã mang trong mình một trái tim đa sầu đa cảm hay sớm vận vào mình cái buồn của người nghệ sĩ mà đã viết lên những dòng nhạc đầy tâm trạng đến thế. Đường mưa rơi lạnh buốt, ngại ngùng chân ai nhịp bước mưa ơi thấu chăng nỗi buồn. Đường về khuya thêm lạnh giá, chuyện tình xưa chưa mờ xóa. Tâm tư gởi trao một người ấm lòng nhau tiếng cười.

Ngay từ sáng tác đầu tay, ông đã chọn cho mình bút danh Hà Phương. Cái tên ấy không gắn liền với những kỷ niệm nào đó mà là ước mơ được tung hoành rài đây mai đó, hà phương hà xứ cho thỏa chí tang bồng. Mà xem ra cuộc đời của ông cũng lắm phen sóng gió, nhiều lần phiêu bạt thật. Năm 07 tuổi, từ vùng quê nghèo khó, ông đã phải theo gia đình đến Mỹ Tho sinh sống. Và rồi ông đã trải qua thời thanh niên nơi Sài Gòn hoa lệ. Có lúc ông dạy nhạc ở Long An, đôi khi lại về Bến Tre – quê hương người bạn đời của ông, hay lang thang khắp nơi chỗ vài tháng, chỗ đôi năm để rồi hiện nay ông đã về xây nhà sống hẳn tại Mỹ Tho. Có lẽ nhờ đi nhiều nơi, gặp nhiều người nên ca khúc của ông hết sức sinh động, giàu hình ảnh và luôn phập phồng hơi thở cuộc sống.

Ông viết không nhiều nhưng khá chắc tay. Hơn 30 năm sáng tác nhạc, ông chỉ trình làng khoảng trên dưới 80 ca khúc. Phần lớn ca khúc của ông viết về đề tài tình yêu, số còn lại viết về vẻ đẹp con người và vùng đất Nam bộ.

Nhiều ca khúc trữ tình mang đậm âm hưởng dân ca của ông đã được các thế hệ thanh niên đón nhận và yêu thích như: Bông điên điển, Em về miệt thứ, Hương rừng Cà Mau… Ông tâm sự: “Từ những cánh đồng lúa mênh mông, từ dòng sông, bến nước – tôi bước chân vào đời với hành trang là tiếng ru ca dao ngọt ngào, sáu câu vọng cổ, nói thơ Bạc Liêu, điệu lý, câu hò thấm đẫm lòng tôi. Đó là những gì làm cho ca khúc quê hương trữ tình mang đậm sắc thái, âm hưởng dân ca của người đất phương Nam…” Trong ca khúc của mình, ông khéo léo đưa vào nhiều câu ca dao, nhiều câu thành ngữ khiến nó trở nên gần gũi, dễ nhớ và giàu tính biểu cảm. Cho đến nay, ông vẫn là một trong số ít những nhạc sĩ gặt hái được nhiều thành công khi khai thác mảng này.

Tình yêu trong nhạc của Hà Phương thường được ông diễn tả ở những cung bậc trong sáng, mộc mạc, đôi lúc trĩu nặng nỗi buồn nhưng không sa vào bế tắc, bi lụy. Trong bài “Con sông tình yêu” ông viết: Anh ở bên này sông nhà em bên bờ đó, hai đứa ngó mặt nhau. Bờ dừa nhớ hàng cau, lao xao chiều qua ngõ, cùng chung những chuyến đò. Ngày ngày qua sông tóc bềnh bồng theo gió, em có biết có hay anh ngất ngây say áo màu bà ba trắng rung rinh vờn hoa nắng nhẹ hôn gót chân son”. Hay như: Anh dìu em về, đường về nhà em qua phiến lá xanh xao. Con đường buồn heo hút mắt em sâu. Mưa nhạt mưa nhòa, mưa đổ mưa ngâu. (bài “Mùa mưa đi qua”).

Điều đặc biệt là có rất nhiều cơn mưa và nhiều loài hoa dân dã đã đi vào nhạc của ông, chẳng hạn như: Mùa mưa đi qua, Mưa qua phố vắng, Tình trong mưa, Mưa trên cuộc tình, Chiều mưa qua sông… và rồi: Bông lục bình, Bông điên điển, Dưới giàn hoa giấy, Hai sắc hoa tigôn, Bông mua tím,… Chính vì thế mà có người đã gọi ông là Nhạc sĩ của mưa và hoa. Rất nhiều tác phẩm đã viết về những cơn mưa nhưng đã có ai nỗi cô đơn trống vắng trong một đêm mưa gió nơi tỉnh nhỏ: Trời đổ mưa cho phố vắng mênh mông, khơi lòng cao nỗi nhớ. Trời làm mưa cho ướt áo em thơ, mưa rơi từ bao giờ .Và nơi đó những đêm trời mưa gió, thấu chăng người tỉnh nhỏ nuôi nấng trong đời mối tình thời xa ấy giờ đây đường hai lối mưa gió về buồn nào nguôi. (Mưa đêm tỉnh nhỏ). Có lần ông đã tâm sự: “Ấn tượng về tình yêu dang dở dưới cơn mưa cứ tái hiện trong tiềm thức mỗi khi tôi cầm bút và ông đàn sáng tác”. Chính những cảm xúc chân thành ấy đã mang đến cho người yêu nhạc niềm đồng cảm sâu sắc. Trong khi đó, những ca khúc viết về hoa của Hà Phương lại thường được gắn với hình ảnh những người con gái mang nhiều gian truân trắc trở trong cuộc sống. Ca khúc của ông luôn thấp thoáng bóng hình của những người phụ nữ Nam bộ dịu dàng, đằm thắm chịu thương chịu khó. Đó có thể là nỗi lòng của một cô gái Tiền Giang phải theo chồng xa xứ: Từ ngày xa đất Tiền Giang, em theo anh về xứ Cạnh Đền, muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh. Em yêu anh nên đành xa xứ, xuôi ghe chèo về miệt thứ Cà Mau… (Em về miệt thứ). Đó cũng có thể là một cô gái chèo đò mà tác giả đã gặp đâu đó trên bước đường phiêu bạt: Chiều năm xưa qua đò sang sông vắng. Nghiêng bóng dừa bờ trắng cỏ lau thưa. Áo bà ba em khua chèo vượt sóng. Má em hồng soi bóng nước Cửu Long (Chiều mưa qua sông). Đó còn là hình ảnh của bà mẹ quê tần tảo, cả một đời hy sinh cho chồng con: Tháng năm dài tóc mẹ hơi sương. Mái nhà tranh ấm lạnh tình trường. Sớm hôm đời tất tả ngược xuôi. Đổi buồn gian khổ thành vui, khi thấy con nên người. (Một thời của mẹ)

Nhạc sĩ Hà Phương được nhiều người nhớ đến với ca khúc “Bông điên điển”. Bài này được ông viết vào năm 1998 và ngay sau đó đã trở thành một bài hát được nhiều người yêu thích lúc bấy giờ. Với những ca từ gần gũi, dễ hiểu và đầy cảm xúc: Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa. Giờ đây nhớ mẹ thương cha, còn đâu mà thong thả để về nhà thăm. Xa xăm nơi chốn bưng biền, ăn bông mà điên điển nghiêng mình nhớ đất quê, chồng xa em khó mà về, ca khúc này đã đánh động vào ký ức quê hương của mọi người và để lại những ấn tượng sâu sắc.

Ông thường phổ thơ vì thế mà hầu hết ca khúc của ông đều giàu chất thơ. Ông đã phổ thơ của rất nhiều tác giả như: Cao Vũ Huy Miên, Lê Ái Siêm, Võ Tấn Cường, Nguyễn Kim, Kim Quyên… Tôi rất thích những ca từ đầy khí khái trong bài “Hương rừng Cà Mau”được Hà Phương phổ từ thơ Sơn Nam: Từ bên này sông Tiền, qua bên kia sông Hậu. Mang theo chiếc độc huyền, điệu thơ Lục Vân Tiên. Với câu chữ: Kiến nghĩa bất vi vô dỏng giã tới Cà Mau Rạch Giá cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng.

Gần 30 năm gắn bó, nhạc sĩ Hà Phương cũng có nhiều ca khúc hay viết về vùng sông nước Tiền Giang. Ca khúc “Về Tiền Giang quê em” viết chung với Anh Việt Thanh là một trong số đó. Về Tiền Giang quê hương em nghe tiếng hò đêm trăng lộng gió. Về Gò Công thăm biển Đông, con tàu tôm cá đầy. Về Trung Lương khắp nẻo đường, thơm ngát màu xanh lúa đầy bông mùa vui đã đến. Với lưu luyến tình yêu hò lan trong gió chiều.

Năm 1996, Trung tâm Băng nhạc Vafaco đã phát hành ablum riêng của nhạc sĩ Hà Phương với tên gọi Hai sắc hoa tigôn. Album này gồm 10 tình khúc quen thuộc của ông. Như vậy, Hà Phương là một trong số ít nhạc sĩ ở Tiền Giang hiện nay đã phát hành album riêng.

Không thích phô trương, không thích chạy theo những trào lưu âm nhạc thời thượng, không thích tạo áp lực cho mình bằng số lượng tác phẩm, Hà Phương là thế, cứ lặng lẽ sống giữa cuộc đời bề bộn và âm thầm viết nhạc một cách tài tử. Ông giống như một người bộ hành không lấy gì làm vội vã, cứ thong thả dạo bước trên con đường nghệ thuật. Có thể nhạc của ông không chinh phục được số đông những bạn trẻ nghe nhạc hiện nay nhưng lại bắt mạch với những ai biết hướng tâm hồn về với quê hương, nguồn cội.

Bài và ảnh: Trương Trọng Nghĩa

[footer]