Dòng chảy Bolero

Dòng Nhạc Xưa xin mạn phép giới thiệu một bài viết của tác giả Cung Mi để thế hệ trẻ có thêm tư liệu về dòng nhạc bolero vốn rất thịnh hành ở miền Nam trước 1975 và vẫn âm thầm chảy vào lòng nhiều thế hệ người Việt yêu nhạc cho mãi đến bây giờ.

Cô hàng xóm (Lê Minh Bằng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Những tình khúc Bolero để đời

(Nguồn: bài viết của tác giả Cung Mi đăng trên sbtn.tv ngày 2017-03-03)

Quán Nửa Khuya (Tuấn Khanh – Hoài Linh)

Cuộc chia ly nào cũng để lại nhiều nỗi luyến tiếc, nhất là khi kẻ ở người đi không biết khi nào gặp lại. Theo cá nhân [dongnhacxua.com], một trong những nhạc phẩm đặc sắc nhất ghi lại cảm xúc của của người ra đi và kẻ ở lại là bản “Quán nửa khuya”, một sáng tác chung của nhạc sỹ Tuấn Khanh và Hoài Linh.
Chỉ qua vài câu hát, hai nhà nhạc sỹ đã tài tình vẽ nên một khung cảnh buồn nhưng cũng lãng mạn (“đèn mờ theo hơi khói”) mà chỉ sáng mai đây thôi, hai người bạn mỗi người sẽ dấn thân vào một ngã rẻ cuộc đời: “tôi là người tha hương đi bốn phương” và “anh là người quân nhân vui gió sương”. Sau khi đã trút hết bầu tâm sự, chắc trời cũng đã rạng sáng, chúng ta thấy một hình ảnh thật đẹp khi hai người bạn xiết chặt tay nguyện làm tròn bổn phận và sẽ mãi nhớ giậy phút phân kỳ đầy cảm động.
Theo thiển ý của chúng tôi, cả ca từ và giai điệu của bản “Quán nửa khuya” đều xứng đáng để lấy làm khuôn thước cho những sáng tác thuộc dòng nhạc bolero. Ngày ấy, qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy, bối cảnh đặc quánh khói thuốc và quyến luyến của buổi ly biệt như được lột tả rõ nét hơn hết.

Quán nửa khuya (Tuấn Khanh - Hoài Linh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Quán nửa khuya (Tuấn Khanh – Hoài Linh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

Bài bolero đầu tiên trong âm nhạc Việt (Vũ Đức Sao Biển)

Trong một bài viết trước đây, [dongnhacxua.com] đã giới thiệu bản “Nắng chiều” của nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Hôm nay, nhân dịp đầu Xuân Bính Thân 2016, chúng tôi mạn phép nhạc sỹ Vũ Đức Sao Biển để chia sẽ bài viết của anh đăng trên báo Xuân Thanh Niên năm nay về bài hát bất hủ này.

Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

nang-chieu--1--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nang-chieu--2--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

BÀI BOLERO ĐẦU TIÊN TRONG ÂM NHẠC VIỆT NAM
(Nguồn: bài viết của nhạc sỹ Vũ Đức Sao Biển đăng trên tạp chí Thanh Niên Xuân 2016)

Một câu hỏi đặt ra là nhạc sĩ nào đưa dòng âm nhạc ấy vào nền âm nhạc Việt để viết bài bolero đầu tiên.

Bolero phát xuất từ Tây Ban Nha, do nhạc sĩ Sebastiano Carezo sáng tạo năm 1780, vốn là điệu nhạc nhảy. Điệu nhạc du nhập các nước châu Âu, được các nhạc sĩ viết nhạc cổ điển như Chopin (Ba Lan, 1810 – 1849), Bizet (Pháp, 1838 – 1875) và Debussy (Pháp, 1862 – 1918) sử dụng viết các chương trong các hòa tấu khúc và nhạc kịch của mình. Trong nhạc cổ điển, bolero được viết đầy tính quy luật, tính hàn lâm nên không được quan tâm nhiều. Ngược lại, bolero du nhập các quốc gia vùng Caribe và Nam Mỹ được đón nhận nồng nhiệt bởi nó gần gũi với kiểu chơi nhạc lãng mạn, phóng khoáng của người Mỹ Latin. Nó trở thành âm nhạc của quần chúng.

Bolero Mỹ Latin là một thứ giai điệu phóng khoáng và trữ tình. Nhạc sĩ hai nước Cuba và Mexico có công phát triển bolero, biến tấu nó với các điệu thức tương tự viết theo phép ký âm 4/4, tạo ra hẳn một dòng nhạc bolero mới; xôn xao hơn, rực rỡ hơn, lãng mạn hơn và đậm chất Latin. Dòng nhạc bolero này bao gồm các điệu bolero, rumba, rumba bolero, mambo, calypso, baiao; kể cả tango, tango habanera, chachacha. Mẫu số chung là kiểu viết nhạc 4/4 tương tự nhau; chỗ khác nhau là cách chơi, cách xử lý ca khúc.
Bolero du nhập Việt Nam những năm 1950. Nền tân nhạc non trẻ của Việt Nam đã nhanh chóng thẩm thấu điệu thức ấy, biến nó thành hẳn một dòng nhạc tình ca. Một nhạc sĩ tài hoa kiêm nhà nghiên cứu âm nhạc đã viết thành công bài rumba bolero đầu tiên, sau này trở thành bài tình ca nổi tiếng trong thế kỷ 20. Đó là nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn với ca khúc Nắng chiều.

Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn tên thật là Lê Trọng, sinh năm 1926 tại Quảng Nam, hội viên của Hội Tác giả, nhạc tác gia và nhà xuất bản âm nhạc Pháp (Société des Auteurs, Compositeurs et Editeurs de Musique – SACEM). Chữ “Nguyễn” trong bút danh của ông là họ của người mẹ. Nhà ông là Trường tư thục Hoàng Hồ nằm trên đường Nhật Bản (cũ), sau này đổi tên là đường Cường Để và nay là đường Trần Phú trong khu phố cổ Hội An (Quảng Nam).

Lê Trọng Nguyễn viết Nắng chiều năm 1952. Hình tượng gợi cảm xúc trong ca khúc này là một cô gái dịu dàng người gốc Quy Nhơn (Bình Định) đang ở cùng cha mẹ tại Hội An. Ca khúc được thu thanh lần đầu tiên năm 1953 bằng đĩa than 33 tours do Hãng đĩa Việt Nam (Sài Gòn) sản xuất với tiếng hát của danh ca Minh Trang. Chính Lê Trọng Nguyễn soạn hòa âm và phối khí cho dàn nhạc chơi bài này.

Thật không ngờ, bài tình ca viết với điệu thức rumba bolero đầu tiên lại có sức chinh phục và cuốn hút người nghe đến vậy. Nắng chiều được phát liên tục trên Đài phát thanh Sài Gòn, Đài Pháp Á (đường Hàm Nghi, Sài Gòn) và Đài phát thanh Huế. Lúc bấy giờ, người ta chỉ được nghe nhạc qua sóng phát thanh từ radio; nhà nào sang lắm mới có được máy pick up hát đĩa than. Nhiều thế hệ ca sĩ sau bà Minh Trang như Quỳnh Giao, Mai Hương, Kim Tước, Hà Thanh và các ông Anh Ngọc, Ngọc Long cùng hát Nắng chiều và cũng được người yêu nhạc tán thưởng.

Lê Trọng Nguyễn viết Nắng chiều đúng quy chuẩn của một ca khúc, xét về mặt nhạc pháp. Ca khúc được viết với cung sol trưởng; mỗi ô nhịp 4/4 rất ít nốt nên tiết tấu khoan thai, vận dụng nhịp ngoại tài tình, chuyển âm giai rất phong phú. Đặc biệt, đoạn điệp khúc được ông biến tấu qua mi thứ – âm giai tương đương cùng bộ khóa, nên giai điệu ca khúc rất mềm mại và đẹp. Âm hình cấu tạo của ca khúc gồm đoạn A (A1 + A2) + B (B1 + B2) + A’ (giống như A2). Cấu trúc ca khúc cổ điển nhưng nội dung lại hàm chứa nét nhạc hiện đại và lãng mạn như phong cách rumba bolero Mỹ Latin.

Ca từ của Nắng chiều giàu tính văn học, giàu chất thơ, tỏ rõ tác giả là con người từng thẩm thấu một cách sâu đậm văn chương Việt Nam: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều/Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa/Khi đến cuối thôn chân bước không hồn/Nhớ sao là nhớ đến người ngày xưa… Anh nhớ xót xa dưới tre lá ngà/Gợn buồn nhìn anh, em nói mến anh/Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi/Nhớ em dịu dàng nắng chiều ngừng trôi”.

Bạn để ý đấy, một bài tình ca rất lãng mạn nhưng không hề có động từ “yêu” hay danh từ “người yêu” nào trong đó. Ngay cô gái ngày ấy cũng chỉ được mô tả là “Gợn buồn nhìn anh em nói mến anh” chứ không nói “yêu anh”, bởi nói “yêu anh” thì nghe phàm tục quá! Đúng ra, có một chỗ tác giả viết “Hình bóng yêu kiều kề hoa tím, biết đâu mà tìm” nhưng “yêu kiều” ở đây là tính từ mất rồi. Tình ý của ca khúc thật nhẹ nhàng nhưng quá đỗi sâu lắng, say đắm, nhớ nhung.

Bản nhạc được các nhà xuất bản An Phú (Sài Gòn), Tinh Hoa (Sài Gòn) và Tinh Hoa (Huế) in ra nhiều lần thành bài rời; mỗi lần in khoảng 3.000 bản. Năm 1958, nữ ca sĩ Nhật Bản Satsuki Midori gặp Lê Trọng Nguyễn và đã dịch bài hát sang ca từ tiếng Nhật với tựa đề Việt Nam tình ca, thu thanh ở Tokyo. Năm 1960, nữ ca sĩ Đài Loan Kỷ Lộ Hà cũng đã gặp ông, hát và thu thanh với ca từ tiếng Quan thoại do Thận Chi viết; tựa đề ca khúc là Tịch dương. Cả hai nữ danh ca này có vẻ như rất mến mộ Lê Trọng Nguyễn. Sau đó, Nắng chiều còn được dịch qua tiếng Anh, tiếng Thái và tiếng Khmer với nhiều ca sĩ hát, trở thành một bài Á châu tình ca!

Vậy đó, Nắng chiều với phong cách rumba bolero đầu tiên đã trở thành bài tình ca đẹp nửa sau thế kỷ thứ 20 trong âm nhạc Việt Nam. Nó thoát hẳn phong cách xôn xao, rực rỡ và khá nhanh của dòng bolero Mỹ Latin; tạo nên một phong cách bolero Việt Nam chậm và kể lể (lento recitativo), chậm và diễn cảm (lento expressivo). Về sau này, Lê Trọng Nguyễn tiếp tục lối sáng tác ấy để viết hai ca khúc Bến giang đầu (Nắng chiều 2) và Chim chiều không tổ. Hai ca khúc này đều viết với cung re trưởng; chất bolero thật đậm nét. Ông còn là người dung nạp tài hoa các điệu nhạc đặc trưng của Mỹ và đảo Hawaii như jazz, blue, boston rock, slow để viết những bài tình ca khác.

Các nhạc sĩ hòa âm sau này đã hòa âm cho ca sĩ hát Nắng chiều với các điệu khác nhau như rumba, bolero, calypso, baiao hoặc nhanh hơn chút nữa thì chachacha. Từ năm 1955 trở đi, miền Nam phát triển một hệ tình ca mới chủ yếu sử dụng dòng bolero làm chủ đạo. Nhạc sĩ Trúc Phương (Nguyễn Thiện Lộc) đẩy bolero chậm lại hơn nữa, dung hợp với phong cách dân ca Nam bộ sáng tác một loạt bài tình ca bolero cung thứ với ca từ rất lạ, được xem là “vua bolero” Sài Gòn. Nhiều nhạc sĩ khác cũng đồng thời dùng bolero viết tình ca, hình thành hẳn một dòng nhạc bolero trữ tình, đặc sắc, gần gũi với đông đảo người nghe nhạc.

Vũ Đức Sao Biển

[footer]

Nhạc sĩ Vinh Sử: ‘Bao nhiêu bản nhạc, bấy nhiêu nhân tình!’

Trong những ngày cuối năm 2015 và đầu năm 2016, được biết sức khỏe của nhạc sỹ Vinh Sử không tốt, [dongnhacxua.com] xin thay mặt anh chị em nghệ sỹ và người yêu nhạc gởi đến ông lời chúc sức khỏe và mong ông bớt phải gánh chịu đớn đau do căn bệnh ung thư quái ác hành hạ.

nhan-co-cho-em--0--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--1--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--2--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

NHẠC SỸ VINH SỬ: ‘BAO NHIÊU BẢN NHẠC, BẤY NHIÊU NHÂN TÌNH’
(Nguồn: tác giả Thúy An – Dân Việt viết trên MotTheGioi.vn ngày 2016-01-06)

“Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia”.
Có lẽ vì bản tính ông đào hoa, cũng có lẽ vì trái tim nghệ sĩ trong ông dễ rung cảm trước nhiều bóng hồng nên những người phụ nữ đã cùng ông nên duyên cũng lặng lẽ rời xa. Nhạc của ông vì thế buồn càng chất chứa, sầu càng đong đầy.

Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn
Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn

Nhân dịp được vinh danh trong chương trình Sol Vàng vào ngày 9.1 tới trên VTV9, nhạc sĩ Vinh Sử đã phân trần về thói trăng hoa với bốn bà vợ và những câu chuyện về cuộc sống lúc thăng, lúc trầm của mình.

Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn
Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn

Vì mê nhạc nên đời lênh đênh

Với danh xưng “vua nhạc sến”, nhạc sĩ Vinh Sử không chỉ mang nhạc bolero đi sâu vào lòng công chúng mà ông còn là bậc thầy trong việc tạo nên tên tuổi hàng loạt ca sĩ hàng đầu làng nhạc Việt. Bí quyết của ông là gì?

Tôi không có bí quyết gì đặc biệt. Dòng nhạc này vốn đã trữ tình, ngọt ngào nên dễ đi vào lòng người, đặc biệt là giới bình dân. Đỉnh cao của dòng nhạc này tại Việt Nam là vào những năm 1960 – 1970, với rất nhiều ca khúc được thu âm và phổ biến dưới dạng băng cassette cũng như đĩa nhựa như Nhẫn cỏ cho em, Nỗi buồn hoa phượng…
Đầu thế kỉ 21, dòng nhạc này hồi sinh khi hàng loạt các ca sĩ hải ngoại về nước. Bên cạnh đó, các sao trẻ như Đàm Vĩnh Hưng, Lệ Quyên cũng chọn bolero để hát, để ra album. Đây cũng chính là cơ hội khiến bolero phá cách khi có chất của pop, của nhạc sàn, nhạc điện tử… khiến kéo khán giả trẻ lại gần.

Theo ông, lý do gì khiến bolero sau nhiều năm lép vế trước nhạc Âu Mỹ, giờ đã trở lại mạnh mẽ trong đời sống âm nhạc hiện đại như một minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của dòng nhạc bị cho là ủy mị này?

Bolero được yêu thích chủ yếu nhờ ca từ đơn giản và dân dã, giai điệu dễ nhớ, dễ bắt nhịp và dễ hát, và đặc biệt là sự đa dạng trong đề tài, phần lớn là những câu chuyện về tình yêu và cuộc sống, rất ý nghĩa nhưng cũng rất buồn.

Được mệnh danh là “vua nhạc sến”, âm nhạc Vinh Sử gắn bó với dòng nhạc quê hương mang tính đại chúng. Với hơn 60 năm sáng tác, tác phẩm của ông bây giờ là cả một “kho” đồ sộ với cả trăm bài đều là những bản nhạc thất tình. Vì như thế mà người ta càng tò mò về cuộc sống trước đây của ông…

Thời hoàng kim của tôi là những Nhẫn cỏ cho em, Gõ cửa trái tim, Người phu kéo mo cau… Đó là trước năm 1975, với tiền tác quyền từ các ca khúc này đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu.
Thế nhưng, tuổi thơ tôi không trải hoa hồng. Cha mẹ là những người lao động bình dân, làm phu đồn điền cao su cho Pháp, lưu lạc vào miền Đông Nam Bộ trong thập niên 1940. Sau này gia đình tôi về Sài Gòn sống bằng nghề làm bún và tôi được sinh ra trong một xóm lao động nghèo.

Nhưng nghe nói, gia đình ông có thu nhập khá tốt khi chuyển sang làm bún?

Đúng rồi. Khi chuyển sang làm bún, ba tôi vì ham làm mà rất giàu, giàu nhất xóm nhưng ông lại rất tiết kiệm, bóp mồm bóp miệng, không dám ăn thứ mình thích, không dám mua cái mình muốn. Đến cả ra đường khát nước cũng không dám mua uống mà chịu khát chờ về nhà.
Tính ba cũng rất kỳ. Con cái mới 9, 10 tuổi đã cho đi học nghề để kiếm tiền. Nhà có 4 anh chị em nhưng chỉ có tôi được ăn học.
Thế nhưng cũng lạ, những người theo nghề ba giờ đều giàu, chỉ có tôi mê nhạc nên đời lênh đênh.

Gia đình không có ai theo nghệ thuật, mọi người lại đi làm kiếm tiền từ sớm, ông có thể kể về kỷ niệm khiến ông trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng?

Tôi là người rất ương ngạnh, không nghe lời ba mẹ, chỉ làm những gì mình thích. Dù được cho ăn học đàng hoàng nhưng 15 tuổi tôi lại bỏ học để theo đuổi sở thích sáng tác nhạc.
Đây cũng là khoảng thời gian tôi chịu nhiều ánh nhìn hoài nghi từ chính gia đình và mọi người xung quanh. Vì ba tôi mù chữ nên không ai tin tôi. Đến nỗi khi nổi tiếng rồi mọi người vẫn nghĩ tôi đi ăn cắp nhạc của người ta.

Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn
Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn

Bản nhạc đầu tiên bị ném vào sọt rác

Ông không theo học trường lớp về âm nhạc, làm thế nào để ông có thể sáng tác được?

Âm nhạc như có sẵn trong máu tôi từ kiếp trước rồi. Tôi không được học nhạc trước đấy nhưng sau khi quyết định đến với nhạc, tôi đi học và mua nhiều loại sách hướng dẫn cách sáng tác. Sau một năm, tôi bắt đầu sáng tác và tất cả các tác phẩm đều nói về sự chia ly, mất mát của tình yêu đôi lứa.
Để có những tác phẩm như mọi người biết, tôi đã trải qua nhiều chuyện mà nghĩ đến đã thấy xấu hổ. Sáng tác là một chuyện, được ra mắt hay không là chuyện khác.
Trước khi sáng tác, tôi từng trộm tiền của ba má để chơi bời với giới nghệ sĩ nổi tiếng thời đó, nhất là những người làm phát thanh ở Sài Gòn. Tôi còn to gan bán cả căn nhà ba má cho được khoảng 300 – 400 ngàn để ăn uống, chơi bời.
Đến khi hết tiền, tôi giấu người thân và đến xin sống với một người bạn đạp xíc lô trong một con hẻm nhỏ. Cuối cũng ba má cũng phát hiện ra và ông bà tức giận đến mức gọi công an tới bắt tôi.
Nhưng tôi vẫn không từ bỏ đam mê. Còn nhớ lúc đó, Chế Linh đã ghi lại cho tôi bài Yêu người chung vách. Tối đến tôi thường mang ra lề đường, nơi bán hàng quán nhiều và mở lớn tiếng, mọi người khen hay. Thấy vậy tôi mang đi bán cho một nhà phát hành nhạc ở đường Nguyễn Trung Trực nhưng người chủ chỉ kêu về đợi.
Vài ngày sau tôi trở lại thì thấy cuốn băng của mình trong sọt rác. Tôi đã không dám cúi xuống lượm vì xấu hổ mà phải dùng đôi dép đang đi, kẹp lại mang giấu.

Yêu người chung vách có thể coi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, ông đã làm cách nào trong khi nó đã bị ném trong sọt rác?

Tôi đã chịu nhiều tổn thương và bị coi thường, có lẽ đó cũng là thử thách vì may mắn là, không lâu sau đó, tôi gặp được trưởng ban văn nghệ Đài phát thanh Sài Gòn và bản nhạc đầu tay này của tôi được phát miễn phí suốt một tuần trên đài lúc đó.
Ngay lập tức, tôi nhận được rất nhiều hoa của khán giả gửi về và khen tặng. Cả người quăng bản nhạc của tôi vào sọt rác là ông Minh Phát cũng tìm đến và ra giá nhất quyết đòi mua lại để phát hành.
Vì từng bị lừa cả căn nhà nên tôi dè chừng mọi người hơn. Sợ người ta ăn gian kê thêm số đĩa của mình nên khi đi in băng tôi cứ lén lút để ý.

Vậy là từ đây, âm nhạc đã mang đến cho ông cả danh tiếng và tiền bạc?

Thời hoàng kim nhất của tôi là trước năm 1975. Số tiền tác quyền từ các ca khúc đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu. Tôi cảm ơn trời vì đã cho tôi cứ chắp bút bài nào là nổi tiếng bài đó. Những bản nhạc sáng tác thời mới tập tành làm nhạc sĩ như Nhẫn cỏ cho em, Người phu kéo mo cau, Hai bàn tay trắng… cũng được mọi người đón nhận. Tôi bỗng trở nên nổi tiếng và được gọi là “vua nhạc sến”.
Nhưng, lúc đó tôi nghĩ, có tiền thì phải tiêu, phải ăn nhậu và tôi sa đà vào những cuộc ăn chơi, mỗi đêm chi cả chục lượng vàng ở những nhà hàng sang trọng bậc nhất Sài Gòn.

Bên cạnh những lời đồn ông tiêu tiền như nước, ông còn nổi tiếng là đào hoa vì yêu nhiều…

Tôi thích yêu người đẹp để khi thất tình dễ có cảm hứng sáng tác. Tôi không yêu người xấu. Tôi có bao nhiêu bài nhạc thì có bấy nhiêu người tình, cả viết cho vợ nữa. Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia.
Tôi từng bị đồn một lúc ở với nhiều bà. Tôi có phải thần thánh đâu mà làm được vậy.

Ngoài âm nhạc và người tình, ông còn được nhắc đến nhiều vì có đến bốn bà vợ. Ông thấy mình là người may mắn?

Tôi có bốn bà vợ các con đủ trai gái nhưng ở tuổi xế chiều và đang bị ung thư đại tràng, tôi sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Thỉnh thoảng cô vợ thứ ba có tới thăm. Sau khi bỏ tôi, cô ấy lấy chồng khác nhưng chồng cô ấy mất rồi.
Không phải con cái không quan tâm mà do tôi thích ở một mình. Chúng gọi điện hỏi thăm hoài còn khiến tôi bực mình. Tôi cũng già rồi nên sống tay trắng như giờ cũng được, vì chết rồi đâu có mang được theo.

Nghe nói sức khỏe của ông có tiến triển hơn nhiều và ông cũng có nhiều bản nhạc muốn ra mắt?

Nói thế này cũng không sai, nhờ bệnh tật, sức khỏe yếu mà tôi ở nhà và viết được nhiều hơn. Hiện tôi có hơn 200 bản nhạc chưa ra mắt.
Tôi rất vui khi biết sắp tới chương trình Sol Vàng tới đây tặng riêng tôi một đêm nhạc mang tên Vinh Sử – Gõ cửa trái tim. Chương trình này ngoài những ca khúc quen thuộc, tôi cũng gửi đến khán giả một số sáng tác mới. Hi vọng danh ca Giao Linh, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Đàm Vĩnh Hưng, Ngô Khả Tú, Tuấn Vỹ, Mai Quốc Huy… sẽ truyền tải hết được những tâm tình của tôi đến với khán giả.

Cảm ơn ông về những chia sẻ!

[footer]

Boléro có phải là nhạc sến hay không? (Tín Đức)

Để giới trẻ hiểu rõ hơn về dòng nhạc “sến” và dòng nhạc boléro, [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của nhạc sỹ Tín Đức đăng trên ThanhThuy.me

BOLÉRO CÓ PHẢI LÀ NHẠC SẾN KHÔNG?
(Nguồn: nhạc sỹ Tín Đức viết trên ThanhThuy.me)

Boléro là một điệu nhảy dân tộc, có nguồn gốc xuất xứ từ nước Tây Ban Nha, do một vũ sư tên là Sébastian Zérezo sáng tạo. Sau đó, theo làn sóng người di cư sang Tân thế giới, tiết điệu Boléro được phát triển mạnh ở Mỹ châu La tinh, mà đặc biệt là ở Cu Ba.

Được du nhập vào Việt Nam từ thập niên 50 của thế kỷ XX. Theo tài liệu sử nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ chính là người đầu tiên đã sáng tác bài hát nổi tiếng “Duyên quê” bằng điệu Boléro. Âm điệu du dương của điệu nhạc này đã khiến cho khán thính giả thời đó nức lòng say mê! Rồi tiếp theo, còn rất nhiều nhạc sĩ khác ở miền Nam sáng tác nhiều ca khúc với tiết tấu Boléro như: Trúc Phương, Lam Phương, Dzũng Chinh, Vinh Sử… và ngay cả nhạc sĩ nổi tiếng Trịnh Công Sơn, cũng đã từng sáng tác ca khúc “Lời buồn thánh” với lời lẽ ca từ thật hoa mỹ:
“Chiểu chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu. Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều. Trời mưa, trời mưa không dứt. Ô hay, mình vẫn cô liêu…”.

Ở miền Nam, hai thập niên 60-70 là đỉnh điểm phát triển thịnh hành của dòng nhạc Boléro. Thời gian này, trong giới bình dân lao động, đâu đâu cũng có hiện tượng hầu như “người người hát Boléro, nhà nhà nghe Boléro”. Để chạy theo thị hiếu quần chúng và cũng để theo yêu cầu vì lợi nhuận của các hảng băng đĩa thời đó, một số nhạc sĩ đã vội vội vàng vàng cho ra đời hàng loạt ca khúc có tiết điệu Boléro với các chủ đề: thất tình, cảnh nghèo khổ, cô đơn, bạc phận… với cách tiến dẫn giai điệu nghèo nàn, lời lẽ rẻ tiền, bình dân! Đây là loại hình thái kinh doanh âm nhạc dạng “mì ăn liền” mà giới phê bình âm nhạc gọi là “kỹ nghệ thương nhạc”. Thế nhưng, nó lại được lan truyền trên khắp các phương tiện truyền thông đại chúng (!) Đây chính là nguyên nhân khiến cho người ta nhầm lẫn, gọi tiết điệu Boléro là loại “nhạc sến”!

Nhạc sến là gì? Theo ý kiến của một số nhà phê bình âm nhạc, từ “sến” được nói trại ra từ chữ “cent”, có nghĩa là “xu”, là đơn vị tiền tệ thấp nhất vào thời trước. Theo đó, người ta mặc nhiên hiểu rằng nhạc sến tức là loại nhạc ba xu, loại nhạc rẻ tiền dành cho tầng lớp thợ thuyền, dân lao động, các ma-ri phông tên, ma-ri sến có trình độ thưởng thức âm nhạc cấp thấp! (Trong khi thật sự, các từ ngữ như: nhạc sến, nhạc vàng, nhạc xanh, nhạc đỏ không hề có và hoàn toàn không được nhìn nhận trong ngôn ngữ học thuật chuyên biệt về âm nhạc!)

Thêm nữa, do không thích hợp lắm trong thủ thuật phân câu, nên người ta không phổ thơ qua nền nhạc Boléro. Từ đó, dẫn đến việc rất nhiều ca khúc Boléro có ngôn ngữ bình dân, ít mang tính ngôn ngữ văn học sâu sắc! Đây cũng chính là yếu tố để người ta đánh giá cho rằng Boléro là thể loại nhạc bình dân, rẻ tiền.

Thật sự, Boléro không phải là nhạc sến! Chúng ta có thể khẳng định điều đó một cách chắc chắn! Thế nhưng, nguyên nhân vì sao dòng nhạc Boléro dễ dàng đi sâu vào lòng người như vậy?  Xuất phát từ đặc tính tiết tấu được diễn đạt vừa phải, không nhanh cũng không chậm, khoảng 120 nốt đen trong một phút. Một đặc tính khác là trong khi Boléro nguyên thủy là loại nhạc được viết theo nhịp 3/4, nhưng khi du nhập sang Việt Nam lại được viết theo nhịp 4/4 với hai phách cuối thường được cấu tạo bởi một liên ba đen, hoặc là giai điệu được tiến dẫn bởi những liên ba đen liên tục nối tiếp nhau. Cách chia tiết tấu này rất phú hợp với tính chất của các bài dân ca hoặc sáu câu vọng cổ miền Nam. Đây chính là yếu tố giúp cho người ta khi nghe giai điệu này cảm thấy thật thân quen, gần gũi… Với các đặc trưng này, ta thấy tiết điệu Boléro rất phù hợp với những ca khúc mang tính tự sự, đậm đà chất dân gian, chẳng hạn như Mưa nửa đêm, Chuyện tình Lan và Điệp, Lời tạ từ, Tình thắm duyên quê…

Một tính chất quan trọng nữa là do kết cấu phân nhịp và bố cục giai điệu thường tiến dẫn một cách nhịp nhàng, đều đặn, ít có những nốt cao trào đột biến như những tiết điệu khác, nên Boléro có đặc trưng tạo ra một chuỗi giai điệu buồn. Những ca khúc sáng tác gợi nhớ về dỉ vãng hay tâm sự riêng tư rất thích hợp với loại tiết điệu này!
“Tôi muốn hỏi, có phải vì đời chưa trọn vòng tay. Nên những khi mưa nửa đêm, làm xao xuyến giấc ngủ chưa đến tìm…” (Mưa nửa đêm của Trúc Phương)

 

Mới đây, trong chương trình dự thi dành riêng cho dòng nhạc Boléro của một Đài Truyền hình địa phương, một MC đã nhầm lẫn, xướng danh nhạc sĩ Trúc Phương và một nhạc sĩ khác đều là “ông Hoàng nhạc Boléro”. Thật sự, danh xưng “ông Hoàng nhạc Boléro” chỉ có một, người ấy chính là nhạc sĩ Trúc Phương; còn nhạc sĩ kia chỉ là “ông Hoàng nhạc sến” mà thôi! Thật vậy, trong thời hoàng kim của nhạc Boléro, nhạc sĩ Trúc Phương đã được xem như “ông Hoàng nhạc Boléro” với các ca khúc nổi tiếng, đi sâu vào lòng người qua biết bao thế hệ như: Tàu đêm năm cũ, Mưa nửa đêm, Hai chuyến tàu đêm, Nửa đêm ngoài phố…

Nhắc đến nhạc sĩ Trúc Phương, ắt hẳn người dân Vĩnh Long không cảm thấy xa lạ gì, bởi vì vào khoảng giữa thập niên 80, ông có biên chế và là Hội viên Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Cửu Long (gồm Vĩnh Long và Trà Vinh). Trúc Phương đã sống tại Thị xã Vĩnh Long khoảng mười năm. Một số ca khúc đã được ông sáng tác trong giai đoạn này: Về chín dòng sông hò hẹn, Về An Quãng Hữu, Hoa sách… Riêng ca khúc “Về chín dòng sông hò hẹn”, với tiết tấu Boléro cộng với chất dân ca Nam Bộ đậm đà,  đã được các ca sĩ  trong và ngoài tỉnh Cửu Long cùng với các hảng băng đĩa thời đó sử dụng trình bày và thu thanh, trong đó có ca sĩ Đình Văn trong nhóm Bách Việt đem ca khúc này phổ biến tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, tựa đề của bài hát này được đặt tên cho cuộc hội diễn Nghệ thuật Quần chúng hàng năm cho 11 tỉnh Tây Nam Bộ.

Cũng vào thập niên 80, nhạc sĩ Trần Tiến đã từng cộng tác với Đoàn Ca múa tỉnh Cửu Long. Thời gian này, ông có viết một bài hát mang âm hưởng dân ca Nam Bộ trên nền nhạc Boléro, đó là bài “Sao em nỡ vội lấy chồng”. Ca khúc này rất được nhiều người yêu thích, đã từng đoạt giải thưởng quốc gia!

Khi đi sâu, tìm hiểu lại xuất xứ của tiết điệu này, ta sẽ thấy có rất nhiều nhạc sĩ lừng danh trên thế giới đã từng sáng tác nhiều tác phẩm bất hủ trên nền tiết tấu này  như: nhạc sĩ dương cầm Chopin trong chương Piano Solo (op.19). Debussy với bài Soirée Dans Grenada.

Nhạc sĩ tài danh Bizet cũng đã sử dụng điệu Boléro trong vở Opéra nổi tiếng thế giới “ Carmen”. Nhạc sĩ Charles Aujuste De Bariot với bản Concerto nổi tiếng “Scène De Ballet”.
Một số biến thể khác của điệu Boléro mà giới sưu tầm âm nhạc thường gọi là biến tấu Habanera (Tiền thân của Tango ở Cu Ba). Đó là những vở Opéra từng nổi đình đám ở Pháp và Tây Ban Nha.

Sau năm 1975, cũng  có một số nhạc sĩ Cách mạng viết nhiều ca khúc rất hay mang âm hưởng tiết tấu Boléro như: Ngày mai anh lên đường, Gần lắm Trường Sa, Nhánh lan rừng… Đây là những ca khúc đã đi sâu vào lòng người vì có giá trị nghệ thuật cao .

Qua một số minh chứng trên , khi đúc kết lại chúng ta nhận thấy Boléro là một tiết điệu âm nhạc có bề dày lịch sử hình thành và phát triển. Nó có tính chất đặc thù, một giá trị riêng biệt. Tính nghệ thuật của nó rất cao được nền âm nhạc cùa cà thế giới thừa nhận, không hề thua bất cứ một tiết tấu nào khác như “ Vasle, Boston, Slow hay các điệu nhạc trẻ như Soul, Rock…

Việc ở miền Nam trước đây dòng nhạc rẻ tiền kiểu “kỷ nghệ thương nhạc” là có thật! Tuy nhiên, thực chất nó được viết với các tiết tấu đa dạng như: Slow Rock, Vasle, Boléro, Soul…chứ không riêng gì với điệu Boléro. Thế nhưng, ta phải thừa nhận rằng có rất nhiều bài hát rẻ tiền thời này thường sử dụng điệu Boléro.

Đến với âm nhạc là ta đến với một lĩnh vực cần có sự học tập tìm hiểu và nhận định chính xác. Để từ đó ta mới cảm nhận được hết cái hay cái đẹp tinh túy của âm nhạc! Do đó việc nghiên cứu và xét lại đúng một trào lưu hay một phong cách nào đó trong nghệ thuật nói chung hay âm nhạc nói riêng là công việc rất cần thiết và cẩn trọng.

Tác giả viết bài này không ngoài ý tưởng trên, muốn minh chứng cho người yêu thích âm nhạc, nhất là các bạn trẻ có được nhận xét thật khách quan về một lĩnh vực nhỏ trong âm nhạc: vấn đề tiết điệu  Boléro không phải chỉ dành cho dòng nhạc bình dân, rẻ tiền như người ta đã từng nhầm lẫn!

Tín Đức
(25-12-2014)

[footer]

Hoa Sứ Nhà Nàng (Hoàng Phương)

[dongnhacxua.com] cũng như người yêu nhạc xưa, đặc biệt là những ai yêu thích dòng nhạc belero không thể không biết đến bản ‘Hoa sứ nhà nàng’. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta biết được về cuộc đời cũng như hoàn cảnh éo le cuối đời của tác giả: nhạc sỹ Hoàng Phương.

Hoa sứ nhà em (tức Hoa sứ nhà nàng) của Hoàng Phương. Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hoa-su-nha-nang--1--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hoa-su-nha-nang--2--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hoa-su-nha-nang--3--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ CHẾT TRONG TẬN CÙNG NGHÈO KHỔ
(Nguồn: tác giả Tư Hoàng đăng trên laodong.com.vn)

Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Phương, nhiều người yêu thích âm nhạc đều biết đó chính là tác giả của nhạc phẩm “vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải phóng, đó là bài hát “Hoa sứ nhà nàng”. Ông chính là tác giả của dòng nhạc Gò Công đã làm mưa làm gió từ Nam chí Bắc suốt thập niên 1980. 

Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn
Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn

Từng sở hữu 2 tiệm vàng, 1 tiệm mua bán đồng hồ, 3 căn nhà phố, nhưng về cuối đời ông sống nghèo khổ trong căn chòi rách nát…

Thành danh trên đất biển Gò Công

Hoàng Phương tên thật là Nguyễn Kim Hoàng, sinh năm 1943 trong một gia đình khá giả tại xóm Cầu Muống, xã Tân Thành, cách thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang) khoảng 17km. Xóm Cầu Muống nằm cách bãi biển Tân Thành khoảng 2,5km, ngày ấy nơi đây nhà dân cư thưa thớt cất dọc theo hai bên trục lộ. Thuở nhỏ, ông học trường tiểu học sơ cấp Tân Thành, sau đó học ở trường Nam Tiểu học Gò Công. Trường Nam Tiểu học Gò Công lúc bấy giờ có một thầy dạy nhạc, đó là nhạc sĩ Lê Dinh.

Thi rớt vào đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường công lập, ông theo học đệ thất trường Bán công Gò Công. Một năm sau, khi đang theo học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ) thì cũng là năm ông ghi danh học nhạc buổi tối với nhạc sĩ Lê Dinh. Sau khi học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ), thi trượt tú tài 1, ông thôi học. Từ đây, ngoài cái nghiệp đam mê ca hát ra, ông đã chọn cho mình cái nghề để sinh sống sau này là học nghề sửa đồng hồ và học nghề thợ bạc.

Từ khi gặp được nhạc sĩ Lê Dinh, được nghe tiếng hát và phong cách biểu diễn của người nhạc sĩ tài ba này thì… âm nhạc như đã có sẵn từ trong máu ông được dịp trỗi dậy. Ông say mê nhạc hơn những bài toán. Một lần vào một đêm mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường, ai đó đã chơi bài “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong. Đó là cái đêm định mệnh thôi thúc Nguyễn Kim Hoàng đến với nghiệp cầm ca. Ông quyết dành dụm tiền để mua cho kỳ được đàn violon và ghi danh học nhạc với nhạc sĩ Lê Dinh.

Một thời gian sau ông tìm đến với guitar, có lẽ đối với ông đàn guitar đa dạng, phong phú hơn, trong những buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè mà mang cây đàn guitar trễ một bên hông, nó có vẻ lãng mạn, tình tứ, mang dáng dấp của một gã du ca lãng tử. Việc gì đến phải đến, ông rời ghế nhà trường khi vừa học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Từ đây ông bước vào một thế giới mới, không còn gò bó bởi thời gian như khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Ông miệt mài hơn, vừa học đàn vừa sáng tác, sự say mê cộng với khả năng thiên phú sẵn có trong ông, để rồi sau bao tháng ngày bên cung bậc bổng trầm và kết quả mà ông đã đạt được hơn sự mong đợi rất nhiều. Năm 1968, nhạc phẩm đầu tay “Hoa sứ nhà nàng” của ông ra đời.

Sau này, Hoàng Phương tiếp tục làm sôi động đời sống âm nhạc miền Nam với dòng nhạc mang tên quê hương ông -“nhạc Gò Công”. Phải nói là Hoàng Phương đã góp một phần không nhỏ để quảng bá “Biển Gò Công” nổi danh khắp cả nước.

Bản “nhạc vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải  phóng

Trước 30.4.1975 đất nước phân ly, chiến tranh mỗi lúc một thêm khốc liệt. Thanh niên lớn lên ở vùng do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kiểm soát bị bắt buộc gia nhập vào quân đội VNCH. Thường những nhạc sĩ thời ấy chỉ “đi lính” cho có lệ, rồi lo lót để được ở Sài Gòn hoạt động âm nhạc.

Sau ngày giải phóng, tất cả những tác giả có tên trong quân đội cũ đều là những người phải đi học tập cải tạo và nhạc của họ không được phép lưu hành. Như Trần Thiện Thanh, ông là một hạ sĩ quan, nhưng hoạt động chính là một nhạc sĩ. Nhiều bản nhạc ông viết về người lính VNCH, như những bản “Người ở lại Charlie”, “Anh không chết đâu em”, “Mùa xuân lá khô”… và nhiều bài viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đều bị cấm sau 30.4.1975.

Cũng có những soạn giả không tham gia vào quân đội Sài Gòn nhưng có làm việc cho chính phủ cũ, nhạc của họ cũng bị cấm do có nhiều bản nhạc ca ngợi chế độ cũ như “Chuyến đò vĩ tuyến”, “Nắng đẹp miền Nam” của nhạc sĩ Lam Phương, “Đò chiều”, “Tàu đêm năm cũ” của Trúc Phương… Có những bản nhạc rất trong sáng, dễ thương, viết về những kỷ niệm của thời học sinh như “Nỗi buồn hoa phượng” của Thanh Sơn, “Niên học sau cùng” của Hàn Sinh cũng bị cấm. Nói chung các dòng nhạc được viết trước ngày 30.4.1975 hầu hết đều bị cấm vì không dính dáng đến thời cuộc thì cũng bị xếp vào loại nhạc ủy mị, “nhạc vàng”.

Chỉ có một tác giả duy nhất – Hoàng Phương – là không dính dáng đến quân đội Sài Gòn, không làm việc cho chế độ cũ, bởi vì ông bị tật – khập khiễng một bên chân. Nhạc của ông chỉ viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương nên được phép lưu hành, trong đó có bản “Hoa sứ nhà nàng”.

Phải nói là trước ngày giải phóng, đời sống âm nhạc ở miền Nam cực kỳ phong phú, từ giới bình dân đến trí thức, ai cũng có thể chọn những bản nhạc thích hợp với “gu” của mình. Giới trí thức thì chọn nhạc của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Dương Thiệu Tước…, ai thất tình triền miên thì kiếm nhạc của Đỗ Lễ, Vũ Thành An…, giới bình dân thì chọn dòng nhạc của Hoàng Phương, Trúc Phương, Lam Phương…, dễ dãi hơn nữa thì tìm nhạc của Vinh Sử, Cô Phượng…, còn người nào phản chiến, coi cuộc chiến là sự ô nhục, huynh đệ tương tàn thì tìm các “Ca khúc da vàng” của Trịnh Công Sơn.

Khi những bản nhạc ăn vào máu vào thịt của tầng lớp mê ca hát bị cấm nghe, cấm hát thì hỏi làm sao mà không buồn cho được. Đây là khoảng thời gian mà nhạc phẩm “Hoa sứ nhà nàng” lên ngôi “nhạc đế”, bản nhạc dễ học, dễ ca, những lời trong bài hát dễ nhớ. Hồi đó,  “Hoa sứ nhà nàng” là nhạc phẩm không thể thiếu trong những tiệc vui, đám cưới thôn quê và những lần họp mặt.

Về cõi vĩnh hằng trong cô đơn và nghèo túng

Trước năm 1975, Hoàng Phương vừa viết nhạc vừa trông coi tiệm buôn bán đồng hồ, về sau ông có mở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân tại thị xã Gò Công. Gia đình ông lúc đó rất khá giả, nhưng vì nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông chọn con đường sống xa gia đình.

Năm 1989, ông bỏ lại tất cả sự nghiệp, kể cả gia đình, vợ và 8 đứa con để bước thêm bước nữa với người yêu mới tên là Mộng Vân (nhỏ hơn ông hai con giáp). Ông cất một căn nhà tạm bợ bằng tre lá, khoảng 15m2 gần bãi biển Tân Thành, gọi là nhà chứ thật ra nó là một căn chòi, nghèo nàn, xơ xác. Càng về sau, cuộc đời ông như buông thả, suốt ngày ông vùi đầu bên ly rượu, có khi mới hừng đông mà người ta đã thấy ông ngà say, một mình lang thang trên bãi biển Tân Thành.

Trong căn lều bé nhỏ ông vẫn sáng tác, một bên là cây đàn guitar và một bên là chai rượu đế, để rồi một thời gian sau đó ông suy sụp hoàn toàn, càng buồn phiền ông càng phẫn chí, ông lại vùi đầu vào ly rượu để lãng quên đời, rượu chè thâu đêm suốt sáng, điếu thuốc lúc nào cũng lấp lóe trên môi… Như cái vòng luẩn quẩn, ngỡ chuốc rượu cho tiêu sầu nào ngờ nỗi buồn như thêm chồng chất… Ông chưa quên được đời nhưng đời đã muốn lãng quên ông… Sau bao ngày đắm chìm trong men rượu, một hôm ông phát hiện ra mình mang một chứng bệnh quái ác – bệnh ung thư gan, thời kỳ cuối.

Hoàng Phương mất ngày 19.10.2002 tại Gò Công. Đám tang được tổ chức đơn sơ trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn của vợ chồng ông trên bãi biển Tân Thành. Khi chết rồi ông vẫn còn nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông còn để lại cho người, cho đời khoảng 10 ca khúc bằng bản thảo viết tay: “Biển khóc”, “Thuyền giấy chiều mưa”, “Hương bâng khuâng”, “Tình hạ buồn”, “Tìm em quán Phượng”, “Bươm bướm ngày thơ”, “Em vẫn chờ”, “Kiếp tơ tằm”, “Mộng tàn”, “Mùa nhạn trắng”… Có phải như một lời cảm ơn (?). Cảm ơn cuộc sống dù đau khổ muộn phiền này!…

CHÂN DUNG TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ QUA KÝ ỨC CON TRAI
(Nguồn: tác giả Hà Nguyễn – Ngọc Lài đăng trên NguoiDuaTin.vn)

Những năm 80-90 của thế kỷ trước, nhạc Gò Công tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc Việt như một hiện tượng nghệ thuật mới lạ. Người khai phá và duy nhất tỏa sáng với dòng nhạc Gò Công là nhạc sĩ Hoàng Phương. Ông được giới nghệ sĩ, thính giả thời bấy giờ vinh danh “Ông hoàng nhạc Gò Công” với những bài hát ca ngợi quê hương Gò Công, cũng như chuyện tình đôi lứa bằng lời hát trong sáng và mặn mà…

Chân dung tác giả Hoa sứ nhà nàng

Thời cực thịnh của nhạc Gò Công, khắp trong Nam ngoài Bắc, người yêu nhạc đổ xô tìm mua băng cassette nhạc Gò Công của nhạc sĩ Hoàng Phương. Những ca khúc viết về tình yêu, về biển của ông trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của đại đa số người yêu nhạc. Những ca khúc: Chuyện tình hoa muống biển, Biển tím, Chuyến xe Tiền Giang, Tình em quán Phượng,… đặc biệt là tình khúc Hoa sứ nhà nàng trở nên phổ biến đến độ hầu như ai cũng thuộc. Cho đến nay, những ca khúc trên của cố nhạc sĩ Hoàng Phương, người được giới nghệ sĩ cùng thời mệnh danh “Ông hoàngnhạc Gò Công” vẫn chinh phục tình yêu âm nhạc của người đời.

Anh Nguyễn Hoàng Tùng, người con trai duy nhất được thừa hưởng những tinh hoa của nhạc sĩ Hoàng Phương cho biết: “Mặc dù, ca khúc Hoa sứ nhà nàng của cha tôi hết sức phổ biến và được nhiều ca sĩ thể hiện thành công nhưng ít ai biết đó là sáng tác của ông. Không như những nhạc sĩ khác, cha không chọn lĩnh vực âm nhạc làm nghề nuôi thân mà chỉ xem đó như một thú chơi tao nhã, thỏa niềm đam mê. Và ông đã biến niềm đam mê đó của mình thành niềm đam mê của người khác khi góp phần đưa nhạc Gò Công đến đỉnh của nó vào những năm 80-90 của thế kỷ trước”.

Theo lời anh, “ông hoàng” vốn xuất thân từ một gia đình có của ăn của để.Gia đình ông vốn không thích cậu con trai theo nghiệp cầm ca mà hướng cậu vào con đường thương nghiệp. Thế nhưng, những tháng năm ngồi trên ghế nhà trường, niềm đam mê âm nhạc dường đã lấn át con chữ trên những trang vở. Ông say đắm các nhạc khúc viết về quê hương vùng biển Gò Công. Cùng lúc ấy, như duyên trời đã định, khi còn đang theo học tại trường Nam Tiểu học Gò Công, cậu bé yêu nhạc đã vô tình được biết nhạc sĩ Lê Dinh. Để thỏa niềm đam mê âm nhạc, ông quyết định ghi danh học nhạc với vị nhạc sĩ tài ba nói trên. Từ đây, con đường đến với âm nhạc của cậu học trò trường làng đã tìm được lối dẫn.

Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)
Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)

Anh Hoàng Tùng kể lại: “Khi còn sống, cha tôi thường kể cho tôi nghe về những năm tháng đầu tiên ông đến với âm nhạc. Tôi còn nhớ ông kể rằng vào một mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường. Ai đó đang chơi bài Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong. Những tiếng đàn, những nốt nhạc đó đã thôi thúc ông tiến đến gần hơn con đường âm nhạc”. Sau đêm định mệnh trên, anh thanh niên Hoàng Phương dốc tiền mua cây violon và ghi danh, nhận nhạc sĩ Lê Dinh làm thầy.

Tuy nhiên, có lẽ cảm thấy mình thích hợp hơn với chất lãng tử, phiêu du của một anh du ca, Hoàng Phương quyết định chuyển sang học guitar. Những tháng ngày đắm mình trong các buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè, nhạc sĩ Hoàng Phương luyện thêm chất giọng, chắt lọc thêm ca từ, điệu nhạc cho các ca khúc của mình. Đam mê, say đắm với âm nhạc một cách kỳ lạ nhưng người nhạc sĩ miệt vườn tài danh chưa một lần chọn con đường âm nhạc làm nghề nuôi thân. Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Cha tôi không lấy việc viết nhạc làm nghề nuôi thân. Thế nên, khi từ giã ghế nhà trường, ông về nhà mở tiệm sửa đồng hồ và sau này chuyển sang buôn bán ở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân”.

Tuy nhiên, tình yêu dành cho âm nhạc của ông vẫn không một ngày nguôi ngoai. Từ những sáng tác đầu tay, các tình khúc chất chứa tình yêu đời, yêu người, yêu quê hương, yêu biển của ông lần lượt ra đời. Đặc biệt, rất nhiều tình khúc của ông được lấy cảm hứng từ chính những mối tình của tác giả.

Tình khúc từ những mối tình chân thật

Năm 1968 đánh dấu sự chuyển mình của anh du ca lãng tử khi Hoàng Phương lên Sài Gòn tham gia vào ban nhạc cùng Vinh Sử, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Cũng chính năm này, ông sáng tác đứa con tinh thần đầu tiên và cũng là ánh sao thắp sáng mãi tên tuổi của người nhạc sĩ – nhạc phẩm Hoa sứ nhà nàng. Những ca từ, xúc cảm về một mối tình dở dang nhanh chóng chiếm được cảm tình thính giả. Anh Hoàng Tùng cho biết: “Nhạc của cha tôi đến từ những tình cảm chân thật, chân chất của một con tim yêu đời, yêu quê hương nồng cháy. Đặc biệt là tình khúc. Hầu như, những tình khúc của ông đều là những chuyện tình có thật của ông ngoài đời. Sinh thời, nhiều chú bác là những nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời cho rằng ca khúc Hoa sứ nhà nàng xuất phát từ mối tình thật của ông. Tuy nhiên, về chuyện này, tôi không nghe ông khẳng định. Là phận con, tôi cũng không dám nhiều lời”.

Theo anh, một trong nhiều tình khúc khác cũng xuất phát từ các mối tình của ông là nhạc phẩm Chiếc cầu chiều mưa. “Nhạc khúc này tôi được biết là khi ông với người tình của mình đi cùng một chiếc cầu trong chiều mưa. Mưa, cầu trơn, hai người ngã nhào. Thế mà ông lại lấy cảm hứng từ kỷ niệm ấy viết nên ca khúc trên”, anh Tùng cho biết thêm. Ngoài những nhạc phẩm trên, theo anh Hoàng Tùng, rất nhiều ca khúc khác được ông sáng tác dựa trên những xúc cảm chân thật từ những mối tình của mình. Anh chia sẻ: “Sinh thời, cha tôi tính tình phóng khoáng lại hào hoa, lãng tử nên cũng rất đa tình. Và những mối tình ấy đã chắp thêm cánh cho những sáng tác trong mảng đề tài tình yêu đôi lứa của ông”.

Tuy nhiên, ngoài ngợi ca tình yêu lứa đôi trong sáng với những cung bậc rất riêng, nhạc sỹ Hoàng Phương còn có một tình yêu đặc biệt với quê hương Gò Công, với biển. Năm 1986 đánh dấu sự trở lại của Hoàng Phương, đưa ông lên ngai vàng ông hoàng nhạc Gò Công với những nhạc phẩm: Trưa hè trên bãi biển; Chung một dòng sông; Gò Công hồng trang sử; Biển thức; Về nông trường Phú Đông; Tiếng chim mùa xuân; Nhà em đó bên kia sông; Biển Gò Công khi em đến; Chiều xuân qua thị trấn Gò Công; Ánh mắt quê hương; Khung trời quê; Khúc Cachiusa hát ở bên sông Tiền; Mỹ Tho thành phố cội nguồn; Mẹ Gò Công; Biển tím; Khung trời quê…

Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Năm đó, bộ Văn hóa cho lưu hành bản Hoa sứ nhà nàng của cha tôi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nghe đứa con tinh thần của mình được phát công khai, ông sướng run người. Như dòng sông được khơi lòng, ông lao vào sáng tác, hồ hởi sáng tác, sáng tác ngợi ca tình yêu, ngợi ca quê hương Gò Công, ngợi ca biển nơi gắn liền với tuổi thơ ông. Thời điểm này nhạc Gò Công đang trên đà đi lên và những sáng tác của ông đã tiếp bước cho nó bay cao hơn, xa hơn”.

Để những sáng tác của mình đến gần hơi thở cuộc sống hơn, gần hơn với nhịp sống của quê hương, ông tìm người thể hiện những ca khúc của mình. “Khi ấy toàn là người không chuyên nên các buổi biểu diễn ca khúc của cha tôi không mấy thành công. Mình không biết cách phối khí, hòa âm nên nghe không ra gì. Thương yêu bà con yêu mến nhạc của mình, cha tôi gác công việc, gom tiền lên TP.HCM tìm nhạc sĩ Quốc Dũng và Lê Hựu Hà. Họ phối khí hòa âm xong, ca sĩ Bảo Yến (vợ Quốc Dũng) hát thử. Thấy hay thế là thu băng cassette. Vậy là người ta ùn ùn đi tìm băng nhạc Gò Công”. Sau này, ông còn bỏ tiền túi ra mời ca sỹ về quê hát cho bà con nghe miễn phí”, anh Hoàng Tùng kể lại.

 

[footer]

Bolero chợ Nọ

Những ai đã từng trải qua thời sinh viên, rồi ở nhà trọ có lẽ không mấy xa lạ với những buổi tối bù khú bên bàn nhậu đơn sơ với vài ba đứa bạn thân. Nhiều khi mồi chỉ là dăm ba gói mỳ tôm mà đàn hát vui vẻ thâu đêm. Gần như là trong tất cả các dịp ấy, khi đã đàn hát qua hết các thể loại thì giai điệu bolero luôn là những bài cuối cùng. Trong niềm cảm xúc đó, [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại một bài viết của tác giả Phi Tân trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần ra ngày 13.09.2014.

“BOLERO CHỢ NỌ”

(Nguồn: tác giả Phi Tân viết trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

Hồi sinh viên, có lần cùng anh bạn ở cùng phòng ký túc xá đại học đạp xe về quê mình chơi. Trên đường từ Huế về làng, ghé vô cái quán cà phê chẹp chẹp ở chợ Tây Thành nghỉ chân và từ chiếc loa của quán giọng ca da diết của Quang Lê cất lên: “Đường xưa lối cũ, có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo. Đường xưa lối cũ có ánh trăng, ánh trăng soi đường đi. Đường xưa lối cũ có tiếng ca, tiếng ca trên sông dài. Đường xưa lối cũ có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru lòng ai”…Anh bạn là người thành phố vỗ đùi cái bép: “Tau nghe bài ni nhiều rồi nhưng chỉ có trong khung cảnh thôn dã như thế này nó mới thấm…”.

Hồi nhỏ mình nghe nói đến thứ nhạc vàng chi đó là loại nhạc cấm kỵ. Nhưng đã cấm thì tất sẽ có người nghe chui. Đầu xóm mình có nhà máy xay xát gạo của chú Khôi. Chú có cái máy cátxét nho nhỏ.

Lâu lâu vài ba người trong xóm tụ tập lại để nghe nhạc vàng. Mà mỗi lần nghe như rứa là chú Khôi phải nổ máy xay xát gạo lên kẻo lỡ ai đi ngoài đường nghe thấy đang mở nhạc thì khổ… Mà nghe lui nghe tới có hai cái băng và mấy bài hát nên mình cũng bập bõm ít lời: “Ai đang đi, trên đường đê, tai lắng nghe muôn câu hò đê mê. Vô đây em, dù trời khuya anh nhớ đưa em về…”.

Mình chỉ biết nhạc hay, dễ hát theo nên hỏi mấy người lớn: “Răng nghe nhạc mà ai cũng sợ sợ rứa?”. Chú Túy nạt: “Mi con nít biết cái chi, lần sau hỏi nữa tau đuổi ra khỏi đây…”.

Xóm quê mình hồi trước sống thiệt chan hòa. Ví như nhà ai có con heo tự nhiên lơ ăn phải mổ thịt là cả xóm cùng chia phần, mỗi người một ít đến mùa đong lúa, chia sẻ cái xui cho hàng xóm. Mỗi lần có dịp vui, cả xóm họp mặt làm vài chai xị đế.

Ôn Thắng là chủ tịch xã nhưng rất hòa đồng: “Uống rượu mà không hát hò thì uổng. Tui thì tui chỉ thuộc mấy bài hát kháng chiến nhưng mấy chú, mấy o cứ hát tự nhiên; bài chi hay, tình cảm nhẹ nhàng thì hát chớ đừng có ngại…”.

Rứa là đêm nớ xóm mình chơi bolero gần suốt sáng. Mà có đàn điếc chi mô, chỉ mấy cái muỗng gõ leng keng mà bài mô bài nấy vô ngọt dễ sợ.

Mình nhớ nhất đoạn chú Dũng hát: “Theo năm tháng hoài mong – Thư gởi đi mấy lần – Đợi hồi âm chưa thấy – Anh ơi nhớ rằng đây – Còn có em đêm ngày – Hằng thương nhớ vơi đầy…” mà o Thẻo mắt ngân ngấn nước, hát nhẩm theo chồng như nhớ về cái thời hẹn hò đã xa.

Hèn chi nhiều người nói: “nghe dạc mà dớ dau!” (nghe nhạc nhớ nhau) là ri đây…

Sao chưa thấy hồi âm (Châu Kỳ - Trương Minh Dũng. Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Sao chưa thấy hồi âm (Châu Kỳ – Trương Minh Dung. Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

sao-chua-thay-hoi-am--1--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Hồi trước thanh niên ở làng muốn đi gò gái thì phải lận lưng dăm ba bài bolero để giao lưu. Eng mô khô khan quá thì cũng cất lên được đôi ba câu kiểu: “Tôi với nàng hai đứa nguyện yêu nhau, tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu”.

Rứa mới có chuyện có eng đi gò không nói năng được chi cả, chỉ ngồi uống nước chè rồi dịp dịp (nhịp nhịp) chân mần đôi ba khúc bolero rứa mà em cũng xuôi lòng mới hay…

Thì mình đã nói rồi bolero là dạc để dớ dau (nhạc để nhớ nhau) dễ đi vào lòng người, phù hợp quang cảnh của làng quê, nó nói hộ lòng thành bằng những ngôn từ và giai điệu đơn giản nhất…

Nói thiệt, muốn khắc họa chân dung của một làng quê xứ Huế thì phải có nhạc bolero. Ở Huế có câu hay “bolero chợ Nọ”. (Chợ Nọ là một chợ nổi tiếng của làng Dương Nỗ, ven Huế thuộc Phú Vang) ý nói nhạc bolero là nhạc quê mùa.

Nhưng bolero cũng là nhạc của phố thị, những phố thị nghèo và buồn: “Buồn vào hồn không tên – Thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời – Đường phố vắng đêm nao quen một người – Mà yêu thương trót trao nhau trọn lời”.

Nhớ cái hồi cuối năm lớp 12, trong nhà mình chong đèn dầu học bài ôn thi đại học, ngoài xóm mấy thằng bạn đi tán gái về cứ lê thê: “Tuổi em cũng như hoa mới nở – Vạn người thầm mong được đưa đón chân em – Xót xa anh còn trắng tay hoài – Sách đèn nợ chưa dứt, nên lận đận truân chuyên” nghe buồn răng là buồn…

Yêu một mình (Trịnh Lâm Ngân). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Yêu một mình (Trịnh Lâm Ngân). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

yeu-mot-minh--1--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com yeu-mot-minh--2--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com yeu-mot-minh--3--trinh-lam-ngan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Hàng xóm mình có bác Chiu, nông dân thứ thiệt nhưng mê nhạc bolero như điếu đổ. Ngày mùa dẫn trâu đạp lúa không cần “tắc, ri, hò” mà cứ hát toàn nhạc bolero từ “Trăng rụng xuống cầu” đến “Em gái miền quê cuộc đời trong trắng” mà trâu cứ đi ngon ơ thiệt lạ…

Có lần mình về làng ngồi nhậu với mấy thằng bạn trong xóm rồi xin hát một bài nhạc Trịnh.

Nghe xong có thằng nói: “Tau không nói là bài mi hát không hay nhưng nó không hợp với cuộc nhậu ni! Không hợp với tụi tau, phải hát như ri nì: “Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng, ngày nao súng phải lạnh lùng. Nắng hạ vàng rưng rưng mây trắng. Ôi mây xóa tóc nghiêng nghiêng. Xin đa tạ người em bé bỏng mặn mà, người em bé bỏng thật thà. Nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai. Lời ai ru gió hiu hiu buồn…”.

Tiếng hát nghe não nề trong tiếng ghita bập bùng và cả tiếng gõ muỗng lanh canh hòa nhịp nhưng mà đúng là bài hát quá hợp với cuộc nhậu. Vừa nghe hát vừa tợp một ly rượu gạo nhấm nháp với món trìa xào khế chua mới thấy thấm làm sao…

[footer]

Giã từ (Tô Thanh Tùng – Băn Vi): Vĩnh biệt nhạc sỹ Băn Vi (1949-2004)

Trong nỗ lực để làm sáng tỏ nhạc phẩm “Giã từ” liên quan đến hai nhạc sỹ Tô Thanh Tùng và Băn Vi mà [dongnhacxua.com] đã đề cập ở hai bài viết của Đinh Thu HiềnNgữ Yên, chúng tôi đã may mắn có được bản nhạc “Giã từ” do nhà Minh Phát xuất bản vào năm 1973 (trên trang AmNhacMienNam.blogspot.com). Theo đó, nhạc sỹ Tô Thanh Tùng đã cẩn thận ghi tên nhạc sỹ Băn Vi lên sáng tác chung này. Như vậy mọi nghi ngờ về việc nhạc sỹ Tô Thanh Tùng có tôn trọng nhạc sỹ quá cố Băn Vi hay không đã được sáng tỏ. Cũng giống như trường hợp bản Buồn của Y Vân, có lẽ sau năm 1975, việc xuất bản và lưu hàng nhạc không được quy củ như ngày xưa nên mới nảy sinh nhiều tình huống hiểu lầm đáng tiếc.

Cũng qua bài viết này này, [dongnhacxua.com] xin gởi lời cầu chúc mong linh hồn của nhạc sỹ Băn Vi – Huỳnh Văn Bi về nơi chốn yên bình và cũng gởi lời chúc sức khỏe đến nhạc sỹ Tô Thanh Tùng.

gia-tu--0--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.com gia-tu--1--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.comgia-tu--2--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.comgia-tu--3--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

[footer]

Tô Thanh Tùng và “thương hiệu bolero”

(Tô Thanh Tùng là một trong số ít các nhạc sỹ đã thành danh trước năm 1975, tiếp tục ở lại và sáng tác tại Việt Nam. Hiện ông cũng đã ở ngưỡng “thất thập cổ lai hy” và đang vui hưởng tuổi già ở Bình Dương. [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến bạn yêu nhạc xưa bài viết của nhà văn Đinh Thu Hiền đăng trên báo điện tử Giáo Dục).

Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Nhím. Photo: GiaoDuc.edu.vn
Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Nhím. Photo: GiaoDuc.edu.vn

Bất kỳ ai gặp nhạc sĩ Tô Thanh Tùng, tác giả của những ca khúc nổi tiếng Giã từ, Sao em nỡ đành quên, Giăng câu, Tình cây và đất, Hồng Ngự mang tên em, Tiễn biệt… cũng đều có cảm tình ngay lần đầu tiên. Vẻ mộc mạc, rất Nam Bộ của ông được “đóng dấu” vào trong từng ca khúc. Và cuộc đời thăng trầm của Tô Thanh Tùng cũng được trải nghiệm trong từng lời ca, giống như lời trong ca khúc Giã từ “Tuổi đời chân đơn côi/ gót mòn đại lộ buồn/ Đèn đêm bóng mờ nhạt nhòa…”.

Gắn với “thương hiệu bolero”
Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng sinh năm Giáp Thân (1944) tại huyện Hồng Ngự – tỉnh Đồng Tháp. Đam mê ca hát từ nhỏ và vì yêu cảnh sông nước quê mình nên ông đã tự mày mò sáng tác. Khởi đầu trong các sáng tác của ông là dòng nhạc trữ tình – bolero. Bản nhạc đầu tiên ký tên Tô Thanh Tùng là Hồng Ngự mang tên em (1963).
 
Những sáng tác của Tô Thanh Tùng là nhiều cuộc tình xâu chuỗi lại. Ông yêu nhiều và được nhiều cô gái hâm mộ. Dù hết lòng với tình yêu, nhưng cho đến tận bây giờ, đã ở cái tuổi 67, ông vẫn còn lang thang đi tìm một tình yêu đích thực cho mình.
 
Tác phẩm Sao em nỡ đành quên cũng là một trong những đứa con của tình yêu như vậy. Năm 1965, Tô Thanh Tùng rời quê nhà Đồng Tháp lên Sài Gòn học Trường Luật. Kỳ nghỉ hè năm thứ nhất về Hồng Ngự, ông gặp lại cô gái chung xóm tên Tuyết. Trong buổi gặp ấy, Tuyết khi đó mới 17 tuổi đã thố lộ tình yêu với chàng sinh viên đa tài này. Nhưng vì đang còn đi học, chưa muốn ràng buộc gì nên Tô Thanh Tùng không dám nhận mối tình trong sáng ấy. Đêm về, trong sự day dứt, ông đã viết Sao em nỡ đành quêntặng cho Tuyết mà mở đầu là một lời trách móc rất con gái: “Sao em nỡ đành quên bao lời tha thiết êm đềm/ Sao em nỡ đành quên chuyện tình đẹp như giấc mơ…”.
 
Ca khúc bolero Giã từ cũng thế. Ông kể: “Năm 1970, tôi cùng một nhóm sinh viên Văn Khoa hay vào một quán cà phê tại Đa Kao (quận 1) bởi quán này có một người con gái đẹp tên Diễm ngồi thu ngân. Tôi biết Diễm để mắt tới tôi bởi lúc ấy, tôi có sáng tác bài Mắt Diễm buồn cho ca sĩ Elvis Phương hát được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, những ngày vui của tôi với Diễm khá ngắn ngủi, khi nàng ngoảnh mặt quay lưng cũng là lúc tôi đau khổ. Nhiều đêm dài lang thang dưới phố rồi đêm về tôi viết nên ca khúc Giã từ…”. Năm 1971, Tô Thanh Tùng tình cờ quen một cô ca sĩ miệt vườn tên Thu Vân có giọng hát rất hay, anh liền mời cô này từ Sa Đéc về Sài Gòn thu âm bài Giã từ để gửi cho đài phát thanh. Thế nhưng, nhạc sĩ Lê Dinh (Trưởng phòng Văn nghệ Đài Phát thanh Sài Gòn) lại từ chối phát vì quy định lúc đó tất cả các ca sĩ được xuất hiện trên sóng phát thanh đều phải đạt tiêu chuẩn là nổi tiếng. Trong khi đó Thu Vân chỉ là một ca sĩ dưới miệt vườn, không có tiếng tăm. Nhưng khi nghe qua băng cassette, nhạc sĩ Lê Dinh đồng ý cho phát một lần vào sáng chủ nhật, nếu dư luận tốt thì sẽ phát tiếp. Không ngờ với phong cách bolero tuyệt vời cộng hưởng cùng giọng hát da diết của Thu Vân, Giã từ đã làm lay động hàng triệu trái tim của thính giả yêu âm nhạc. Nhiều người đã bật khóc khi nghe bản nhạc này trong đêm vắng. Cô ca sĩ miệt vườn này cũng nổi tiếng từ đó, hiện cô đang định cư ở nước ngoài.
 
Không “đóng khung” mình
Dù rất thành công với dòng nhạc bolero nhưng nhạc sĩ Tô Thanh Tùng không muốn “đóng khung” mình ở một thể loại. Những năm 90, khi chương trình Mưa bụi làm mưa làm gió trên thị trường âm nhạc lúc bấy giờ thì Tô Thanh Tùng lại một lần nữa khiến nhiều người ngạc nhiên khi trình làng ca khúc Giăng câu hết sức dân dã, khác với dòng nhạc bolero do Đình Văn và Tài Linh trình bày. Giăng câu mang âm hưởng rặt dân ca Nam Bộ, được giới bình dân đặc biệt yêu thích. Ca từ trong Giăng câu cũng hết sức dễ hiểu: “Em hỏi anh đêm nay đi dâu/ Anh nói rằng anh đi giăng câu/ Anh đi giăng câu trên chiếc xuồng câu/ Anh có cây sào anh chống ào ào, chống ào ào…”. Ca sĩ Bảo Yến, một trong những ca sĩ rất yêu thích dòng nhạc bolero của Tô Thanh Tùng đã gọi ông là người phổ thơ tuyệt vời với các bài Người hàng xóm của thi sĩ Nguyễn Bính, Chùa Hương thiếu em của nhà thơ – nhà báo Dương Trọng Dật.
 
Tô Thanh Tùng sống rất giản dị và chất phác. Bốn năm qua, Tô Thanh Tùng về thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mua đất làm vườn, vui thú điền viên. Tính ông hiền lành, không màu mè, khách sáo, luôn cười sảng khoái đúng kiểu nông dân Nam Bộ. Có lần xuống thăm, trong buổi tiệc rượu lai rai, ông cầm đàn chơi vài bản. Ông hát Giăng câu réo rắt như mình đang ở vùng Đồng Tháp Mười chống sào đi câu cá; hát Sao em nỡ đành quên thì ngậm ngùi, man mác; Giã từthì da diết, ám ảnh. Và đến Tình cây và đất thì vô cùng trong sáng, thánh thiện. Trong các đám cưới, nhiều ca sĩ thường chọn Tình cây và đất để chúc phúc cho cô dâu chú rể vì “Trời se duyên nên khiến anh gặp em/ Cho lứa đôi kết thành mộng ước của ngày xanh/ Rồi mai đây anh là đất em là cây/ Vĩnh phúc cho ai biết rằng, từ đó mùa xuân vĩnh hằng…”. Với giai điệu bolero, các bài hát của Tô Thanh Tùng thường đem lại cảm giác buồn và đôi chút mất mát, ngậm ngùi. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng câu kết trong các bài hát của ông đều rất có hậu. Tình yêu dù đã ra đi nhưng vẫn nên giữ lại những điều ngọt ngào về nhau. Ví như trong Giã từ, kết thúc là “Người về trong thương nhớ, người đi nhớ thương người”. Còn trong Tiễn biệt thì “Chúc em phương đó có nhiều tương lai, với bao mong ước đong đầy trong tay”. Mới đây, Tô Thanh Tùng còn trình làng một album Đại Nam huyền sử ca với gần 20 bài hát mới cũng như phổ thơ với ca từ và giai điệu hùng tráng gắn với lịch sử oai hùng của dân tộc: Nhớ ngày giỗ Tổ, Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu CơĐại Nam huyền sử ca… Còn một “gia tài” khoảng 50 ca khúc nữa Tô Thanh Tùng vẫn chưa phát hành, ông cười bảo còn đang chờ những tình yêu mới trong quãng đời còn lại của mình.

[footer]

Bolero và kỷ niệm với nhạc sĩ Trúc Phương

([dongnhacxua.com])Tiếp nối mạch cảm xúc về dòng nhạc bolero. Hôm nay chúng tôi xin được phép đăng lại một bài viết trên báo Tuổi Trẻ về nhạc sỹ Trúc Phương.

Khoảng giữa năm 1985, nhạc sĩ Trúc Phương – người từng được xem như là “ông hoàng” của dòng nhạc bolero – được nhận vào công tác tại Hội Văn nghệ Cửu Long và được cấp một căn phòng tại số 6 Hưng Ðạo Vương, thị xã Vĩnh Long để ở. Trúc Phương có dáng người cao, lưng hơi tôm. Anh bị cận thị, lãng tai và mắc bệnh suyễn nặng. Anh có thói quen ăn mặc rất chỉnh tề, thích ăn ngọt và không uống rượu. Sau khi chia tay vợ, đã có mấy phụ nữ thoáng qua cuộc đời anh… Mỗi khi quen với chị nào, anh thường tặng nhạc do anh mới sáng tác cho mỗi chị. Hà, vợ tôi, là liên lạc viên rất tích cực cho những cuộc tình chóng vánh này.

Có một kỷ niệm tôi nhớ mãi là vào năm 1988, lúc này Trúc Phương đang sống ở Sài Gòn, tôi đang theo học Trường đại học Mỹ thuật. Ngoài giờ học, tôi cùng một số bạn bè đi làm thêm về mỹ thuật cho nhà hàng Ðại Dương (nằm trên đường Kỳ Ðồng, gần nhà thờ Chúa Cứu Thế, Q.3) do thầu khoán Chín Củi lãnh xây dựng. Anh Chín Củi gốc là dân Trà Vinh, quen thân với anh Trúc Phương, đã cưu mang anh trong thời gian này.

Gần chỗ công trình đang xây dựng có một quán cơm bụi giá rẻ như bèo. Hằng ngày, chúng tôi thường cùng ra ăn cơm ở đó. Hôm đó nhằm chiều thứ bảy cuối tuần, anh Chín Củi dẫn cả bọn tôi ra quán cơm bụi này để bồi dưỡng …cơm bình dân và lai rai rượu thuốc. Anh Trúc Phương dù không uống rượu nhưng cũng ngồi chung với chúng tôi. Cuộc vui kéo dài nửa chừng, trời bắt đầu mưa tầm tã. Bất chợt có hai người hành khất, một cụt chân, một mù hai mắt đội mưa bước vào! Cả hai – một đàn guitar thùng, một hát bài Mưa nửa đêm.

Ảnh bìa nhạc: QuanNhacVang.com

 

Ảnh bìa nhạc: Bolero.vn

Lúc đó ánh mắt của anh Trúc Phương tối sầm lại. Anh lẩm bẩm: “Nhạc của mình biến thành nhạc ăn mày rồi!”.

Thấy vậy, anh Chín Củi đứng dậy, kéo tay hai người hành khất kia, miệng nói:

– Lại đây hai chú em, ngồi xuống cùng ăn cơm và lai rai với chúng tôi cho vui.

Khi cả hai cùng ngồi xuống, bất chợt Trúc Phương buột miệng:

– Hai chú mày hát nhạc của ai, biết không?

Một người nhanh nhảu trả lời:

– Dạ biết, nhạc Trúc Phương đó!

Trúc Phương cười buồn, mắt ngân ngấn nước:

– Trúc Phương chính là anh, chính tác giả đây!

Hai người ăn mày sửng sốt trong giây phút, rồi người cụt chân chợt quỳ sụp xuống, hai tay nâng cây đàn lên ngang mày, miệng nói:

– Ôi, em xin bái kiến sư phụ. Em hát nhạc của sư phụ, mãi đến hôm nay mới được diện kiến sư phụ. Xin sư phụ chỉ giáo cho em!

Trúc Phương cầm lấy cây đàn:

– Ðể anh hát tặng mấy chú em bài hát này nhé!

Tôi muốn hỏi có phải vì đời chưa trọn vòng tay/ Có phải vì tâm tư giấu kín trang thư còn đây/ Nên những khi mưa nửa đêm/ Làm xao xuyến giấc ngủ chưa đến tìm… Anh hát say sưa giữa hè phố Sài Gòn, hát tặng những người hành khất trong một quán cơm nghèo! Những người lao động có mặt trong buổi chiều mưa hôm đó ngồi lặng lẽ rồi lần lượt đến vây quanh anh. Cô bé con chủ quán cơm xúc động, giơ tay dụi mắt giấu lệ! Hôm ấy, Trúc Phương hát như một lời than đau đớn…

Ấy vậy mà đã 16 năm trôi qua, kể từ ngày anh qua đời, 21-9-1996.

Tôi ghi lại những dòng này để thay nén hương tưởng nhớ hương hồn anh, một nhạc sĩ đã để lại cho đời những bài nhạc bolero đi sâu vào lòng người như: Mưa nửa đêm, Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Ðò chiều, Tàu đêm năm cũ, Hai chuyến tàu đêm…; và những bài hát sáng tác sau 1975: Về chín dòng sông hò hẹn, Về An Quãng Hữu, Hoa sách… (mà trong đó nhan đề ca khúc Về chín dòng sông hò hẹn của anh được chọn làm tên cho chương trình hội diễn văn nghệ quần chúng hằng năm của các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long hiện nay).

TÍN ÐỨC (hội viên Hội Văn nghệ Vĩnh Long)

[footer]