Nhẫn Cỏ Cho Em (Vinh Sử)

Trong dòng nhạc ủy mị đặc trưng của nhạc sỹ Vinh Sử, bản “Nhẫn cỏ cho em” để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ.

Nguồn: https://amnhacmiennam.blogspot.com/2013/05/nhan-co-cho-em-vinh-su.html

Phân Tích Bản Nhạc “Nhẫn Cỏ Cho Em” của Nhạc Sĩ Vinh Sử

“Nhẫn Cỏ Cho Em” là một trong những ca khúc tiêu biểu của nhạc sĩ Vinh Sử, người được mệnh danh là “Vua nhạc sến” với những sáng tác đi sâu vào lòng người bởi giai điệu mộc mạc và ca từ dung dị, gần gũi. Bản nhạc này, giống như nhiều tác phẩm khác của ông, thấm đẫm chất tự sự, kể về một câu chuyện tình yêu đơn sơ nhưng đầy tình nghĩa.

Bối Cảnh Sáng Tác và Phong Cách

Vinh Sử nổi tiếng với việc sáng tác các ca khúc lấy cảm hứng từ cuộc sống đời thường, từ những con người bình dị và những mối tình chân thành, đôi khi mang chút bi lụy nhưng luôn đong đầy cảm xúc. “Nhẫn Cỏ Cho Em” ra đời trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam giai đoạn trước năm 1975, khi dòng nhạc bolero, nhạc trữ tình phổ biến rộng rãi và được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Ca khúc này mang đậm phong cách bolero truyền thống với nhịp điệu chậm rãi, đều đặn, tạo cảm giác lắng đọng và dễ đi vào lòng người.

Cấu Trúc và Giai Điệu

“Nhẫn Cỏ Cho Em” thường được trình bày ở nhịp 4/4, đặc trưng của bolero, với giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Cấu trúc bài hát thường gồm các phần:

  • Phần dạo đầu (intro): Thường sử dụng các nhạc cụ như guitar thùng, guitar điện, đôi khi có thêm tiếng sáo hoặc kèn saxophone để tạo không khí u hoài, man mác.
  • Phần lời chính (verse): Giai điệu được phát triển theo lối kể chuyện, từ tốn và tự sự. Các nốt nhạc thường không quá phức tạp, dễ hát và dễ nhớ.
  • Điệp khúc (chorus): Đây là phần cao trào về cảm xúc, nơi giai điệu trở nên sâu lắng và da diết hơn, truyền tải trọn vẹn thông điệp của bài hát.
  • Giang tấu (interlude): Thường là một đoạn nhạc ngắn, lặp lại một phần giai điệu của bài hát hoặc phát triển thêm, tạo điểm nhấn và cho phép ca sĩ có khoảng nghỉ.
  • Kết thúc (outro): Giai điệu dần lắng xuống, khép lại câu chuyện tình.

Giai điệu của “Nhẫn Cỏ Cho Em” mang một nỗi buồn man mác, một sự hoài niệm về tình yêu đã qua hoặc một tình yêu chân thành nhưng chất chứa những gian truân. Tuy nhiên, nỗi buồn đó không bi lụy mà mang tính chất trữ tình, gợi sự đồng cảm.

Ca Từ và Nội Dung

Điểm mạnh lớn nhất của “Nhẫn Cỏ Cho Em” nằm ở ca từ mộc mạc, giản dị nhưng vô cùng ý nghĩa và giàu hình ảnh. Bài hát kể về một câu chuyện tình nghèo khó nhưng lãng mạn, nơi chàng trai không có vật chất sang trọng để tặng cho người mình yêu, mà chỉ có thể dành tặng một chiếc nhẫn làm từ cỏ, tượng trưng cho:

  • Sự chân thành và tấm lòng son sắt: Chiếc nhẫn cỏ không giá trị về vật chất nhưng lại chứa đựng tình yêu nguyên sơ, không vụ lợi.
  • Sự đơn sơ, mộc mạc: Phản ánh cuộc sống giản dị, chân chất của những người lao động nghèo.
  • Niềm hy vọng và lời hứa hẹn: Chiếc nhẫn cỏ như một lời thề nguyền, một lời hứa thủy chung dù cuộc sống còn nhiều khó khăn.
  • Nỗi buồn và sự cảm thông: Ca từ cũng phảng phất nỗi niềm của chàng trai khi không thể mang lại cuộc sống sung túc cho người mình yêu, nhưng vẫn mong nàng hiểu và thông cảm.

Những câu hát như: “Anh nghèo đâu có tiền mua nhẫn cưới / Chiếc nhẫn cỏ kết bằng tình yêu anh” hay “Em ơi dù tình mình nghèo khó / Nhưng anh mong em hiểu lòng anh” đã chạm đến trái tim của nhiều người bởi sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh và tình cảm của nhân vật.

Giá Trị Nghệ Thuật và Tầm Ảnh Hưởng

“Nhẫn Cỏ Cho Em” không chỉ là một ca khúc bolero đơn thuần mà còn là một biểu tượng của tình yêu chân thành, vượt qua vật chất. Bài hát đã góp phần định hình phong cách “nhạc sến” của Vinh Sử – một dòng nhạc không cầu kỳ về kỹ thuật nhưng lại rất thành công trong việc chạm đến cảm xúc sâu thẳm của người nghe.

Ca khúc này đã được rất nhiều ca sĩ thể hiện qua nhiều thế hệ, từ những danh ca gạo cội đến các giọng ca trẻ, và vẫn giữ được sức hút mạnh mẽ cho đến tận ngày nay. Sức sống lâu bền của “Nhẫn Cỏ Cho Em” cho thấy giá trị của một tình yêu đích thực, không bị chi phối bởi vật chất, mà chỉ đơn thuần là sự gắn kết từ tâm hồn đến tâm hồn.

Về Hình Ảnh “Chiếc Nhẫn Cỏ”

Hình ảnh “chiếc nhẫn cỏ” trong bài hát cùng tên của nhạc sĩ Vinh Sử là một điểm nhấn cực kỳ đắt giá, không chỉ là một chi tiết lãng mạn mà còn là một biểu tượng đa tầng ý nghĩa, thể hiện trọn vẹn tinh thần và thông điệp của ca khúc. Hãy cùng phân tích sâu hơn về hình ảnh này:

1. Biểu Tượng Của Tình Yêu Chân Thành, Vô Tư

Chiếc nhẫn cỏ đối lập hoàn toàn với những chiếc nhẫn vàng, kim cương đắt giá. Nó không mang bất kỳ giá trị vật chất nào, nhưng lại chứa đựng một ý nghĩa tinh thần vô cùng lớn lao:

  • Sự Nguyên Sơ và Thuần Khiết: Cỏ là thứ cây quen thuộc, mọc dại khắp nơi, tượng trưng cho sự giản dị, mộc mạc và chân chất. Chiếc nhẫn làm từ cỏ đại diện cho một tình yêu chưa bị vẩn đục bởi những toan tính vật chất, một tình yêu xuất phát từ trái tim thuần khiết nhất.
  • Tình Yêu Không Vụ Lợi: Trong bối cảnh xã hội mà vật chất đôi khi chi phối các mối quan hệ, chiếc nhẫn cỏ khẳng định một tình yêu không đòi hỏi, không đặt nặng chuyện tiền bạc, địa vị. Đây là tình yêu “cho đi” một cách vô tư, chỉ mong muốn sự gắn kết tâm hồn.
  • Lời Thề Nguyện Bình Dị: Dù không phải kim loại quý, chiếc nhẫn cỏ vẫn là một “vật đính ước”. Nó là lời hứa hẹn về sự gắn bó, thủy chung, một cam kết giản dị nhưng sâu sắc giữa hai trái tim.

2. Sự Đồng Cảm Với Số Phận Nghèo Khó

Hình ảnh chiếc nhẫn cỏ gắn liền với hoàn cảnh của chàng trai trong bài hát – một người nghèo không có khả năng mua sắm những món quà giá trị. Điều này tạo nên sự đồng cảm sâu sắc với rất nhiều người nghe, đặc biệt là những ai đã và đang trải qua cuộc sống thiếu thốn:

  • Phản Ánh Thực Tế Xã Hội: Bài hát phác họa một phần hiện thực của những con người bình dân, lao động, những mối tình chớm nở trong điều kiện kinh tế khó khăn. Chiếc nhẫn cỏ trở thành biểu tượng cho tình yêu nở rộ giữa bộn bề cuộc sống.
  • Nỗi Niềm của Người Trai Nghèo: Chiếc nhẫn cỏ cũng chứa đựng một nỗi niềm, một chút tủi thân của chàng trai khi không thể mang lại cuộc sống đầy đủ vật chất cho người mình yêu. Tuy nhiên, nỗi niềm đó được xoa dịu bởi tình yêu chân thành và hy vọng được người yêu thấu hiểu. Nó thể hiện sự tự trọng và cũng là lời giải bày, mong được thông cảm.

3. Sức Mạnh của Tình Cảm Vượt Lên Vật Chất

Đây là thông điệp mạnh mẽ nhất mà hình ảnh chiếc nhẫn cỏ muốn truyền tải:

  • Tình Yêu Chấp Nhận và Hy Sinh: Chiếc nhẫn cỏ là minh chứng cho việc tình yêu có thể chấp nhận những thiếu thốn về vật chất, sẵn sàng đối mặt với khó khăn. Nó đòi hỏi sự thấu hiểu, sẻ chia và hy sinh từ cả hai phía.
  • Giá Trị Thực Sự Của Hạnh Phúc: Bài hát ngụ ý rằng hạnh phúc đích thực không nằm ở sự giàu sang, phú quý mà ở sự đồng điệu của tâm hồn, ở tấm lòng yêu thương và sự gắn bó chân thành. Chiếc nhẫn cỏ, tuy giản dị, lại mang giá trị của một tình yêu bền chặt, vượt thời gian. Nó khẳng định rằng tình yêu có thể biến những điều nhỏ bé, tầm thường nhất trở nên quý giá và ý nghĩa.

4. Tính Biểu Tượng Nghệ Thuật

Về mặt nghệ thuật, việc sử dụng hình ảnh chiếc nhẫn cỏ là một sự lựa chọn khéo léo của nhạc sĩ Vinh Sử:

  • Gợi Hình, Dễ Nhớ: Hình ảnh chiếc nhẫn cỏ rất cụ thể, dễ hình dung và ghi nhớ. Nó tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí người nghe, trở thành “thương hiệu” của bài hát.
  • Đơn Giản Nhưng Sâu Sắc: Giống như phong cách sáng tác của Vinh Sử, hình ảnh này không cầu kỳ nhưng lại chứa đựng chiều sâu ý nghĩa, phù hợp với tinh thần nhạc bolero – gần gũi, mộc mạc nhưng giàu cảm xúc.

Tóm lại, “chiếc nhẫn cỏ” trong ca khúc của Vinh Sử không chỉ là một vật kỷ niệm mà là một tuyên ngôn về tình yêu, một minh chứng cho thấy sự chân thành và tấm lòng son sắt có thể vượt lên trên mọi giới hạn vật chất. Nó là biểu tượng của một thứ tình cảm giản dị nhưng kiên cường, đủ sức chống chọi với những thử thách của cuộc sống.

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Chuyến Xe Lam Chiều (Vinh Sử – Cô Phượng)

Những chuyến xe lam mang đầy hoài niệm cũng góp một phần vào dòng nhạc xưa. Một thời là phương tiện vận chuyển phổ biến ở Sài Gòn và miền Nam, xe lam đã chứng kiến nhiều chuyện hợp tan vui buồn của một thời tao loạn. Trong tâm tình đó [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Chuyến xe lam chiều” của Vinh Sử – Cô Phượng và một bài viết của nhà văn Lê Văn Nghĩa đăng trên Thanh Niên ra ngày hôm nay 10.04.2016.

Chuyến xe lam chiều (Vinh Sử - Cô Phượng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Chuyến xe lam chiều (Vinh Sử – Cô Phượng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

chuyen-xe-lam-chieu--1--vinh-su--co-phuong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com chuyen-xe-lam-chieu--2--vinh-su--co-phuong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com chuyen-xe-lam-chieu--3--vinh-su--co-phuong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

Nhạc sĩ Vinh Sử: ‘Bao nhiêu bản nhạc, bấy nhiêu nhân tình!’

Trong những ngày cuối năm 2015 và đầu năm 2016, được biết sức khỏe của nhạc sỹ Vinh Sử không tốt, [dongnhacxua.com] xin thay mặt anh chị em nghệ sỹ và người yêu nhạc gởi đến ông lời chúc sức khỏe và mong ông bớt phải gánh chịu đớn đau do căn bệnh ung thư quái ác hành hạ.

nhan-co-cho-em--0--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--1--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--2--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

NHẠC SỸ VINH SỬ: ‘BAO NHIÊU BẢN NHẠC, BẤY NHIÊU NHÂN TÌNH’
(Nguồn: tác giả Thúy An – Dân Việt viết trên MotTheGioi.vn ngày 2016-01-06)

“Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia”.
Có lẽ vì bản tính ông đào hoa, cũng có lẽ vì trái tim nghệ sĩ trong ông dễ rung cảm trước nhiều bóng hồng nên những người phụ nữ đã cùng ông nên duyên cũng lặng lẽ rời xa. Nhạc của ông vì thế buồn càng chất chứa, sầu càng đong đầy.

Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn
Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn

Nhân dịp được vinh danh trong chương trình Sol Vàng vào ngày 9.1 tới trên VTV9, nhạc sĩ Vinh Sử đã phân trần về thói trăng hoa với bốn bà vợ và những câu chuyện về cuộc sống lúc thăng, lúc trầm của mình.

Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn
Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn

Vì mê nhạc nên đời lênh đênh

Với danh xưng “vua nhạc sến”, nhạc sĩ Vinh Sử không chỉ mang nhạc bolero đi sâu vào lòng công chúng mà ông còn là bậc thầy trong việc tạo nên tên tuổi hàng loạt ca sĩ hàng đầu làng nhạc Việt. Bí quyết của ông là gì?

Tôi không có bí quyết gì đặc biệt. Dòng nhạc này vốn đã trữ tình, ngọt ngào nên dễ đi vào lòng người, đặc biệt là giới bình dân. Đỉnh cao của dòng nhạc này tại Việt Nam là vào những năm 1960 – 1970, với rất nhiều ca khúc được thu âm và phổ biến dưới dạng băng cassette cũng như đĩa nhựa như Nhẫn cỏ cho em, Nỗi buồn hoa phượng…
Đầu thế kỉ 21, dòng nhạc này hồi sinh khi hàng loạt các ca sĩ hải ngoại về nước. Bên cạnh đó, các sao trẻ như Đàm Vĩnh Hưng, Lệ Quyên cũng chọn bolero để hát, để ra album. Đây cũng chính là cơ hội khiến bolero phá cách khi có chất của pop, của nhạc sàn, nhạc điện tử… khiến kéo khán giả trẻ lại gần.

Theo ông, lý do gì khiến bolero sau nhiều năm lép vế trước nhạc Âu Mỹ, giờ đã trở lại mạnh mẽ trong đời sống âm nhạc hiện đại như một minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của dòng nhạc bị cho là ủy mị này?

Bolero được yêu thích chủ yếu nhờ ca từ đơn giản và dân dã, giai điệu dễ nhớ, dễ bắt nhịp và dễ hát, và đặc biệt là sự đa dạng trong đề tài, phần lớn là những câu chuyện về tình yêu và cuộc sống, rất ý nghĩa nhưng cũng rất buồn.

Được mệnh danh là “vua nhạc sến”, âm nhạc Vinh Sử gắn bó với dòng nhạc quê hương mang tính đại chúng. Với hơn 60 năm sáng tác, tác phẩm của ông bây giờ là cả một “kho” đồ sộ với cả trăm bài đều là những bản nhạc thất tình. Vì như thế mà người ta càng tò mò về cuộc sống trước đây của ông…

Thời hoàng kim của tôi là những Nhẫn cỏ cho em, Gõ cửa trái tim, Người phu kéo mo cau… Đó là trước năm 1975, với tiền tác quyền từ các ca khúc này đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu.
Thế nhưng, tuổi thơ tôi không trải hoa hồng. Cha mẹ là những người lao động bình dân, làm phu đồn điền cao su cho Pháp, lưu lạc vào miền Đông Nam Bộ trong thập niên 1940. Sau này gia đình tôi về Sài Gòn sống bằng nghề làm bún và tôi được sinh ra trong một xóm lao động nghèo.

Nhưng nghe nói, gia đình ông có thu nhập khá tốt khi chuyển sang làm bún?

Đúng rồi. Khi chuyển sang làm bún, ba tôi vì ham làm mà rất giàu, giàu nhất xóm nhưng ông lại rất tiết kiệm, bóp mồm bóp miệng, không dám ăn thứ mình thích, không dám mua cái mình muốn. Đến cả ra đường khát nước cũng không dám mua uống mà chịu khát chờ về nhà.
Tính ba cũng rất kỳ. Con cái mới 9, 10 tuổi đã cho đi học nghề để kiếm tiền. Nhà có 4 anh chị em nhưng chỉ có tôi được ăn học.
Thế nhưng cũng lạ, những người theo nghề ba giờ đều giàu, chỉ có tôi mê nhạc nên đời lênh đênh.

Gia đình không có ai theo nghệ thuật, mọi người lại đi làm kiếm tiền từ sớm, ông có thể kể về kỷ niệm khiến ông trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng?

Tôi là người rất ương ngạnh, không nghe lời ba mẹ, chỉ làm những gì mình thích. Dù được cho ăn học đàng hoàng nhưng 15 tuổi tôi lại bỏ học để theo đuổi sở thích sáng tác nhạc.
Đây cũng là khoảng thời gian tôi chịu nhiều ánh nhìn hoài nghi từ chính gia đình và mọi người xung quanh. Vì ba tôi mù chữ nên không ai tin tôi. Đến nỗi khi nổi tiếng rồi mọi người vẫn nghĩ tôi đi ăn cắp nhạc của người ta.

Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn
Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn

Bản nhạc đầu tiên bị ném vào sọt rác

Ông không theo học trường lớp về âm nhạc, làm thế nào để ông có thể sáng tác được?

Âm nhạc như có sẵn trong máu tôi từ kiếp trước rồi. Tôi không được học nhạc trước đấy nhưng sau khi quyết định đến với nhạc, tôi đi học và mua nhiều loại sách hướng dẫn cách sáng tác. Sau một năm, tôi bắt đầu sáng tác và tất cả các tác phẩm đều nói về sự chia ly, mất mát của tình yêu đôi lứa.
Để có những tác phẩm như mọi người biết, tôi đã trải qua nhiều chuyện mà nghĩ đến đã thấy xấu hổ. Sáng tác là một chuyện, được ra mắt hay không là chuyện khác.
Trước khi sáng tác, tôi từng trộm tiền của ba má để chơi bời với giới nghệ sĩ nổi tiếng thời đó, nhất là những người làm phát thanh ở Sài Gòn. Tôi còn to gan bán cả căn nhà ba má cho được khoảng 300 – 400 ngàn để ăn uống, chơi bời.
Đến khi hết tiền, tôi giấu người thân và đến xin sống với một người bạn đạp xíc lô trong một con hẻm nhỏ. Cuối cũng ba má cũng phát hiện ra và ông bà tức giận đến mức gọi công an tới bắt tôi.
Nhưng tôi vẫn không từ bỏ đam mê. Còn nhớ lúc đó, Chế Linh đã ghi lại cho tôi bài Yêu người chung vách. Tối đến tôi thường mang ra lề đường, nơi bán hàng quán nhiều và mở lớn tiếng, mọi người khen hay. Thấy vậy tôi mang đi bán cho một nhà phát hành nhạc ở đường Nguyễn Trung Trực nhưng người chủ chỉ kêu về đợi.
Vài ngày sau tôi trở lại thì thấy cuốn băng của mình trong sọt rác. Tôi đã không dám cúi xuống lượm vì xấu hổ mà phải dùng đôi dép đang đi, kẹp lại mang giấu.

Yêu người chung vách có thể coi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, ông đã làm cách nào trong khi nó đã bị ném trong sọt rác?

Tôi đã chịu nhiều tổn thương và bị coi thường, có lẽ đó cũng là thử thách vì may mắn là, không lâu sau đó, tôi gặp được trưởng ban văn nghệ Đài phát thanh Sài Gòn và bản nhạc đầu tay này của tôi được phát miễn phí suốt một tuần trên đài lúc đó.
Ngay lập tức, tôi nhận được rất nhiều hoa của khán giả gửi về và khen tặng. Cả người quăng bản nhạc của tôi vào sọt rác là ông Minh Phát cũng tìm đến và ra giá nhất quyết đòi mua lại để phát hành.
Vì từng bị lừa cả căn nhà nên tôi dè chừng mọi người hơn. Sợ người ta ăn gian kê thêm số đĩa của mình nên khi đi in băng tôi cứ lén lút để ý.

Vậy là từ đây, âm nhạc đã mang đến cho ông cả danh tiếng và tiền bạc?

Thời hoàng kim nhất của tôi là trước năm 1975. Số tiền tác quyền từ các ca khúc đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu. Tôi cảm ơn trời vì đã cho tôi cứ chắp bút bài nào là nổi tiếng bài đó. Những bản nhạc sáng tác thời mới tập tành làm nhạc sĩ như Nhẫn cỏ cho em, Người phu kéo mo cau, Hai bàn tay trắng… cũng được mọi người đón nhận. Tôi bỗng trở nên nổi tiếng và được gọi là “vua nhạc sến”.
Nhưng, lúc đó tôi nghĩ, có tiền thì phải tiêu, phải ăn nhậu và tôi sa đà vào những cuộc ăn chơi, mỗi đêm chi cả chục lượng vàng ở những nhà hàng sang trọng bậc nhất Sài Gòn.

Bên cạnh những lời đồn ông tiêu tiền như nước, ông còn nổi tiếng là đào hoa vì yêu nhiều…

Tôi thích yêu người đẹp để khi thất tình dễ có cảm hứng sáng tác. Tôi không yêu người xấu. Tôi có bao nhiêu bài nhạc thì có bấy nhiêu người tình, cả viết cho vợ nữa. Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia.
Tôi từng bị đồn một lúc ở với nhiều bà. Tôi có phải thần thánh đâu mà làm được vậy.

Ngoài âm nhạc và người tình, ông còn được nhắc đến nhiều vì có đến bốn bà vợ. Ông thấy mình là người may mắn?

Tôi có bốn bà vợ các con đủ trai gái nhưng ở tuổi xế chiều và đang bị ung thư đại tràng, tôi sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Thỉnh thoảng cô vợ thứ ba có tới thăm. Sau khi bỏ tôi, cô ấy lấy chồng khác nhưng chồng cô ấy mất rồi.
Không phải con cái không quan tâm mà do tôi thích ở một mình. Chúng gọi điện hỏi thăm hoài còn khiến tôi bực mình. Tôi cũng già rồi nên sống tay trắng như giờ cũng được, vì chết rồi đâu có mang được theo.

Nghe nói sức khỏe của ông có tiến triển hơn nhiều và ông cũng có nhiều bản nhạc muốn ra mắt?

Nói thế này cũng không sai, nhờ bệnh tật, sức khỏe yếu mà tôi ở nhà và viết được nhiều hơn. Hiện tôi có hơn 200 bản nhạc chưa ra mắt.
Tôi rất vui khi biết sắp tới chương trình Sol Vàng tới đây tặng riêng tôi một đêm nhạc mang tên Vinh Sử – Gõ cửa trái tim. Chương trình này ngoài những ca khúc quen thuộc, tôi cũng gửi đến khán giả một số sáng tác mới. Hi vọng danh ca Giao Linh, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Đàm Vĩnh Hưng, Ngô Khả Tú, Tuấn Vỹ, Mai Quốc Huy… sẽ truyền tải hết được những tâm tình của tôi đến với khán giả.

Cảm ơn ông về những chia sẻ!

[footer]

Xóa Tên Người Tình (Vinh Sử)

Lang thang trên mạng, [dongnhacxua.com] gặp được một bộ ảnh đẹp về nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ngôi giáo đường với tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Xuôi theo dòng nhạc xưa, chúng tôi tìm được bản nhạc lấy bối cảnh một Vương cung thánh đường mà theo thiển ý của chúng tôi là nhà thờ Đức Bà, một biểu tượng của Sài Gòn ‘Hòn Ngọc Viễn Đông’. [dongnhacxua.com] xin hân hạnh giới thiệu bản “Xóa Tên Người Tình” của nhạc sỹ Vinh Sử, một chuyện tình buồn của chàng trai ngoại đạo với một người con gái có đạo.   

LỜI NHẠC ‘XÓA TÊN NGƯỜI TÌNH’ (VINH SỬ)

Em còn nhớ không em Chúa nhật của hôm nào
Ngang nhà Thánh Vương Cung vô tình biết quen nhau
Em ngày đó thơ ngây hay mặc áo hoa hòe
Đi dự lễ Misa trong buổi sáng tinh sương.

Anh ngày mới yêu em tuy đời sống không đạo
Nhưng thường thích theo em đi nhà thánh xem kinh.
Trong buổi lễ Misa anh nào biết kinh cầu
Anh chỉ biết theo em khi làm dấu Amen.

        Ân tình mới hôm qua bây giờ bỗng chia xa
        Em tự muốn phong ba cho tình anh gục chết
        Khăn hồng với thư xanh bây giờ xóa tên anh
        Em làm sóng vây quanh xô lầu cát tim anh.

Đông về sáng hôm nay chúa nhật phố mưa buồn
Anh từng bước lang thang qua nhà thánh vương cung.
Vô tình biết tin vui em làm lễ tơ hồng
Anh hàng ghế sau lưng nghe mặn ướt trên môi.

Đưa người bước sang sông nghe ngập sóng trong lòng
Con nguyện Chúa thương con cho họ sống trăm năm.
Con tự thú ngôi cao yêu nàng mới tin đạo
Nay nàng đã quên con, con còn thiết tha chi.

BỐN VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG Ở VIỆT NAM 
(Nguồn: vnExpress.net)

Trong khoảng 6.000 nhà thờ trên cả nước, Việt Nam vinh dự sở hữu 4 vương cung tháng đường thuộc 4 tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Quảng Trị và TP HCM.

Nhà thờ Thiên chúa giáo luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với bất kỳ ai. Bởi vậy mà không ít tour du lịch, nhà thờ là điểm dừng chân không thể bỏ qua trong hành trình khám phá điểm đến. Trong đó phải kể đến các vương cung thánh đường, danh hiệu được Giáo hoàng tôn vinh đặc biệt dành cho những nhà thờ có kiến trúc to lớn, cổ kính, mang ý nghĩa lịch sử và tâm linh quan trọng.

1. Nhà thờ Kẻ Sở

Vương cung thánh đường Sở Kiện hay nhà thờ Kẻ Sở tọa lạc ở thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Dù là một tiểu vương cung thánh đường mới được sắc phong năm 2010, nhưng nhà thờ Kẻ Sở thật sự là điểm đến thú vị với kiến trúc đồ sộ và phong cách Đông – Tây hội tụ.

Ảnh: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Ảnh: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Nhà thờ được xây dựng theo kiến trúc vòm cao vút cổ điển phương Tây từ trần đến cửa. Trên tường có các ô cửa kính màu vẽ tranh các vị thánh hoặc các sự kiện trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, khu vực cung thánh và bàn thờ được làm bằng gỗ chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng theo phong cách truyền thống Việt Nam. Do xây dựng trên một cái đầm nên toàn bộ nền cũng được lót gỗ lim chống sụt lún.

Nhiều du khách đến đây tỏ ra thích thú với ngọn tháp cao treo 4 quả chuông mang các sắc âm đố – mi – son – đồ. Quả nặng nhất gần 2,5 tấn được người dân ở đây gọi là chuông “Bồng”. Vào ngày lễ, nơi đây phải huy động đến cả chục thanh niên trai tráng đến kéo chuông. Tiếng chuông vang lên như một bản đàn vang vọng từng thôn làng, ngõ xóm nơi đây.

2. Nhà thờ Phú Nhai

Nhà thờ Phú Nhai là vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm Phú Nhai thuộc Giáo phận Bùi Chu, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, Nam Định.

Đây được mệnh danh là nhà thờ lớn nhất Đông Dương. Ảnh: chudu
Đây được mệnh danh là nhà thờ lớn nhất Đông Dương. Ảnh: chudu

Khi mới xây dựng nhà thờ có phong cách kiến trúc Gothic đậm dấu ấn Tây Ban Nha. Đến nay nhà thờ được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic Pháp. Điều đặc biệt là nhà thờ Phú Nhai có hai tháp chuông. Bốn quả chuông đặt ở đây đều được đúc từ Pháp chuyển sang với trọng lượng từ 100 kg đến 2 tấn. Xung quanh nhà thờ có các phù điêu thể hiện 14 Đàng Thánh Giá.

Sau khi tham quan nhà thờ được mệnh danh lớn nhất Đông Dương, du khách chiêm ngưỡng được toàn cảnh của huyện Xuân Trường khi đứng trên ngọn tháp cao của nhà thờ Phú Nhai.

3. Nhà thờ La Vang

Nhà thờ La Vang nằm ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1961, nhà thờ được tôn phong là vương cung thánh đường. Ban đầu đây là một ngôi nhà thờ bằng ngói, được thiết kế theo kiến trúc cổ Việt Nam nhưng mặt tiền vẫn mang hơi thở châu Âu hiện đại với hai tầng mái và hai cánh thánh giá. Tháp chuông hình vuông hai tầng nổi bật lên giữa cảnh đồi.

Vẻ đẹp cổ kính của nhà thờ La Vang. Ảnh: wiki
Vẻ đẹp cổ kính của nhà thờ La Vang. Ảnh: wiki

Nhà thờ La Vang đã được nhiều lần trùng tu và xây mới, nhưng khi đến đây du khách vẫn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của phong cách kiến trúc Việt qua hình dáng những mái ngói thân quen, kiểu dáng ngôi nhà ở, ngôi đình Việt. Thêm vào đó, du khách cũng sẽ bị lôi cuốn bởi quần thể tượng gồm 15 pho tượng diễn tả 15 điều màu nhiệm.

4. Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn

Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn đã không còn xa lạ với mỗi người dân TP HCM và khách du lịch trên cả nước. Nhưng ít ai biết rằng, đây là một trong 4 vương cung thánh đường của cả nước.

Nhà thờ Đức Bà là điểm đến yêu thích của nhiều du khách. Ảnh: hochiminhcity.gov.vn
Nhà thờ Đức Bà là điểm đến yêu thích của nhiều du khách. Ảnh: hochiminhcity.gov.vn

Điểm nhấn của nhà thờ là bức tường được xây bằng gạch xuất xứ từ Marseille (Pháp) từ cuối thế kỷ 19 nhưng đến nay vẫn giữ nguyên màu sắc hồng tươi, không bám bụi rêu. Bởi vậy dù không hiểu hết ý nghĩa văn hóa và lịch sử của nhà thờ Đức Bà nhưng khi đến Sài Gòn, ai cũng muốn có một bức hình với công trình độc đáo ấy.

Ngay trước mái vòm nhà thờ là chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Trải qua hơn 130 năm nhưng chiếc đồng hồ vẫn hoạt động khá chính xác và được lên giây mỗi tuần. Trong 6 quả chuông mang âm đô – rê – mi – son – la – si, chuông Son nặng gần 8,8 tấn là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới. Nằm giữa trung tâm thành phố năng động nhất cả nước, nhà thờ Đức Bà mang đến một nốt trầm xao xuyến níu chân du khách bốn phương.

Kim Anh

DẤU ẤN 138 NĂM NHÀ THỜ ĐỨC BÀ VỚI SÀI GÒN 
(Nguồn: vnExpress.net)

Vương cung thánh đường Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn, người dân còn gọi là Nhà thờ Đức Bà, được xây dựng vào ngày 7/10/1877. Giám mục Isodore Comlombert là người đặt viên gạch đầu tiên xây nhà thờ tại khu đất cao nhất của Sài Gòn khi ấy. Phương án thiết kế của KTS Bourard, chuyên gia về công trình tôn giáo, được chọn để thi công và hoàn thành sau 3 năm xây dựng. Hầu hết nguyên vật liệu từ gạch, ngói, sắt, thép đến ốc vít, kính màu trang trí đều được chuyển từ Pháp sang nhằm đảm bảo mô phỏng đúng nguyên tác nhà thờ Notre Dame của Paris.  Đây là ảnh nhà thờ Đức Bà lúc mới hoàn thành, năm 1882 chưa có tháp chuông. Hai tháp chuông nhọn cao hơn 57 m được bổ sung vào năm 1895, trong một thời gian dài trở thành điểm cao nhất thành phố. Những du khách đến Sài Gòn bằng đường biển, từ xa đều trông thấy nóc nhà thờ trước tiên.
Vương cung thánh đường Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn, người dân còn gọi là Nhà thờ Đức Bà, được xây dựng vào ngày 7/10/1877. Giám mục Isodore Comlombert là người đặt viên gạch đầu tiên xây nhà thờ tại khu đất cao nhất của Sài Gòn khi ấy. Phương án thiết kế của KTS Bourard, chuyên gia về công trình tôn giáo, được chọn để thi công và hoàn thành sau 3 năm xây dựng. Hầu hết nguyên vật liệu từ gạch, ngói, sắt, thép đến ốc vít, kính màu trang trí đều được chuyển từ Pháp sang nhằm đảm bảo mô phỏng đúng nguyên tác nhà thờ Notre Dame của Paris.
Đây là ảnh nhà thờ Đức Bà lúc mới hoàn thành, năm 1882 chưa có tháp chuông. Hai tháp chuông nhọn cao hơn 57 m được bổ sung vào năm 1895, trong một thời gian dài trở thành điểm cao nhất thành phố. Những du khách đến Sài Gòn bằng đường biển, từ xa đều trông thấy nóc nhà thờ trước tiên.
Nhà thờ dài 93 m, rộng 35 m và cao 75 m được xây dựng trên vùng đất rộng. Ludovic Crespin chụp mặt sau nhà thờ Đức Bà những năm 1920 với những phương tiện đặc trưng thời bấy giờ như xe ngựa kéo, xe kéo và ôtô của người Pháp có mặt ở Sài Gòn.
Nhà thờ dài 93 m, rộng 35 m và cao 75 m được xây dựng trên vùng đất rộng. Ludovic Crespin chụp mặt sau nhà thờ Đức Bà những năm 1920 với những phương tiện đặc trưng thời bấy giờ như xe ngựa kéo, xe kéo và ôtô của người Pháp có mặt ở Sài Gòn.
Nhà thờ Đức Bà năm 1922, tọa lạc giữa quảng trường rộng lớn, rợp bóng cây, là nơi diễn ra những hoạt động lớn như diễu binh, mít tinh thời bấy giờ. Ảnh: L' Indochine Coloniale Sommaire.
Nhà thờ Đức Bà năm 1922, tọa lạc giữa quảng trường rộng lớn, rợp bóng cây, là nơi diễn ra những hoạt động lớn như diễu binh, mít tinh thời bấy giờ. Ảnh: L’ Indochine Coloniale Sommaire.
Bức ảnh nhà thờ nhìn từ đường Tự Do, nay là Đồng Khởi, năm 1956. Lúc này mặt đồng hồ nhà thờ còn mang số La Mã. Đến những năm 60 đồng hồ được thay mới, mấy con số là những nét gạch giống hiện tại. Năm 1959, trung tâm của công viên trước nhà thờ được xây dựng thêm bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình hay còn gọi là Nữ vương Hòa Bình do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện. Ảnh: Life.
Bức ảnh nhà thờ nhìn từ đường Tự Do, nay là Đồng Khởi, năm 1956. Lúc này mặt đồng hồ nhà thờ còn mang số La Mã. Đến những năm 60 đồng hồ được thay mới, mấy con số là những nét gạch giống hiện tại. Năm 1959, trung tâm của công viên trước nhà thờ được xây dựng thêm bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình hay còn gọi là Nữ vương Hòa Bình do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện. Ảnh: Life.
Nhà thờ Đức Bà bị sét đánh gãy một cây thánh giá vào mùa mưa năm 1964. Kích thước của cây thánh giá trên hai tháp chuông cao 3,5 m, chiều ngang 2 m, nặng 600 kg. Do đó việc gắn hai cây thánh giá lên tháp chuông là rất kỳ công. Tháp chuông bị sét đánh được sửa chữa vào năm 1965.
Nhà thờ Đức Bà bị sét đánh gãy một cây thánh giá vào mùa mưa năm 1964. Kích thước của cây thánh giá trên hai tháp chuông cao 3,5 m, chiều ngang 2 m, nặng 600 kg. Do đó việc gắn hai cây thánh giá lên tháp chuông là rất kỳ công. Tháp chuông bị sét đánh được sửa chữa vào năm 1965.
Sài Gòn năm 1967, góc đường Tự Do nay là Đồng Khởi rợp bóng cây xanh. Người Sài Gòn xưa luôn hoài niệm hình ảnh những tà áo dài tỏa xuống phố sau giờ đi lễ nhà thờ.
Sài Gòn năm 1967, góc đường Tự Do nay là Đồng Khởi rợp bóng cây xanh. Người Sài Gòn xưa luôn hoài niệm hình ảnh những tà áo dài tỏa xuống phố sau giờ đi lễ nhà thờ.
Wayne Trucke chụp cảnh taxi, ôtô đa dạng chủng loại, mẫu mã đậu san sát trước nhà thờ năm 1969. Thời điểm này Sài Gòn được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông với hệ thống đường sá, nhà cao tầng, nơi vui chơi giải trí phong phú, mở rộng. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc nhà thờ bên trên nên vẫn đứng vững chãi dù chịu áp lực lưu lượng xe cộ lưu thông nườm nượp xung quanh.
Wayne Trucke chụp cảnh taxi, ôtô đa dạng chủng loại, mẫu mã đậu san sát trước nhà thờ năm 1969. Thời điểm này Sài Gòn được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông với hệ thống đường sá, nhà cao tầng, nơi vui chơi giải trí phong phú, mở rộng. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc nhà thờ bên trên nên vẫn đứng vững chãi dù chịu áp lực lưu lượng xe cộ lưu thông nườm nượp xung quanh.
Những người lớn tuổi ở Sài Gòn còn nhớ hình ảnh nhà thờ gắn với bức tượng Trương Vĩnh Ký, tức Petrus Ký, học giả người Việt thời Pháp thuộc. Ông có nhiều công lao trong việc phát triển chữ quốc ngữ trên sách báo vào giai đoạn chữ quốc ngữ mới thịnh hành. Bức tượng nằm ở góc phải phía sau Nhà thờ Đức Bà, được chụp năm 1969.
Những người lớn tuổi ở Sài Gòn còn nhớ hình ảnh nhà thờ gắn với bức tượng Trương Vĩnh Ký, tức Petrus Ký, học giả người Việt thời Pháp thuộc. Ông có nhiều công lao trong việc phát triển chữ quốc ngữ trên sách báo vào giai đoạn chữ quốc ngữ mới thịnh hành. Bức tượng nằm ở góc phải phía sau Nhà thờ Đức Bà, được chụp năm 1969.
Công trình nhìn từ xa, hài hòa với không gian cây xanh xung quanh và đẹp từ mọi góc nhìn. Nhà thờ là một công trình đặc biệt về quy hoạch ở trung tâm thành phố, không có hàng rào hay khuôn viên bao quanh, tạo một không gian mở nên dễ dàng cho mọi người dân tiếp cận. Từ xa, màu gạch sáng của nhà thờ nổi bật giữa nền trời. Màu sắc ấy đến từ loại gạch đặc biệt được đặt riêng, chuyển từ Pháp sang, có màu sắc hồng tươi để trần, không tô trát, không bám bụi rêu theo thời gian.
Công trình nhìn từ xa, hài hòa với không gian cây xanh xung quanh và đẹp từ mọi góc nhìn. Nhà thờ là một công trình đặc biệt về quy hoạch ở trung tâm thành phố, không có hàng rào hay khuôn viên bao quanh, tạo một không gian mở nên dễ dàng cho mọi người dân tiếp cận. Từ xa, màu gạch sáng của nhà thờ nổi bật giữa nền trời. Màu sắc ấy đến từ loại gạch đặc biệt được đặt riêng, chuyển từ Pháp sang, có màu sắc hồng tươi để trần, không tô trát, không bám bụi rêu theo thời gian.
Sài Gòn năm 1971 được chụp bởi Richard E. Wood. Công trình kiến trúc tọa lạc ngay giữa trung tâm thành phố ở số 1 Quảng trường Công xã Paris, đứng sừng sững qua bão táp lịch sử, chính trị hơn một thế kỷ qua.
Sài Gòn năm 1971 được chụp bởi Richard E. Wood. Công trình kiến trúc tọa lạc ngay giữa trung tâm thành phố ở số 1 Quảng trường Công xã Paris, đứng sừng sững qua bão táp lịch sử, chính trị hơn một thế kỷ qua.
Hai anh bộ đội những ngày đầu thống nhất đất nước, trước Nhà thờ Đức Bà tháng 5/1975.
Hai anh bộ đội những ngày đầu thống nhất đất nước, trước Nhà thờ Đức Bà tháng 5/1975.
Hơn 40 năm sau ngày thống nhất, nhà thờ trở thành công trình biểu tượng, điểm đến ưa thích của khách du lịch và người dân, những cặp đôi chụp ảnh cưới. Sau gần 140 năm tồn tại cùng những biến động lịch sử, chính trị, nhà thờ vẫn chứng tỏ vị trí là một tuyệt tác không thể thay thế trong kiến trúc đô thị Sài Gòn. Sắp tới công trình sẽ được trùng tu một số hạng mục như 2 ngọn tháp, kính, cột và xóa sạch vết bẩn ở các bức tường bị viết lên bằng bút xóa. Ảnh: Diego Delso.
Hơn 40 năm sau ngày thống nhất, nhà thờ trở thành công trình biểu tượng, điểm đến ưa thích của khách du lịch và người dân, những cặp đôi chụp ảnh cưới. Sau gần 140 năm tồn tại cùng những biến động lịch sử, chính trị, nhà thờ vẫn chứng tỏ vị trí là một tuyệt tác không thể thay thế trong kiến trúc đô thị Sài Gòn. Sắp tới công trình sẽ được trùng tu một số hạng mục như 2 ngọn tháp, kính, cột và xóa sạch vết bẩn ở các bức tường bị viết lên bằng bút xóa. Ảnh: Diego Delso.

[footer]