Đồi Thông Hai Mộ (Hồng Vân)

Trong một bài viết về bản “Người ấy” của nhạc sỹ Trần Quý, tức Hồng Vân, chúng tôi có nhắc đến sáng tác có lẽ là nổi tiếng nhất của ông: “Đồi thông hai mộ”. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, chúng tôi xin giới thiệu bản nhạc này.
[dongnhacxua.com] không có nguồn tư liệu chính xác về thực hư của câu chuyện tình buồn “Đồi thông hai mộ” nhưng nếu đúng như truyền thuyết kể lại thì chúng tôi cầu mong linh hồn của hai nhân vật sẽ được an lạc nơi chốn vĩnh hằng “như lời xưa thề ước”!

Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

doi-thong-hai-mo--1--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com doi-thong-hai-mo--2--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ CÂU CHUYỆN “ĐỒI THÔNG HAI MỘ”
(Nguồn: wikipedia.org)

Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.
Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.

Thắng cảnh Đồi thông hai mộ thường được gắn với những câu chuyện ly kì, tuy nhiên có một câu chuyện được cho là trung thực nhất kể rằng: chàng tên Vũ Minh Tâm, nàng tên Lê Thị Thảo. Chàng quê ở Gò Công, Tiền Giang, sinh trong một gia đình đại điền chủ giàu có, là sinh viên Trường Võ bị Đà Lạt. Nàng:

        “… năm ấy khi tuổi vừa đôi chín
        Tâm hồn đang trắng trong
        Như chim non khi ăn còn chưa no
        Khi co còn chưa ấm”

Họ gặp nhau tâm đầu ý hợp, yêu nhau tha thiết và thề non hẹn biển. Tốt nghiệp, chàng về xin cha mẹ trầu cau cưới hỏi… nhưng bị gia đình phản đối kịch liệt vì gia đình nàng không “môn đăng hộ đối” và bắt đi cưới người con gái mà chàng không hề yêu. Chàng đã xin chuyển đến một vùng tuyến đầu lửa đạn để tìm quên… Và rồi, nàng nhận được tin báo tử của chàng từ chiến trường. Đau khổ tột cùng:

        “nàng buồn thơ thẩn chẳng còn ngồi
        trang điểm qua màu phấn
        Để phai úa đến tàn cả hương sắc
        tháng ngày luôn héo hon”

Sau đó, nàng tìm đến khu đồi thông bên bờ hồ Sương Mai (sau tình sử này được gọi là hồ Than Thở), nơi hai người xưa kia từng hò hẹn, tự vẫn chết vào ngày 15 tháng 3 năm 1956. Thuận theo nguyện vọng, gia đình đã chôn cất nàng ngay dưới khu đồi thông. Nhưng thật ra người ta đã nhầm khi báo tử, chàng không tử trận và đang trở về thăm nàng. Hay tin nàng chết, Tâm tìm đến mộ nàng vật vã khóc than, sau đó cũng tự tử chết theo để giữ trọn lời thề[6]. Trước khi chết, chàng để lại bức thư tuyệt mệnh với mong ước được yên nghỉ bên cạnh mộ nàng để hai người mãi mãi được gần nhau. Và:

        “… mộ chàng đã được ở cạnh nàng
        Như lời xưa thề ước
        Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc
        dưới mộ sâu đất khô
        Qua bao năm rêu xanh phủ che kín…”

Hai ngôi mộ trên đồi thông.
Hai ngôi mộ trên đồi thông.

Tuy nhiên, sau năm 1975, do tuổi cao sức yếu, không thể thường xuyên lên thăm mộ con, cha mẹ chàng đã cho bốc mộ anh đưa về quê. Dù hài cốt chàng đã được dời đi nhưng cảm thương mối tình của hai người, người thân của nàng vẫn để ngôi mộ đôi. Và sau này ngôi mộ được tôn tạo khang trang lại, trở thành điểm tham quan du lịch độc đáo như hiện nay.

Nhân dịp Festival hoa Đà Lạt 2012, Ban tổ chức đã cho trồng toàn hoa tím chung quanh khu mộ.

[footer]

Sắc Hoa Màu Nhớ (Nguyễn Văn Đông)

Tiếp nối dòng nhạc Nguyễn Văn Đông, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu một sáng tác gắn liền với tên tuổi của nhà nhạc sỹ: bản “Sắc hoa màu nhớ”.

Sắc hoa màu nhớ (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: http://vnchord.com
Sắc hoa màu nhớ (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: http://vnchord.com
sac-hoa-mau-nho--1--nguyen-van-dong--vnchord.com--dongnhacxua.com
sac-hoa-mau-nho--2--nguyen-van-dong--vnchord.com--dongnhacxua.com

ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA “SẮC HOA MÀU NHỚ”
(Nguồn: lời kể của chính nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông trong bài phỏng vấn của nhà báo Hoàng Lan Chi)

Nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông thời trẻ. Ảnh: CoThomMagazine.com
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông thời trẻ. Ảnh: CoThomMagazine.com

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

[footer]

Phiên Gác Đêm Xuân (Nguyễn Văn Đông)

Trong không khí Xuân Bính Thân 2016, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu một nhạc phẩm nổi tiếng của nhạc sỹ lão thành Nguyễn Văn Đông: “Phiên Gác Đêm Xuân”. Ra đời trong bối cảnh chiến trang nên chắc chắn “Phiên Gác Đêm Xuân” có vương màu khói lửa. Thế nhưng nếu nghe kỹ, người yêu nhạc dễ nhận ra tâm sự của người lính thời chiến cũng không khác gì mấy so với tâm trạng của những đứa con xa nhà thời bình vào mỗi dịp xuân về. Nhân dịp đầu xuân, [dongnhacxua.com] xin kính chúc nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông dồi dào sức khỏe và vui hưởng tuổi già cùng con cháu và hàng triệu người mến mộ các sáng tác của ông qua nhiều thế hệ!

Phiên gác đêm xuân (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Phiên gác đêm xuân (Nguyễn Văn Đông). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

phien-gac-dem-xuan--1--nguyen-van-dong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com phien-gac-dem-xuan--2--nguyen-van-dong--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA “PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN”
(Nguồn: lời kể của chính nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông trong bài phỏng vấn của nhà báo Hoàng Lan Chi)

Nguyễn Văn Đông (1974).
Nguyễn Văn Đông (1974).

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh  lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:

“Đón giao thừa một phiên gác đêm
      chào Xuân đến súng xa vang rền.
      Xác hoa tàn rơi trên báng súng
      ngỡ rằng pháo tung bay
      ngờ đâu hoa lá rơi…”

Rồi mơ ước rất đời thường:

“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây máinhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”

Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.

[footer]

Anh Còn Nợ Em: Cố Thi Sỹ Phạm Thành Tài & Nhạc Sỹ Anh Bằng

“Anh còn nợ em” là một trong những sáng tác cuối cùng của nhạc sỹ Anh Bằng. Bản này lần đầu tiên được giới thiệu ở hải ngoại vài năm trước và đã tạo ra một tiếng vang lớn. Sau đó hầu hết các ca sỹ theo đuổi dòng nhạc xưa đều ít nhất một lần thử giọng và giới thiệu “Anh còn nợ em” đến với rộng rãi công chúng yêu nhạc. Thế nhưng không phải người yêu nhạc nào cũng biết đằng sau giai điệu mượt mà là một bài thơ rất mộc mạc và giàu cảm xúc của cố thi sỹ Phạm Thành Tài, một nhà thơ xứ Trầm Hương (Khánh Hòa – Phú Yên). [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại bài viết của nhà thơ Mai Quang để quý vị xa gần có thêm tư liệu.

"Anh còn nợ em" với thủ bút của nhạc sỹ Anh Bằng tặng cho bà quả phụ Phạm Thành Tài.
“Anh còn nợ em” với thủ bút của nhạc sỹ Anh Bằng tặng cho bà quả phụ Phạm Thành Tài.
Bài thơ "Anh còn nợ em"
Bài thơ “Anh còn nợ em”. Nguồn: CoThomMagazine
Núi Nhạn (thành phố Tuy Hòa), địa danh đã xuất hiện trong bài thơ "Anh còn nợ em".
Núi Nhạn (thành phố Tuy Hòa), địa danh đã xuất hiện trong bài thơ “Anh còn nợ em”.

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ QUÁ CỐ PHẠM THÀNH TÀI & TẬP THƠ ‘TÌNH EM CÒN ĐÓ’
(Nguồn: thi sỹ Mai Quang đăng trên TranThiNguyetMai.wordpress.com)

Phạm Thành Tài (1932-1997), quê hương ông, Quận Ninh Hòa thuộc miền Trung Việt, thùy dương cát trắng, xứ Trầm Hương (tỉnh Khánh Hòa). Ông từng là giảng sư đại học tại Đalat. Định cư tại Hoa kỳ 1991. Tốt nghiệp Bác sĩ Đông y/Hoa kỳ OMD 1995.
Làm thơ viết văn từ 1955.
Ngoài các tác phẩm Y học, về Văn học, ông đã để lại 3 tác phẩm: Tình Yêu Em Còn Đó (Thơ); Hương Gây Mùi Nhớ (Thơ); Hoa Đào Năm Ngoái (Tập truyện).
Ông mất tại Nam California ngày 06 tháng 7 năm 1997.

Tình Yêu Em Còn Đó. Tập Thơ. Nhà XB TH. Sông Bé 1990 in 1000 cuốn khổ 12×19. Bìa họa sĩ Đằng Giao. Tựa nhà văn Sơn Nam.
Tình Yêu Em Còn Đó. Tập Thơ. Nhà XB TH. Sông Bé 1990 in 1000 cuốn khổ 12×19. Bìa họa sĩ Đằng Giao. Tựa nhà văn Sơn Nam.

Như tác giả minh định ở trang trong thi tập, đây là: Tập Thơ Tình.
Tình yêu đôi lứa. Tình yêu quê hương. Rải rác có những bài thơ, cảnh vật bên ngoài được phóng rọi (hay qui chiếu?) cảnh lứa đôi (nhân cách hóa) quấn quít dĩ định bên nhau. Ở đó là dòng sông khuya, là cung thuyền, là tiếng khua của nhịp chèo. Là biển, sóng, cánh buồm. Là linh khí Đất Trời – Núi Sông nuôi lớn Giọt Tình.

Người viết đang có trên tay tập Tình Em Còn Đó (một trong hai ấn bản hiếm hoi do gia đình còn lưu giữ, quí tặng). Nhân đây cũng xin phép được gởi lời cám ơn bà quả phụ Phạm Thành Tài (nhũ danh Lê Bảo Chánh) và bà Thúy Liễu (em họ của nhà thơ), đã giúp cho người viết có được một số tư liệu liên quan. Đọc thơ Ông, có vài cảm nhận, nhận xét sau:

-Thi Tập tập trung những bài thơ cực ngắn, 4 câu là đa phần. Mỗi câu cũng thường cũng cực ngắn, 4 chữ, 5 chữ:

Biển giận ai, sóng dữ
Sóng hờn ai, nước đầy
Gió về ru mộng cũ
Chiều nay em ngủ say
.
(Giận Hờn/T.E.C.Đ tr.13)

Và v.v…

Đa số bài thơ trong tập ngắn gọn và cô đọng như vậy.
Người viết có cảm giác, ông rất sở trường về lối thơ dùng ít câu, ít chữ để chuyên chở cảm hứng của mình. Từng cái dấu phẩy (,) dấu chấm (.) ( như những ký âm lặng)… đều đóng một vai trò trong diễn dạt, biểu cảm. Ông rất khéo gói chữ, nêm ý, neo vần một cách tự nhiên (không đẽo gọt). Đó là những câu, những chữ, những dấu đã được cô, chắt tinh tuyền. Bút pháp này gợi lên sự liên tưởng đến nội lực, nội tâm, phong thái và cá tánh của tác giả lúc sinh thời.

– Thể hiện tự nhiên và tài tình trong tổng hợp những mặt chừng như là mâu thuẫn nhau:

.Phóng túng/Chừng mực (hòa lẫn):

Hai đứa bên nhau trong rừng vắng
Gió lá rì rào vây quanh…
Anh nhặt giùm em bên suối vắng
Những sợi thông vàng vương tóc xanh…

Em ơi, cho dẫu tình cách mặt
Chớ có trông hình để bóng xa

Giữa thư yêu, anh tặng em kỷ vật
Một sợi thông vàng vương tóc xanh!…

(Kỷ Vật/T.E.C.Đ.tr.75)

.Cổ kính/ Cách tân (dung hợp):

Mai bỏ anh em về. Sao
Hoa thôi nở. Và áo nữa
Thôi bay. Nắng thôi đỏ… Lửa
Tàn thôi cháy bước xôn xao.

(Em Bỏ Anh/T.E.C.Đ. tr.55)

Vẫn một mình một mình thôi. Em chỉ
Một cánh hoa cô đơn. Một cánh chim
Lìa tổ. Một con đường trăng soi. Bóng lẻ
Một mình mình thôi. Anh hiểu em…

(Anh Hiểu/T.E.C.Đ tr.57)

.Thực/ Ảo (đan xen):

Ngang vườn chợt vắng áo em phơi
Nhớ xao xác lá ngóng mây trời
Mong như dây thép trơ ngoài nắng
Chim sẻ giăng chờ chẳng muốn bay…

(Áo Trắng/T.E.C.Đ. tr.50)

Hoặc:

Em về rồi anh đợi
Hẳn em đâu quên chờ
Xin tóc em một sợi
Thay mây trời, se tơ…

(Xin Em Sợi Tóc//T.E.C.Đ.tr.42)

Và v.v…

-Tuyệt đại đa số những bài thơ trong thi tập, đều có 2 từ “anh” và “em” (Nam và Nữ):

Chiều nay mây mơ mộng
Trôi về phía biển xa
Ước gì anh là sóng
Soi em mấy biển xa…

(Mây/T.E.C.Đ. trang 12)

Còn nhiều, nhiều nữa như vậy!

-Tình Yêu đôi lứa, hình như đâu dâu cũng thấm đẫm và sung mãn trong thơ ông. Ông đã phóng chiếu Tình Yêu ra vạn vật, ra ngoại cảnh, nhân cách hóa như đôi Nam –Nữ đang âu yếm, quấn quít nhau (một ràng buộc dĩ định?) Ví dụ đơn cử ở đây, cảnh Tháp Bà (Ponagar), soi bóng trên dòng Sông Cái, có Cầu Bóng nối qua đôi bờ. Đó là nơi có lẽ đã bao lần ông qua lại, trên quê hương “thùy dương cát trắng” thân thương của mình:

Anh là Tháp, anh nhìn em ngủ
Em là sông, em nằm gối chân anh
Gió Tháp, sông trôi đôi bờ thủ thỉ
Em là Sông Cái, anh Tháp Chàm…

Cầu Bóng đón em- Cánh tay anh đó
Sóng eo thon- vòng nối dôi bờ
Kìa nụ hôn anh hay mặt trời chói đỏ
Nụ hôn thật dài trên dòng chảy như mơ…

(Phát Cảnh/T.E.C.Đ. tr.96).

Phần Kết:

Trích lời Tựa của nhà văn Sơn Nam, mượn làm phần kết:

Người khó tánh có thể yên tâm: Tình yêu lứa đôi trong “Tình Em Còn Đó” đã chan hòa hữu cơ trong tình đất nước, quê hương. Phải chăng đó là tâm sự lớn của một nhà thơ đầy sinh lực….”

Người viết mong được bạn đọc lưu tâm, đón nhận phần Giới thiệu này. Thơ Phạm Thành Tài sẽ góp vài nét đan thanh vào nền thi ca Việt chăng? Mong thay!

[footer]

Hà Nội mùa vắng những cơn mưa (Trương Quý Hải – Bùi Thanh Tuấn)

Mới đó mà đã 20 năm. Những năm 1995. [dongnhacxua.com] còn nhớ như in cái rét đầu đông Hà Nội. Chúng tôi cùng một số anh em nghệ sỹ lang thang trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), rồi kéo về Hồ Tây và cuối cùng là kết thúc ở một quán cóc gần bờ hồ. Với một người sinh ra và lớn lên ở miền Nam nắng ấm như chúng tôi, cảm giác được trải nghiệm cái lạnh của xứ Bắc quả thật là tuyệt vời. Lại càng hạnh phúc hơn khi được cùng các bạn văn nghệ nhâm nhi rượu Làng Vân, đọc bài thơ “Chia tay người Hà Nội” của Bùi Thanh Tuấn và đàn hát say sưa những nhạc phẩm thịnh hành về Hà Nội lúc đó như “Hà Nội đêm trở gió”, “Hoa sữa, v.v. Hôm nay, trong cái lạnh muộn của Sài Gòn, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”.

BÀI THƠ “CHIA TAY NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA BÙI THANH TUẤN
(Nguồn: thivien.net)

Tặng anh Trần Quang Dũng

Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa,
Cái rét đầu đông giật mình bật khóc.
Hoa sữa thôi rơi những chiều tan học,
Cổ Ngư xưa lặng lẽ dấu chân buồn.

Trúc Bạch giận hờn phía cuối hoàng hôn,
Để con nước thả trôi câu lục bát.
Quán cóc liêu xiêu dăm ba tiếng nhạc,
Phía Hồ Tây vọng lại một câu Kiều.

Hà Nội trời buồn nhớ mắt người yêu,
Nhớ góc phố nhớ hàng me kỷ niệm.
Nhớ buổi chia tay mắt đầy hoa tím,
Ngõ hoa giờ hút dấu gót hài xưa.

Hà Nội mùa này nhớ những cơn mưa…

Đêm Hội quán – Đông 1992

Bài thơ này được đăng trên tạp chí Tuổi xanh năm 1992, sau đó đã được nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ nhạc thành bài hát ‘Hà Nội mùa vắng những cơn mưa’.

ĐÔI NÉT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA “HÀ NỘI MÙA VẮNG NHỮNG CƠN MƯA”
(Nguồn: đăng trên chungta.vn ngày 16/06/2014)

Nhà thơ Bùi Thanh Tuấn có cuộc trò chuyện với Chúng ta về nhạc sĩ Trương Quý Hải và những sáng tác của anh.

Trương Quý Hải (trái) và Bùi Thanh Tuấn (phải).
Trương Quý Hải (trái) và Bùi Thanh Tuấn (phải).

– “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”, ca khúc gắn với tên tuổi của anh và nhạc sĩ Trương Quý Hải, đã có tuổi đời 22 năm. Lúc đó, hai người gặp nhau như thế nào?

– Chúng tôi gặp nhau tình cờ vào buổi giao lưu sinh viên giữa hai miền Nam – Bắc diễn ra tại Hội quán sinh viên của trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Lúc đó, đoàn nào có tiết mục gì thì góp vui cái nấy. Tôi là dân Văn nên nghĩ chỉ có làm thơ mới được… lên sân khấu. Tôi bèn lân la làm quen với những người bạn mới, tò mò hỏi họ về Hà Nội và từng người kể tôi nghe. Ngay hôm đó, chỉ trong vòng 15 phút tôi viết liền một mạch bài thơ ngắn bằng các chất liệu góp lại từ lời kể của bạn bè và những hiểu biết ít ỏi về Hà Nội. Tôi lồng ghép vào trong bài thơ một câu chuyện tình lãng mạn hoàn toàn tưởng tượng để gọi tên một Hà Nội mơ hồ mà tôi không dám chắc là nó có giống thủ đô mà tôi chưa bao giờ đến hay không.

Sau khi đọc giao lưu trên sân khấu, nhạc sĩ Trương Quý Hải đến chỗ tôi xin tờ giấy chép bài thơ. Lúc đó tôi chưa biết anh là ai. Ai xin thơ thì tôi thích lắm, thế là tặng luôn. Tối đó mọi người hẹn nhau liên hoan ở nhà nghỉ công đoàn, nơi đoàn Hà Nội trú ngụ. Anh Hải bước vào phòng và tuyên bố vừa sáng tác xong một ca khúc mới lấy câu thơ đầu làm tựa: “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”. Hải tung guitar lên, rải hợp âm chủ mi-thứ và hát. Tôi rất cảm động và sau đó chúng tôi thân nhau.

– Nhiều ý kiến cho rằng “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” là một bài thơ rất hay. Nhưng nếu không có Trương Quý Hải phổ nhạc, đó chỉ là những câu thơ nằm yên trên trang giấy. Anh bình luận sao về ý kiến này?

– Thơ thì phải nằm trên giấy chứ! Chỉ có nhạc mới cất nên âm vang. Câu hỏi này mang tính “khích tướng”, nhưng tôi thích. Nếu không có anh Hải, bài thơ vẫn có đời sống của một bài thơ, tôi nào sợ gì! Ngược lại, nếu không có duyên may gặp gỡ, anh Hải sẽ không có bài nhạc phổ thơ tôi thì vẫn sẽ có những ca khúc rất hay khác (được biết anh Hải là nhạc sĩ rất chịu khó làm lời, ít phổ thơ). Với lại hai anh em chúng tôi không bao giờ tranh luận về điều đó, chỉ cảm thấy hạnh phúc vì hai người đã “ăn ở” và “đẻ” ra được một đứa con chung xinh đẹp. Năm nay nó vừa tròn 22 tuổi rồi.

[footer]

Tâm sự Mộng Cầm

Ngay sau khi đăng bài viết về chuyện tình Mộng Cầm & Hàn Mặc Tử, [dongnhacxua.com] nhận được nhiều phản hồi của quý vị yêu nhạc xưa nói về một bản nhạc khác của nhạc sỹ Trần Thiện Thanh có tựa “Tâm sự Mộng Cầm”. Theo thông tin này, chúng tôi đã tìm ra bản nhạc tưởng chừng đã thất lạc từ rất lâu. Cảm ơn quý ân nhân đã cung cấp thông tin và giới thiệu với bạn yêu nhạc xa gần.

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

tam-su-mong-cam--1--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com tam-su-mong-cam--2--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

GIẢI MÃ “BÍ ẨN” CUỘC TÌNH HÀN MẶC TỬ & MỘNG CẦM
(Nguồn: bài viết của tác giả Lê Văn sâm đăng trên nguoiduatin.vn ngày 27.12.2012)

Trong một lần may mắn được gặp nữ sĩ Mộng Cầm, tác giả bài báo đã được nghe bộc bạch những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm.

Ảnh nữ sỹ Mộng Cầm chụp năm 1990.
Ảnh nữ sỹ Mộng Cầm chụp năm 1990. Ảnh: nguoiduatin.vn

Từng ngâm nga thơ Hàn Mặc Tử, từng nghe chuyện tình của Hàn thi sĩ với Mộng Cầm, rồi từng nghe đi nghe lại ca khúc “Hàn Mặc Tử”của Trần Thiện Thanh, bất ngờ vào mùa hè năm 1997, tôi lại có dịp ngồi cạnh “người đẹp của thi nhân”, nơi một quán cà phê sân vườn, mang tên Mộng Cầm. Quán là một căn nhà lợp tranh, cạnh đại lộ Nguyễn Văn Linh, khu Nam Sài Gòn, xung quanh có nhiều ao bèo thả cá để khách có thể vừa câu cá vừa nhâm nhi cà phê. Chủ quán là đôi vợ chồng bác sỹ Mộng Đào và Phạm Thiên Bê, con gái và con rể của bà Mộng Cầm.

Đây thôn Vĩ Dạ, một vết cứa đâm tim

Người ta chỉ mới được biết về mối tình lãng mạn của Mộng Cầm – Hàn Mặc Tử qua sách báo. Nhưng bên cạnh mối tình đẹp như mơ ấy, còn có một đời thường với rất nhiều bí ẩn. Mộng Cầm- Huỳnh Thị Nghệ, người thiếu nữ trong mộng ngày xưa ấy của Hàn Mặc Tử, trước mặt tôi bây giờ là một cụ bà ở tuổi tám mươi. Tuy vậy, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét kiêu sa. Thốt nhiên bà mở lời: “Vào tuổi này rồi chẳng còn gì để giấu”. Rồi bà kể như từng phân đoạn hồi tưởng, qua hơi thở có khi hụt hẫng, đứt quãng, dường như là những lời sám hối, tiếc thương.

Quê Mộng Cầm ở Phan Thiết, gần lầu Ông Hoàng nhưng thân sinh bà lại ra làm việc tận Nghệ An. Và ngày 17/7/1917, bà được sinh ra ở đó nên mới có tên “cúng cơm” là Huỳnh Thị Nghệ. Thì ra, tên Nghệ là do sinh ở Nghệ An. Sau đó bà được gửi về trọ ở nhà ông cậu ở Phan Thiết học trường Pline Exercices. Mộng Cầm là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu nên bà cũng có “máu thơ văn”. Tên Mộng Cầm xuất hiện từ khi bà làm thơ gửi đăng báo. Qua những vần thơ trên báo, Hàn Mặc Tử đã tìm đến làm quen, bày tỏ tình cảm với bà qua bài Muôn năm sầu thảm, với câu mở đầu “Nghệ hỡi Nghệ”…Bài thơ ấy, bà Mộng Cầm vẫn thuộc nằm lòng từ đó đến nay. Hàn Mặc Tử là tình yêu đầu đời của bà.

Bà nhìn ra bầu trời tím hoàng hôn ngoại ô Sài Gòn hồi tưởng… Một mùa hè, năm xưa, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Phan Thiết thăm Mộng Cầm. Hàn hỏi ở đâu có cảnh đẹp thì đưa anh đi thăm cho biết. Mộng Cầm đã đưa Hàn Mặc Tử lên lầu Ông Hoàng. Đó là một ngọn đồi thấp, nhưng lên đó vào những đêm trăng tỏ, có thể nhìn thấy Mũi Né và thị xã Phan Thiết mờ ảo, lấp lánh đèn hiệu hay đèn ghe chài như những viên kim cương khổng lồ. Nào ngờ, đây lại là lần đi chơi sau cùng của hai người. Hàn Mặc Tử ra Huế, sau đó vào Quy Nhơn, điều trị bệnh phong ở bệnh viện phong Quy Hòa, và mất ở đó .

Tại sao Hàn Mặc Tử lại ra Huế? Bây giờ thì Mộng Cầm nói hết những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm. Đó là Hàn Mặc Tử có mối tình đầu với một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc. Thân sinh của Hoàng Cúc làm quan chức trong Sở Đạc điền ở Quy Nhơn. Sau khi biết Hàn Mặc Tử theo đuổi con gái mình, do không thích văn nhân, thi sĩ nên ông đã tìm cách đưa Hoàng Cúc về Huế. Thế là Hàn Mặc Tử ra Huế tìm và sau đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ này tuyệt hay nhưng Mộng Cầm lại ghét cay, ghét đắng…

Bà trải các câu thơ ra và dằn từng tiếng, khác với các nghệ sĩ ngâm thơ ngọt ngào. Và dằn cho đến câu cuối.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”

Không biết lần này ra Huế, Hàn có tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu như lần trước, hồi cuối năm 1931, khi còn là Phong Trần hay không? Bấy giờ thi sĩ mới 19 tuổi, tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, giữa vòng vây của mật thám Pháp. Do trước đó, từ năm 1930-1931, Hàn đã nổi tiếng với bút hiệu Phong Trần là nhờ lời giới thiệu của cụ Phan. Lúc bấy giờ cụ Phan bị Pháp bắt an trí ở Huế. Cụ lập Mộng Du thi xã với mục đích quy tụ những nhà thơ yêu nước, Hàn Mặc Tử gửi đến thi xã 3 bài thơ yêu nước là Thức khuya, Chùa Hoang và Gái ở chùa (sau in lại trong “Lệ Thanh thi tập”). Mở đầu bài “Thức khuya” có câu: “Non sông bốn mặt ngủ mơ màng/Thức chỉ mình ta dạ chẳng an…” và được cụ Phan rất tán thưởng “…Từ ngày về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế…Ước ao có ngày gặp gỡ”. Cụ đã họa lại và cho đăng báo. Bài họa bài “Thức khuya” mở đầu: “Chợ lợi trường danh tí chẳng màng/Sao ăn không đặng ngủ không an…”

Ngoài Hoàng Cúc và Mộng Cầm ra, Hàn Mặc Tử còn có hai người tình nữa là Mai Đình nữ sĩ và Ngọc Sương, chị gái của thi sĩ Bích Khê. Mối tình của Mai Đình nữ sĩ không sâu đậm, chỉ là “tình văn chương”, còn với Ngọc Sương thì như ngọn gió mát thoảng qua đời Hàn mà thôi (theo Quách Tấn, một người bạn thân thiết của thi sĩ).

“Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu”

Mối tình của Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm chẳng đi đến đâu. Mộng Cầm bộc bạch: Với hai lẽ, một là bà là con nhà phong kiến, cha mẹ luôn cản trở bà lấy một người Công giáo, lại là văn nhân, thi sĩ. Nhưng quan trọng hơn là lúc ấy bà quá thương Hàn Mặc Tử. Theo bà hiểu thì người bị bệnh phong gần đàn bà sẽ rất mau chết. Vì vậy, bà cố tránh để Hàn Mặc Tử mau chóng bình phục, sau đó sẽ liệu lần với cha mẹ. Nhưng tiếc là Hàn không qua khỏi… Bây giờ người đọc thấy những vần thơ hai người viết cho nhau rất thắm thiết, nhưng thật sự cho đến lúc Hàn Mặc Tử mất, giữa Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử không hề có chuyện gần gũi. Thời ấy, mới cầm tay nhau là đã run lắm rồi. Sau này nhớ lại những kỷ niệm với cố nhân, Mộng Cầm có bài thơ “Kỷ niệm Hàn Mặc Tử ở lầu Ông Hoàng”, một bài thơ chưa bao giờ phổ biến, được bà chép tay, nét chữ đã phai màu, trao cho tôi.:

Sương sa trong lúc hoàng hôn

Đường lên dốc đá sáng dần bể xanh

Triều dâng con nước mênh mông

Chuông chùa văng vẳng tiếng lòng xôn xao

Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?

Hồn xưa anh mất cảnh gieo sầu

Mây mù phủ kín vòng bình địa

Căm hờn tháp cũ cuộc bể dâu

Thật cảm động, như một chiều tình cờ được nghe thơ nhạc giao duyên, vì khi bà Mộng Cầm ngâm nga: “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu” thì cô con gái, bác sỹ Mộng Đào mở lớn nhạc bài “Hàn Mặc Tử“.

Sau khi Hàn Mặc Tử mất, Mộng Cầm lập gia đình và sinh được 7 người con. Người bạn đời của bà cũng biết rõ mối quan hệ của bà với Hàn Mặc Tử nhưng vẫn tôn trọng nhà thơ quá cố. Con gái lớn của bà là Mộng Đào, là bác sĩ, đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm trước, Thành phố mới Nam Sài Gòn được khai hoang trên đồng phèn, Cảnh chiều buồn vắng vẻ, khi tiễn chân tôi ra cổng, bà níu tay tôi dặn dò: “Anh coi có bạn bè nhạc sỹ, nhờ phổ bài thơ này ra bài hát dùm tôi”. Ngày 23/7/2007, bà Mộng Cầm qua đời tại số nhà số 300, Trần Hưng Đạo, Phan Thiết. Theo lời trăng trối của bà Mộng Cầm, cô con gái Hồ Mộng Đức đã mai táng bà trên lưng đồi lầu Ông Hoàng. Và lầu Ông Hoàng từ lâu đã đi vào tâm thức bao thế hệ khi nghe những bài hát về mối tình lãng mạn này, như Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm Ca… và cả bài ca vọng cổ Tâm sự Mộng Cầm… Thế mà đến nay tôi vẫn chưa nhờ ai phổ nhạc bài thơ “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?” của bà được.

Lê Văn Sâm

[footer]

Mộng Cầm

Trong một bài viết trước đây, [dongnhacxua.com] đã đề cập đến bản “Hàn Mặc Tử” nổi tiếng của nhạc sỹ Trần Thiện Thanh. Nhắc đến Hàn Mặc Tử và Trần Thiện Thanh, chúng ta không thể nào không nhắc mảnh đất Phan Thiết là quê hương của nhà nhạc sỹ và cũng chính là nơi đã ghi dấu bước chân phiêu bạt của chàng trai trẻ Nguyễn Trọng Trí, tức nhà thơ Hàn Mặc Tử. Tại đây, nhà thơ đã gặp người đẹp Mộng Cầm và giữa hai người đã có một mối tình thơ thật đẹp, để lại nhiều giai thoại trong văn đàn Việt Nam.

Mộng Cầm thời trẻ. Ảnh: nguoiduatin.vn
Mộng Cầm thời trẻ. Ảnh: nguoiduatin.vn

ĐÔI NÉT VỀ CHUYỆN TÌNH MỘNG CẦM – HÀN MẶC TỬ
(Nguồn: Wikipedia)

Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu, vì ảnh hưởng của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.[2] Qua những vần thơ trên báo, Hàn Mạc Tử đã tìm đến làm quen, bày tỏ tình cảm với bà qua bài Muôn năm sầu thảm, với câu mở đầu “Nghệ hỡi Nghệ”. Hàn Mặc Tử là tình yêu đầu đời của bà[4]

Theo các tài liệu của Nguyễn Bá Tín (em ruột Hàn Mặc Tử), của nhà văn Quách Tấn thì Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm quen biết nhau qua thơ văn. Đó là khoảng năm 1934, khi Hàn Mặc Tử rời Quy Nhơn vào Sài Gòn phụ trách trang văn chương cho tờ Trong khuê phòng. Thỉnh thoảng, Hàn Mặc Tử có nhận được những bài thơ ký tên là Mộng Cầm từ Phan Thiết gửi vào. Thư đi tin lại, rồi chàng ra Phan Thiết tìm nàng. Sự thực là Mộng Cầm là cháu gọi thi sĩ Bích Khê bằng cậu, nhân vậy mà sau này mới có tình bạn thắm thiết giữa Bích Khê và Hàn Mặc Tử.[3]

Theo ông Trần Thanh Mại thì: Đôi trai tài gái sắc yêu nhau. Họ hay gặp nhau ở Quy Nhơn và Phan Thiết, hay đưa nhau đi chơi, thăm thú các danh lam thắng cảnh, nhất là Lầu Ông Hoàng… Đùng một cái, Hàn thi sĩ phát hiện mình mắc bệnh phong, chàng tuyệt giao với bằng hữu, kể cả với Mộng Cầm.[5]

Mộng Cầm đã cho rằng chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử “chỉ là mối tình văn thơ, còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới. Cha mẹ đã cho giao thiệp tự do, chúng tôi phải giữ gìn cho xứng đáng…”. Bà xác nhận có đi chơi ở Lầu Ông Hoàng với Hàn Mặc Tử rồi gặp mưa, hai người vào nấp mưa ở một nghĩa địa nhưng không cho rằng do vậy mà Hàn mắc bệnh phong.[5]

Bà kể thêm rằng: Về đến Phan Thiết, tôi đưa Hàn Mặc Tử đến trường Hồng Đức, cậu Bích Khê tôi dạy ở đó. Ở đó suốt buổi sáng chủ nhật, chiều anh đáp chuyến tàu suốt về Sài Gòn. Sau ngày ấy, cậu tôi bảo tôi ra dạy ở trường Hồng Đức, do vậy mà Hàn Mặc Tử ra vào thường. Thứ bảy nào anh cũng có mặt ở Phan Thiết, chiều chủ nhật lại vào Sài Gòn. Trong một dịp thứ bảy đi chơi Lầu Ông Hoàng, anh đã thổ lộ mối tình với tôi.[3]

Sau khi Hàn Mặc Tử qua đời, Mộng Cầm lập gia đình riêng và sống ẩn dật. Bà có 7 người con.[1]

BẢN NHẠC “NƯỚC MẮT MỘNG CẦM” CỦA NHẠC SỸ THANH SƠN

Trong quá trình đi tìm tư liệu cho bài viết này, [dongnhacxua.com] vô tình tìm được một bản nhạc viết về chuyện tình của nữ sỹ Mộng Cầm của nhạc sỹ Thanh Sơn, ký dưới nghệ danh Sơn Thảo. Tuy nhiên chúng tôi không thể tìm ra một bản ghi âm nào trên mạng. Vậy nếu quý vị xa gần có sưu tầm được bản nhạc này xin liên lạc với [dongnhacxua.com].

Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com
Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com

nuoc-mat-mong-cam--1--thanh-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nuoc-mat-mong-cam--2--thanh-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nuoc-mat-mong-cam--3--thanh-son--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

KEM FLAN CHIA CẮT
(Nguồn: tuoitre.vn)

“Ghé lại quán Mộng Cầm thấy buồn quá… Ngôi nhà giờ bị chia đôi bằng bức tường tranh chấp. Ngôi nhà cổ vàng vọt cũng mất, chẳng còn hình bóng của giai nhân trong không gian u hoài. Một di sản tâm hồn của Phan Thiết, một hoài niệm của Hàn Mặc Tử đã mất mát vĩnh viễn…”

Quán Mộng Cầm cũ vẫn im lìm với tủ gỗ đựng kem flan lờ mờ đèn vàng-T.M.H.
Quán Mộng Cầm cũ vẫn im lìm với tủ gỗ đựng kem flan lờ mờ đèn vàng-T.M.H.

Tiết văn học buổi chiều năm lớp tám, nắng miền Trung xuyên qua những miếng ngói đỏ tráng lên chúng tôi một lớp nóng rát. Bữa đó học bài “Mùa xuân chín” của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Nhớ miết câu cô hỏi về chữ “trí” trong câu: “Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng” là tâm trí hay là Trọng Trí, tên thật của nhà thơ.

Tiết văn hôm ấy bớt oi bức hơn khi biết được một trong những tình thơ, tình riêng của nhà thơ khi ấy là Mộng Cầm, thiếu nữ của tỉnh nhà.

Lớp mười, trong căn gác trọ, người thuê cũ bỏ lại một tập tài liệu hướng dẫn du lịch tên “Phan Thiết – biển xanh, cát trắng, nắng vàng”. Trong cuốn tài liệu có ghi về mối tình Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm như một dấu ấn lãng mạn của Phan Thiết.

Tài liệu cũng nói về lầu Ông Hoàng, một tàn tích biệt thự của một người Pháp gần tháp Chăm Pôshanư, nơi Hàn Mặc Tử cùng Mộng Cầm mỗi cuối tuần đến ngắm trăng, ngắm biển. “Đường lên dốc đá” ấy trở thành con đường đầy màu thơ và khơi gợi lòng du khách đến để nghe biển vỗ một mối tình buồn…

Thời đó sống ngay Phan Thiết, nhưng sự lo lắng của một cậu bé nông thôn chiếm hết thời gian mộng mơ đi tìm bà Mộng Cầm, người thực của quá khứ văn chương.

Chỉ nghe mọi người trong xóm trọ nói nhà bà hiện nay có một quán kem flan (1) nổi tiếng nhất, ngon nhất và mắc nhất Phan Thiết. Những miếng kem flan do chính tay bà làm. Lúc ấy tô bún bò ngon chỉ ba ngàn đồng mà nghe đâu kem flan Mộng Cầm đến năm, bảy ngàn. Vậy mà quán vẫn đông khách. Chuyện ăn kem flan Mộng Cầm lúc đó là điều không tưởng với một học trò nghèo.

Gần chục năm sau, ghé về Phan Thiết dạo những con đường xưa thơm mùi bánh canh và bánh tráng mắm ruốc nướng chợt nhớ đến quán kem flan Mộng Cầm, chợt nhớ đến ngôi nhà của “người tình thơ” năm cũ.

Dò địa chỉ thì quán ở số 394 Trần Hưng Đạo, con đường chính chạy dọc trong lòng Phan Thiết, đổ dốc cầu qua sông Cà Ty một chút là đến. Thì ra ngôi nhà nằm đó mà hồi trước đạp xe qua lại học thêm dưới phường biển cả trăm lần nhưng không để ý. Coi như duyên cũng phải mười năm mới thắm.

Quán chỉ mở buổi tối, khi gió biển lành lạnh thổi vào những góc đường Phan Thiết. Quán cũng chẳng thể gọi là quán vì có vài cái bàn xếp trước sân, như ai đó trong nhà bày ra để uống trà. Vài ngọn đèn nhấp nháy treo trên ngọn cây cho cảm giác ấm cúng, tự tình trong đêm tối như được nhập thân vào một quãng thời gian cố cũ.

Người bưng kem trung niên gầy ốm, kiệm lời là con rể bà Mộng Cầm. Ông chỉ nói nhiều khi nhắc nhở ai đó ồn ào hoặc gác chân lên ghế. Miếng kem flan đổ bằng xoang, một đĩa là một góc sáu cái bánh, không phải theo khuôn nhỏ nhỏ như trăm ngàn cái kem flan khác.

Miếng bánh vàng rượm trứng gà, dư vị như theo dòng chảy của thơ tràn mát êm đầu lưỡi. Cũng không khó hiểu gì khi quán đắt giá mà vẫn đắt khách mỗi đêm. Tôi không biết lúc bà còn sống, những người khách của quán đêm có được nhìn thấy bà không. Ngày tôi đến thì bà đã mất rồi.

Câu chuyện kem flan Mộng Cầm cứ âm ỉ xúc động trong lòng, tôi viết ra rằng:

“Tại Phan Thiết có quán kem flan của gia đình nữ sĩ, bà giáo Mộng Cầm, người tình nổi tiếng của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Quán đã trở thành “di sản”, người ta vẫn tìm đến ngồi trong quán, trước sân nhà của bà, ngắm ngôi nhà tường vàng im lìm và cảm giác như cô gái Mộng Cầm của thời son nữ đang ngồi trong nhà…” (2).

Vài tháng sau tôi hăm hở trở lại, mong mỏi đắm chìm vào chút đêm tĩnh lặng có chất thơ da diết thì lòng như muốn ngừng nghẹt. Một quán cà phê sang trọng, hộp đèn hiệu của quán in rõ chữ kem flan Mộng Cầm. Ngó lại bên phải, quán Mộng Cầm cũ vẫn im lìm với cái tủ gỗ đựng kem flan lờ mờ đèn vàng, bàn ghế nép vào một hẻm sân chật hẹp, chỉ đủ để ngồi ăn. Tôi nghe thoáng rằng đã có tranh chấp, chia cắt bằng một bức tường gạch.

Phần ngôi nhà vàng cũ nằm bên quán mới giờ đã là một ngôi nhà lầu tường trắng. Giờ đây đến chỉ còn được ăn kem flan, thấy người bưng kem vẫn ít nói, không còn ngôi nhà tường vàng để ngắm. Thật tiếc cho một phần lãng mạn của quê nhà bị xóa bỏ. Tôi nản nản, viết lên Zalo:

“Ghé lại quán Mộng Cầm thấy buồn quá… Ngôi nhà giờ bị chia đôi bằng bức tường tranh chấp. Ngôi nhà cổ vàng vọt cũng mất, chẳng còn hình bóng của giai nhân trong không gian u hoài. Một di sản tâm hồn của Phan Thiết, một hoài niệm của Hàn Mặc Tử đã mất mát vĩnh viễn…”. Có hai bình luận, họ cũng buồn như tôi:

“Người của hậu thế luôn nhân danh thời gian để hồn nhiên tàn phá những thứ tình cảm, quý giá ẩn sâu từ tiền nhân để lại…”.

“Thời gian tàn nhẫn, nhưng con người còn tàn nhẫn hơn”.■

(1): Ở Bình Thuận, bánh flan được gọi là kem flan.

(2): Bài viết: “Biến trang văn thành tour du lịch”, Tuổi Trẻ Cuối Tuần ngày 7-11-2014.

TRẦN MINH HỢP
 

[footer]

Mai Tôi Đi (Anh Bằng – Nguyên Sa)

Như một lời chia tay nhạc sỹ Anh Bằng về nơi an nghỉ cuối cùng, hôm nay một người yêu nhạc đã gởi cho chúng tôi bản “Mai tôi đi” mà Anh Bằng lấy ý từ bài “Paris” của thi sỹ Nguyên Sa. Mạn phép thay mặt nhiều  thế hệ yêu nhạc, [dongnhacxua.com] cầu chúc linh hồn ông sớm về nghỉ ngơi chốn hạnh phúc đời đời.
Cũng xin nói thêm, hm nay cũng là đúng một tuần xảy ra vụ thảm sát ở Paris, chúng tôi cũng cầu nguyện cho linh hồn hơn 100 nạn nhân cũng mau vui hưởng hạnh phúc ở nới “tràn đầy ánh sáng” và mong “Kinh Đô Ánh Sáng” Paris sẽ sớm vượt qua nỗi đau để lại trở về với hình ảnh thơ mộng thuở nào!

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ NGUYÊN SA
(Nguồn: thica.net)

Thi sỹ Nguyên Sa. Ảnh: thica.net
Thi sỹ Nguyên Sa. Ảnh: thica.net

Nhà thơ Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932, tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn Việt Nam nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như Áo lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tuổi mười ba, Tháng Sáu trời mưa, v.v

Tổ tiên Nguyên Sa gốc ở Thuận Hóa (Huế), ông cố ông là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp tá Đại học sĩ trong triều đình thời Tự Đức, đến đời ông nội mới ra Hà Nội.

Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi Hà Đông. Tại đây, ông bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949.

Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.

Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước.

Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời.

Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.

Các tập thơ:
Thơ Nguyên Sa tập 1
Thơ Nguyên Sa tập 2
Thơ Nguyên Sa tập 3
Thơ Nguyên Sa tập 4
Thơ Nguyên Sa toàn tập

BÀI THƠ “PARIS” CỦA NGUYÊN SA
(Nguồn: thica.net)

Mai tôi ra đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau…

Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu

Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa

Dù hôm nay giữa một ngày tháng bảy
Chiếc tháp ngà đang ướt rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang bước xô nhau
Sẽ vịn ai cho đều giòng nước chảy

Dù mai kia
trong một đêm quá khuya hay một ngày sớm dậy
trên một con đò, bên một góc phố, dưới một luỹ tre
tôi sẽ ngồi kể chuyện nắng chuyện mưa
và có lẽ tôi sẽ kể chuyện Paris
để khói thuốc xám trên môi dăm người bạn
và trên môi tôi
điếu thuốc sẽ run trên những đường cong lận đận
điếu thuốc sẽ run như chân người vũ nữ vừa quen
đôi chân người mà tôi không dám nhớ cũng không dám quên
còn quay đảo giữa điệu nhạc mềm như khói thuốc…

Tôi sẽ hỏi trong những chiều giá buốt
những chiều mưa mây xám nặng trên vai
người con gái mắt xanh màu da trời
trên áng mi dài có quanh co tuyết phủ?

Rồi cả người
cả Paris nhìn tôi qua một nụ cười nhắn nhủ
nụ cười mềm như ánh nắng của cuộc chia ly
của một buổi sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đi
những thùng rác bắt đầu cọ vào nhau
với những tiếng kêu của một loài sắt lạnh
như những tiếng kêu của những chiếc đinh khô, những mình búa rắn
của những đôi mắt nhìn theo
và tôi cũng nhìn theo
không biết người ta vừa khâm liêm mình hay khâm liệm một người yêu

Dù người yêu không phải là người con gái có mớ tóc vàng

Nhưng cũng sợ phải viết những lá thư xanh về xứ Đũa son
nên tôi không dám hỏi:
tại sao mắt em buồn
tại sao má em đỏ
tại sao môi em ngoan
vì những ngón tay tô đỏ màu đũa son
đang muốn gắp cả đời người hạnh phúc

Và cả tôi cũng vẫn nghẹn ngào trong mỗi lần nói thật
mỗi lần nghe Paris hỏi tôi:
tại sao anh về
tại sao anh không ở?…

Nhưng dòng máu không thể chảy ngoài huyết quản
dù tôi yêu Paris hơn một người bạn yêu một người bạn
hơn một người yêu yêu một người yêu

Dù đêm nay tôi vẫn làm thơ
dặn những người con gái nhỏ đi về
trên hè phố Saint Michel
gò má đỏ phồng bánh graffen
để những hạt đường rơi trên má
lau vội làm gì cho có duyên

Dù đêm nay những người yêu nhỏ vẫn đi về
vẫn đôi mắt nhìn lơi lả hở khuy
cặp môi nghiêng trong một cánh tay ghì
mỗi chuyến métro qua vồi vội
giòng Seine cười ngoảnh mặt quay đi

Dù đêm nay tháp Eiffel
Vẫn kiễng mình trong sương khuya
nhìn bốn phía chân trời

Và đôi mắt tôi
Vẫn tìm đến trong một giờ hò hẹn

Và từ mai trên những lá thư xanh
tôi không được bắt dầu
bằng một chữ P hoa
như tên một người con gái…

[footer]

Sài Gòn: Biết Bao Giờ Trở Lại (Ngô Thụy Miên)

Đối với chúng tôi, những người đến và ở lại với Sài Gòn gần nửa đời người, mảnh đất này chất chứa thật nhiều kỷ niệm. Thành phố đã thay đổi rất nhiều, “Hòn Ngọc Viễn Đông” không còn như ngày xưa nữa. Thế nhưng, đâu đó trong vài góc phố, vài con đường, một Sài Gòn yên bình và dấu yêu vẫn tồn tại, như một dòng nước mát làm dịu êm nhịp đời hối hả và có phần xô bồ của thành phố với hơn 10 triệu dân. Trong niềm càm xúc ấy,  [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản “Biết bao giờ trở lại” của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên.

BA MƯƠI LỜI TÂM SỰ CỦA NGÔ THỤY MIÊN
(Nguồn: Hoàng Vi Kha phỏng vấn nhạc sỹ Ngô Thụy Miên, đăng trên HonQue.com)

Nhạc sỹ Ngô Thụy Miên. Ảnh: HonQue.com
Nhạc sỹ Ngô Thụy Miên. Ảnh: HonQue.com

 1. Trong các chủ đề sáng tác, thông thường là: Tình Yêu (đôi lứa), Thân Phận, và Quê Hương, phần lớn các nhạc sĩ đều viết cho cả ba chủ đề này, riêng chú, tất cả cho tình yêu (đôi lứa), vì hễ nói đến nhạc của chú, là nghĩ ngay đến “tình ca”, vậy chú có thể cho biết tại sao chú lại chỉ chọn một chủ đề mà thôi?

Từ bao nhiêu năm nay tôi chỉ viết tình ca vì thấy thích hợp với con người, với cá tính của mình, và cũng vì tình yêu mãi mãi vẫn là một đề tài muôn thưở cho người nghệ sĩ sáng tác. Các chủ đề Tình Yêu, Thân Phận, và Quê Hương đã được khai triển rộng rãi trong nhiều thập niên vừa qua với bao nhiêu tác giả và tác phẩm. Được biết đến như một người viết tình ca (đôi lứa) cũng đã là quá đủ cho tôi rồi.

2. Chú viết rất nhiều cho tình yêu. Vậy theo chú, định nghĩa của chú về tình yêu ra sao?

Cho, Chấp Nhận, và Tha Thứ.
Cho người, Chấp Nhận tình, và Tha Thứ cho mình, như một lần tôi đã nói: Tình ơi! Dù sao đi nữa xin vẫn yêu em.

3. Trải theo thời gian, cái nhìn (hay quan niệm) về tình yêu của một người sẽ có ít nhiều thay đổi, vậy ở chú thì sao? Có hay không sự đổi thay quan niệm về tình yêu từ những tình khúc đầu tay của chú và những tình khúc mới nhất? Sự thay đổi (nếu có) là nguyên do nào và thay đổi ra sao?

Dĩ nhiên, tình yêu cũng như đời sống, đều luôn biến đổi theo thời gian, và không gian. Lấy 1975 làm dấu mốc quan trọng trong tình ca Ngô Thụy Miên. Trước Em Còn Nhớ Mùa Xuân là một thời của tuổi trẻ, mộng mơ, lãng mạn. Sau Em Còn Nhớ Mùa Xuân là hạnh phúc, khổ đau, là những mất mát, hiện thực của đời sống. Ở tuổi 20, tình yêu nồng nàn, say đắm, miệt mài… và khi cuộc tình đã chết thì là nỗi buồn đau, xót xa nhẹ nhàng của Bản Tình Cuối, là tiếc nuối chất ngất của Niệm Khúc Cuối. Tuổi 30, tình yêu thổi qua đời như cơn gió lạ đầu mùa, là bát ngát mộng mơ, rồi bỗng thành chia lìa, tan tác. Đó là thời kỳ của Em Còn Nhớ Mùa Xuân, của Dốc Mơ. Còn ở tuổi 40, tình sâu lắng cùng những tiếc nhớ khôn nguôi của một thời đã qua với Trong Nỗi Nhớ Muộn Màng, Riêng Một Góc Trời. Tuổi 50, nhìn lại mình, những sợi tóc xanh xưa đã bỏ đi như những kỷ niệm cũ, nhưng trái tim hồng ngày nào vẫn rung động cùng Mưa Trên Cuộc Tình Tôi, Nỗi Đau Muộn Màng…

4. Tình yêu đi liền với tính lãng mạn. Trong giòng nhạc của chú, bàng bạc vẻ trữ tình, lãng mạn. Nhưng tính lãng mạn của Ngô Thụy Miên khác với những nghệ sĩ khác. Chú có thể nào nói về sự lãng mạn đó?

Tính lãng mạn trong giòng nhạc Ngô Thụy Miên? Có thể nói từ những ngày còn trẻ, tôi đã nghe và yêu thích những giòng nhạc tình tự, trong sáng của các tác giả thời tiền chiến, và cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nhạc cổ điển tây phương, nhất là nhạc classique của thế kỷ 19, mà tôi đã theo học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn trong thập niên 60. Cho nên có lẽ vì thế mà sự lãng mạn trong giòng nhạc NTM có một chút trang nghiêm cổ kính, và pha một chút “thơ” của những Lamartine, Chopin, George Sand… cùng Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn…

5. Thông thường, ở tuổi mới lớn, đó là tuổi của hoa mộng, ngọt ngào men say của những rung động trinh nguyên, ban đầu và vì vậy, đó cũng là tuổi mà đưa đến sự xuất hiện của hầu hết những văn sĩ, thi sĩ, hay nhạc sĩ. Với chú điều này đúng không? Và tại sao chú lại chọn âm nhạc mà không chọn thơ, hay văn?

Đúng đấy chứ, tôi hoàn tất tình khúc đầu tiên Chiều Nay Không Có Em năm 17 tuổi. Tuổi trẻ tôi cũng viết văn, làm thơ…nhưng chỉ được biết đến trong giới bạn bè thân cận. Còn âm nhạc, thì nhờ được học hành trường lớp đàng hoàng về nhạc lý, nhạc sử, hòa âm, vĩ cầm…và còn chơi đàn trong ban nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng, nên phương tiện sáng tác, cũng như phổ biến có phần dễ dàng hơn.

6. Khi viết một tình ca, thông thường cảm xúc dẫn dắt chú đến điều nào trước: giai điệu hay ngôn ngữ (ca từ)?

Tiết tấu và ca từ, cả 2 điều này đều rất quan trọng trong việc sáng tác một tình khúc. Như VK đã nói, tôi thường để cảm xúc tự nhiên dẫn dắt trong việc sáng tác, không gò bó theo một khuôn khổ, qui luật nhất định nào. Tuy nhiên nhìn lại quá trình sáng tác thì có thể thấy ngoài những ca khúc phổ thơ, và 4 bài tôi đã hoàn tất giai điệu trước (Mắt Biếc, Từ Giọng Hát Em, Dốc Mơ, Miên Khúc), phần còn lại là kết hợp của cả hai, ý nhạc và lời ca.

7. Hầu hết các tình ca đầu tay của chú đều được diễn đạt qua thể điệu chậm, thướt tha của Boston, chú có chủ đích chọn thể điệu này như một hướng sáng tác riêng? (cũng như hễ nói đến thơ lục bát thì nghĩ ngay đến Nguyễn Du hoặc thơ năm chữ thì Nguyễn Tất Nhiên, hoặc thể điệu Bolero thì nhạc Lam Phương)

Giản dị thôi, như đã nói tiết tấu và ca từ của một tình khúc đều rất quan trọng, tôi vẫn quan niệm là khi nghe một bài tình ca, nếu ta yêu được ý nhạc thì hạnh phúc một, mà nếu thấu được lời ca nữa thì hạnh phúc gấp đôi. Do đó rất nhiều sáng tác của tôi đã được viết theo thể điệu chậm của Boston để ca sĩ có thể trình bầy, diễn tả hết được cái nồng nàn, tha thiết của lời ca ý nhạc. Tôi nghĩ rằng khi bản nhạc được làm mới thêm với phần hòa âm viết lại từ những thể điệu chậm thành Tango, Samba, ChaChaCha… đều đã làm mất đi cái đẹp nguyên thủy của nó.

 8. Nghe những tình khúc của chú, có thể nói, đối tượng thính giả là những người ở thành thị hơn là ở nông thôn. Hơn thế, không chỉ âm hưởng mà ngay cả ngôn ngữ của những tình ca của chú cũng đòi hỏi người nghe ở một trình độ cảm nhận (hoặc kinh nghiệm sống) nào đó chứ không là quảng đại, bình dân. Chú nghĩ sao về nhận xét này? Phải chăng nhạc của chú cần có đối tượng thích hợp?

Thật ra những sáng tác của tôi viết ra không hẳn cho một đối tượng thính giả nào, mà chỉ dành cho những người có thể chia sẻ những tình cảm, tâm tư riêng với mình mà thôi. Nhưng có lẽ đây là một sự tình cờ của định mệnh. Tôi sinh trưởng tại 2 thành phố lớn Hải Phòng, và Sài Gòn. Chịu ảnh hưởng của nền âm nhạc, cũng như sách báo, phim ảnh tây phương. Đọc nhiều thơ văn viết về Sài Gòn, Hà Nội, Paris…Chỉ một dịp duy nhất được bước chân về miền quê yêu dấu của mình trong lần đi vượt biên dưới Cà Mâu! Cho nên dù muốn cũng không thể dối mình để viết những bài tình ca Quê Hương. May mắn là trong bao năm qua, đã có nhiều nhạc sĩ để lại cho chúng ta những ca khúc với chủ đề Quê Hương thật tuyệt vời.

9. Khi mang tình yêu vào âm nhạc, đơn thuần chỉ là bày tỏ cảm xúc của chính mình hay chú còn nhắn gởi thông điệp nào khác về tình yêu?

Ở cái tuổi bắt đầu sáng tác, cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ là tất cả những hận thù, đố kỵ, bon chen, lừa lọc đều sẽ qua đi, chỉ còn tình yêu là sẽ ở lại mãi với chúng ta. Tình yêu giữa người và người, giữa người và cuộc sống, cũng như thiên nhiên. Đối với tôi âm nhạc cũng chính là tình yêu. Xin hãy để âm nhạc ngự trị trên khắp quả địa cầu khô khan, nơi chúng ta đang tạm trú đây.

10. Tình yêu có lúc làm cho trái tim con người đi qua, hoặc cưu mang khổ hạnh. Trong tình ca của chú nỗi khổ hạnh của tình yêu được chú trình bày có nét riêng biệt – không sến – không quy lụy. Xin chú cho biết thêm về điều này?

Tình yêu đối với tôi dù sung sướng hay khổ đau cũng là một điều rất thiêng liêng. Yêu không có nghĩa là phải chiếm hữu cho riêng mình, yêu là cho tận cùng, là chấp nhận hết những buồn vui, khổ hận để mang lại hạnh phúc cho người yêu. Yêu cũng là tha thứ cho những vấp ngã của người và của chính mình. Đó chính là cái nét riêng biệt của tình ca NTM.

11. Có phải chăng càng đau khổ, càng ma sát với đời, người sáng tác càng có nhiều tác phẩm hơn và tác phẩm càng sâu sắc hơn? Hay nói cách khác, khi trọn vẹn hạnh phúc, dường như sáng tác ít đi ? Chú có bị trường hợp này không? Chú nghĩ gì về điều này từ kinh nghiệm sáng tác của chính chú?

Có lẽ đây là một nhận định, một quan điểm chung của mọi người, là càng đau khổ, càng hận sầu thì viết văn, làm thơ, họa tranh, hay sáng tác nhạc càng hay hơn? Người nghệ sĩ càng sống bệ rạc, phóng túng thì sáng tác càng sâu sắc hơn? Tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Bằng chứng là vào thế kỷ 19, nhạc sĩ Mendelssohn là một người sung sướng từ đầu đến cuối, không bị một đau khổ nào trong cuộc sống, ngoại trừ lúc ông ra đi vào cái tuổi rất trẻ, nhưng ông đã viết, đã để lại rất nhiều tác phẩm bất hủ cho đời.
Riêng tôi có lẽ được may mắn sinh trưởng trong một gia đình tương đối ổn định về cả 2 mặt vật chất cũng như tinh thần, nên những sáng tác của tôi từ trước cho đến nay vẫn là một đời nhạc NTM, chỉ có khác biệt là những tình khúc viết trước 75 là của tuổi trẻ mộng mơ, tươi mát, tràn đầy hy vọng, còn sau 75 thì mang nỗi khổ đau, xót xa, mất mát của cuộc sống tạm dung nơi đây. Những đau khổ, mất mát này đã xẩy ra hàng ngày quanh tôi từ những kinh nghiệm sống của chính mình, của bạn bè, gia đình và những người thân của một thời.

12. Khi tạo ra một tác phẩm, thường so sánh như một đứa con tinh thần vừa chào đời, chú có mong muốn gì ở nó và mong muốn gì từ những người chung quanh?

Nói chung, những người làm công việc sáng tạo, khi cho ra đời một đứa con tinh thần thì điều đầu tiên là họ mong muốn tác phẩm của mình được phổ biến rộng rãi, và được người thưởng ngoạn yêu thích (dĩ nhiên điều này không đúng với những người chỉ viết cho riêng mình). Với những người sáng tác có tinh thần trách nhiệm thì ngoài điều mong muốn trên, còn hy vọng là tác phẩm của mình đã nói lên được những điều mình muốn nói.

13. Có thể nói rằng tất cả các sáng tác của chú đều rất giá trị vì không phải chỉ qua ngôn ngữ, âm điệu mà còn vì chú viết từ rung động chân thật (điều này người nghe có thể cảm nhận được). Chú không chạy theo thị hiếu và thời đại. Vậy chú có nghĩ sẽ gặp khó khăn từ phía thính giả trẻ không? Chú nghĩ thế nào về việc sáng tác cần hoặc nên thích hợp với thời đại khác nhau?

Cám ơn VK. Một lần nào đó tôi cũng đã có nói là “Tôi không viết nhạc để sống, mà sống để viết nhạc”. Tôi yêu âm nhạc từ bao nhiêu năm nay, và vẫn tiếp tục sáng tác cho mình, cho bạn bè, cho người thân, và cho tất cả những ai đã có thể chia sẻ những tâm tình của tôi thể hiện qua tình ca NTM.
Tôi không có nhu cầu chạy theo thị hiếu của thời đại. Giòng nhạc thính phòng nói chung, giòng nhạc NTM nói riêng, hiện nay vẫn được rất nhiều bạn trẻ chú ý, theo dõi và ủng hộ. Qua những lần tham dự các chương trình nhạc chủ đề tại nhiều nơi, tôi đã có dịp gặp gỡ những người trẻ này, và tôi vẫn nhận được khá nhiều email của các bạn trẻ yêu nhạc khắp nơi từ những làng xóm, thành phố ở Việt Nam, cho đến những tỉnh thành khắp nơi trên thế giới. Email từ các em, các cháu sinh ra, và lớn lên tại hải ngoại thì cũng có, nhưng không nhiều lắm. Tôi vẫn nghĩ nền tân nhạc Việt Nam dù mới có mặt trên dưới 70 năm, nhưng đã trải qua rất nhiều giai đoạn, thời kỳ, mà mỗi một giai đoạn, thời kỳ, chúng ta đều có những giòng nhạc đáp ứng được những bước đi thăng trầm của lịch sử quê hương dân tộc. Hiện nay ở hải ngoại, dù vẫn có nhiều người sáng tác, nhưng nếu muốn tiếp tục duy trì nền tân nhạc (đây chỉ nói đến nhạc phổ thông) các tác giả phải viết nhiều hơn nữa những ca khúc nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của lớp trẻ ngày hôm nay. Tuy cần những tiết điệu mới, nhưng vẫn phải không mất đi cái đặc thù của nhạc Việt chúng ta.

14. Những ca khúc sau này của chú (từ thập niên 80 trở đi) giòng giai điệu thay đổi hẳn so với thập niên 70. Thưa chú, nhận xét này có đúng không? Và nếu đúng thì có nguyên do nào không? Không những vậy, nét trau chuốc trong ngôn ngữ cũng thay đổi. Chú nghĩ sao?

Tôi vẫn nghĩ thời gian ở quê hương (trước 75) với những thân yêu quanh mình, với những lụa là, mưa nắng Sàigòn, những quán hàng, con đường quen thuộc từng dấu chân, từng buổi sáng, buổi chiều…đã cho tôi những cảm xúc để viết lên những tình khúc với ý nhạc nhẹ nhàng, trong sáng, những lời ca dịu dàng, đầy thơ tính. Còn bây giờ, ở đây, người ta thật vội vàng, xa lạ, bận rộn…Những thành phố, nhà cửa thật huy hoàng, thật to lớn, nhưng cũng thật lạnh lẽo, cô đơn. Ngày tháng bên này đã để lại trong tôi những nét nhạc muộn phiền, ghi lại những lời ca mệt mỏi, buồn bã của cuộc sống tạm dung, của một phần đời tỵ nạn.

15. Chú có những ca khúc viết cho Sài Gòn (Hát Cho Người Ra Đi, Nắng Paris – Nắng Sài Gòn, Sài Gòn Còn Đó Nỗi Buồn, Thu Sài Gòn) Qua những lời chú viết cho thấy nỗi gắn bó giữa chú và Sài gòn rất tha thiết. Xin chú có thể cho biết cảm xúc của chú khi rời Sài Gòn và khi viết những bài nhạc trên.

Tôi sinh ra ở Hải Phòng miền Bắc Việt Nam, nhưng đã lớn lên tại Sàigòn, đã được nuôi dưỡng bởi cái tánh khí bình dị, cái tinh thần mộc mạc của miền Nam, đã có cả một thời mơ mộng, cả một tuổi trẻ với bao mộng ước đầu đời, khát khao…
Hỏi nếu vì lý do nào đó phải rời xa nơi chốn ấy thì làm sao không khỏi đau lòng, không khỏi xót xa cho được. Trong nỗi nhớ thương tận cùng, tôi đã viết một số ca khúc cho Sàigòn, và sáng tác gần đây nhất có tựa đề Biết Bao Giờ Trở Lại, đã được nữ danh ca Khánh Ly trình bầy lần đầu tiên trong 2 đêm nhạc NTM tại Sydney, và Melbourne, Australia. Một bài hát đã một lần nữa nói lên nỗi gắn bó của tôi với Sàigòn sẽ là mãi mãi.

16. Xưa nay, “thi-ca” thường đi chung với nhau và chú là một nhạc sĩ có rất nhiều tác phẩm phổ thơ rất thành công. Nhưng phổ nhạc một bài thơ là một việc không dễ, vì nó không chỉ đòi hỏi ở kỹ thuật mà còn cả ở sự cảm nhận. Chú có thể chia xẻ một vài kinh nghiệm về việc phổ thơ thành nhạc không? Đối với chú, đâu là điều quan trọng nhất của bài thơ có thể phổ nhạc (vì không phải bài thơ nào cũng có thể phổ nhạc được).

Thực ra thì tôi phổ thơ đâu có nhiều, chỉ trên dưới 10 bài thôi, thì kinh nghiệm làm gì mà có chứ! Tôi chỉ biết phổ thơ là một việc không khó, nhưng phổ để có được một bài nhạc hay, tồn tại được với thử thách của thời gian thì không phải là chuyện dễ. Tôi vẫn nghĩ bản nhạc với những niêm luật gò bó, nhất định, sẽ không bao giờ có thể nói lên hết được ý thơ của tác giả (đó là cảm nghĩ của tôi khi phổ thơ Nguyên Sa).
Điều quan trọng nhất của bài thơ có thể phổ nhạc, không nằm ở bài thơ, mà nằm trong lòng người muốn phổ bài thơ đó, có cảm xúc khi đọc bài thơ? có chia sẻ, cảm nhận được những gì nhà thơ muốn nói? có đặt được mình vào cương vị của nhà thơ khi sáng tác bài thơ? có đủ khả năng dùng nốt nhạc để trình bầy ý thơ của tác giả… Khó như vậy, nên tôi không còn phổ thơ nhiều như trước nữa.

 17. Thơ ngay tự nó cũng đã có vần điệu. Có những bài thơ mà khi đọc lên đã nghe như một nhạc khúc. Thưa chú, vậy đối với kinh nghiệm sáng tác của chú, khi một bài thơ được phổ nhạc, có nên không tạo ra sự khác biệt giữa vần điệu của thơ và âm giai của nhạc?

Người ta vẫn thường nói trong thơ đã có nhạc. Tôi nghĩ là không những nhạc, thơ còn chất chứa cả hội họa, và vượt thoát được những gò bó, giới hạn của quy luật, văn phạm trong ngôn ngữ thông thường nữa. Tuy nhiên vần điệu của thơ dễ bị lập đi lập lại (tùy theo thể loại), và như vậy dễ trở nên nhàm chán, nhạt nhẽo…Người phổ nên đem những âm giai của nhạc vào thơ, sáng tạo những thang âm khác lạ, làm mới câu thơ hơn, và hy vọng người nghe sẽ có thể chia sẻ những cảm nhận chung với mình.

18. Thơ có nhiều thể loại khác nhau như lục bát, đường luật, tự do . và số chữ, cũng như cách gieo vần tùy vào thể lọai thơ mà khác nhau. Khi đem thơ phổ nhạc, chú có gặp sự hạn chế trong sáng tác về những luật thơ, và vần thơ không? Đối với kinh nghiệm của chú, thể thơ nào là dễ phổ nhạc nhất (nhận thấy lọai 5 chữ là được đi vào nhạc nhiều nhất có phải chăng vì nó dễ dàng hơn các lọai khác?)

Như đã nói bản nhạc với những niêm luật gò bó, nhất định, sẽ không bao giờ có thể nói lên hết được ý thơ. Dĩ nhiên thơ cũng có những niêm luật, những cách gieo vần riêng…Như vậy khi phổ thơ thì phải biết dung hoà 2 vấn đề này, nghĩa là có khi phải du di, thay đổi nốt nhạc để họa vần thơ, hay đôi khi phải thay đổi lời thơ để nhập với ý nhạc. Tôi thường phổ thơ 5 chữ, hay 7, 8 chữ… cũng có 1, 2 bài theo thể tự do. Thể thơ nào dễ phổ nhất? Thì tùy người phổ thôi. Thông thường những bài thơ có vần điệu dễ phổ hơn thơ tự do.

19. Khi một người ca sĩ trình bày ca khúc của chú, những điều gì chú mong mỏi ở ca sĩ đó? Có những ca khúc được hát qua nhiều giọng ca khác nhau, qua nhiều thời đại khác nhau. Mỗi cái khác nhau đó là một diễn đạt khác (kỹ thuật cũng như cảm xúc) Đối với một nhạc sĩ như chú, chú có thể chia sẻ một nhạc phẩm nào đó mà khi nghe qua nhiều cách trình bày, đã tạo cho chú sự thích thú, khám phá khác cho chính tác phẩm của mình, hoặc một cảm xúc mới?

Dĩ nhiên mong người ca sĩ đó có thể diễn tả được lời ca ý nhạc, chuyên chở được nhưng tình cảm tâm tư mà mình muốn gửi đến người nghe… Điều này không phải là dễ! Lý tưởng nhất là có điều kiện tập cho ca sĩ như khi tôi thực hiện cuốn băng tình ca NTM đầu tiên tại Sàigòn năm 1974.
Một ca khúc muốn được tồn tại với thời gian thì phải được trình bầy bởi những giọng ca của nhiều thế hệ khác nhau, qua nhiều thời đại khác nhau. Trong 4 thập niên vừa qua tôi đã được nghe Áo Lụa Hà Đông qua rất nhiều tiếng hát như Duy Trác, Sĩ Phú, Tuấn Ngọc, Vũ Khanh, Hoàng Nam… Mỗi giọng hát đều có một lối diễn tả khác, một kỹ thuật trình bầy riêng, từ mượt mà, sâu lắng, đến ngọt ngào, trầm ấm, từ tiếng hát trẻ trung, mới mẻ, cho đến nồng nàn, sống động của các ca sĩ, đã cho tôi nhiều nỗi xúc động khi nghe một sáng tác của mình được trình bầy bởi nhiều tiếng hát, mà tiếng hát nào cũng để lại trong tôi một nỗi thích thú, một nỗi sung sướng nhẹ nhàng,dù không bao giờ có thể tìm lại được cái cảm giác hôm nào khi nghe anh Duy Trác hát bài này lần đầu tiên.

20. Nếu có thể điều khiển (thay đổi) được thời gian và không gian, chú sẽ làm gì?

À, nếu có thể thay đổi được thời gian, thì tôi muốn trở lại cái thưở tuổi trẻ, mộng mơ ngày nào, để sẽ viết nhiều hơn, và yêu nhiều hơn nữa. Dĩ nhiên muốn là mình sẽ được ở mãi trên đất nước thân yêu, và sẽ dành thật nhiều thì giờ để đi thăm khắp nẻo đường quê hương.

21. Giai đọan sáng tác (hay cũng là cuộc đời) nào tạo cho chú nhiều gắn bó nhất?

Trước 75, là vì giai đoạn này là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Vẫn là một thanh niên trẻ tuổi, sống giữa lòng quê hương với đầy nhiệt tình,hy vọng, và lạc quan trước tương lai, nhưng không còn quá trẻ để ngu ngơ trước cuộc đời, cũng như chưa già hẳn để học được, để nhìn thấy những lọc lừa, những xấu xa, hiện thực đầy chua xót của đời sống. Và đó cũng chính là giai đoạn sáng tác gắn bó nhất trong đời tôi.

22. Chú có theo dõi các sáng tác của các nhạc sĩ trẻ tại hải ngọai và tại Việt nam không? Nếu có, xin chú cho vài nhận xét về giòng nhạc trẻ tại hải ngọai cũng như tại Việt nam.

Trong những năm tháng vừa qua, tại hải ngoại, cũng như trong nước đều có những tác giả trẻ với những tác phẩm có giá trị. Nhưng chủ yếu các tác phẩm được giới thiệu và phổ biến rộng rãi vẫn chỉ là những ca khúc. Chúng ta không thể phủ nhận sự đóng góp quan trọng của ca khúc phổ thông vào vườn hoa âm nhạc Việt Nam, nhưng tôi vẫn kỳ vọng nhiều hơn nơi các nhạc sĩ trẻ bây giờ, vì tôi nghĩ rằng họ đã có một cơ hội thật đầy đủ, thật tốt đẹp để nghiên cứu, trau dồi, cũng như học hỏi những giòng nhạc mới lạ trên khắp thế giới qua những phương tiện như CDs, Internet, concerts, books… mà những người viết nhạc chúng tôi 30, 40 năm trước không thể có. Họ là những người có thể làm mới lạ hơn cho âm nhạc Việt của chúng ta với những kiến thức tổng hợp của cả 2 nền âm nhạc Đông Tây. Dĩ nhiên khi viết những tác phẩm này, họ cần phải có một cơ hội để phổ biến. Tôi hy vọng các trung tâm video sẽ dành ít nhất một tiết mục trong chương trình để giới thiệu, cũng như đưa giới thưởng ngoạn đến một cuộc hành trình mới vào âm nhạc Việt Nam của chúng ta ở thể kỷ thứ 21 này.

23. Chú nhận thấy ra sao về ngôn ngữ trong âm nhạc Việt nam hiện nay? Có nhiều ý kiến cho rằng đã không còn sự đậm đà, sâu sắc, giàu hình ảnh tượng hình như xưa mà hầu hết là đơn giản, không trau chuốt. Theo chú thì điều này đúng không và sự quan trọng (cần thiết) của ngôn ngữ trong âm nhạc như thế nào?

Hiện nay chúng ta đang ở một thời kỳ mà nền âm nhạc Việt Nam đang cố gắng tìm cho mình một vị trí, tìm cho mình một lối đi riêng để thoát khỏi những ảnh hưởng của các luồng nhạc thổi đến từ các nước bạn. Cho đến khi chúng ta có được một định nghĩa chính đáng của nhạc Việt bây giờ, thì khó có thể tránh được ảnh hưởng từ những điệu nhạc vay mượn, ảnh hưởng từ những phương cách trang phục, và lối trình diễn của nước ngoài! cũng như ca từ của chúng ta sẽ không thể sâu sắc, giầu tượng hình như trước kia được nữa! Nhưng điều đó có quan trọng không khi hiện nay người ta đi xem nhạc nhiều hơn là nghe nhạc, khi ca sĩ không chỉ còn là người hát, mà còn phải là người trình diễn nữa?
Những ca khúc Việt Nam tồn tại đến ngày hôm nay là nhờ một phần rất lớn vào ca từ. Nhạc hay, cấu trúc đẹp, thì rất khó bàn, nhưng khi hát lên một câu, thì chỉ vài lời ca đơn giản thôi cũng đã có thể đem lại sự xúc động tột cùng cho người nghe, cũng có thể gợi nhớ lại cả một cuộc hành trình trong đời người. Ca từ trong nhạc Việt Nam quan trọng là như thế đó.

24. Cũng có nhiều bạn trẻ cho rằng họ không được sự lưu ý đúng mức của thế hệ đi trước. Không có sự dìu dắt, nâng đỡ hoặc tận tình chỉ bảo, san sẻ kinh nghiệm. Đặc biệt là trong âm nhạc. Những nhạc sĩ sáng tác trẻ hầu như bị bế tắt trong vấn đề phổ biến sáng tác. Chú nghĩ sao về điều này? Chú có những điều gì san sẻ cho những nhạc sĩ trẻ không?

Thực sự tôi không nghĩ là những bạn trẻ bây giờ cần có sự dìu dắt, nâng đỡ, hay tận tình chỉ bảo của những người đi trước. Họ có đầy đủ khả năng, điều kiện để viết những tác phẩm có giá trị. Cái mà họ cần là được giúp đỡ phổ biến những sáng tác mới của họ, và đây đúng như VK đã nói là một vấn đề bế tắc từ căn bản. Trong nước thì tôi không rõ lắm về những phương tiện truyền thông, điều kiện phổ biến, cũng như phát hành sáng tác của những người viết mới? Ở hải ngoại, chúng ta chỉ có 2, 3 trung tâm video đang hoạt động mạnh, các trung tâm băng nhạc nhỏ thì cũng có khá nhiều, nhưng hoạt động rời rạc, hạn hẹp! Như vậy thì lấy đâu ra chỗ cho các người viết mới chen chân vào thị trường âm nhạc? Chưa kể đất nước người quá rộng lớn, vấn đề phát hành cũng là một trở ngại không nhỏ. Hiện nay trên mạng lưới Internet đã có khá nhiều diễn đàn văn học, nghệ thuật. Ở đây các bạn có thể gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, học hỏi cùng nhau để có thể tiến bộ hơn trong lãnh vực sáng tác. Nhưng dù sao tất cả vẫn còn trong một hoàn cảnh, một môi trường hạn hẹp.
Nếu có lời gì muốn nói với những bạn trẻ muốn lập sự nghiệp âm nhạc? một điều rất quan trọng, đó là cho dù gặp bao nhiêu khó khăn trước mặt thì các bạn đừng nản lòng, phải tiếp tục sáng tác, tiếp tục cố gắng học hỏi trau dồi để những sáng tác của mình mỗi ngày một đặc sắc hơn. Có những chuyện các bạn có thể làm thử: Trước hết gửi một vài bài mà bạn vừa ý nhất đến một vài trung tâm. Nếu họ không trả lời! thì bạn phải tự thực hiện CD với những tiếng hát và hòa âm thích hợp với giòng nhạc của mình, rồi gửi đến các trung tâm video, băng nhạc, nhờ họ phổ biến hay phát hành dùm. Nếu các trung tâm không thể giúp đỡ, thì phải tìm cách giới thiệu trên internet, và nhờ đến bạn bè, anh em, để tổ chức những đêm hát, những chương trình ra mắt những sáng tác mới của mình… Nhiều khi phải hy sinh, và chấp nhận nhiều thiệt thòi, mới có cơ hội tạo dựng tên tuổi.

25. Có nhiều nhạc sĩ vẫn chạy theo thị hiếu hoặc danh vọng mà có những sáng tác “vay mượn” từ người khác. Xưa nay, chữ đức vẫn luôn quan trọng trong mọi ngành nghề nói chung và nghệ sĩ nói riêng. Thưa chú, xin chú nói vài lời (quan điểm) về “đức” của người nghệ sĩ được không?

Từ trước tới nay tôi vẫn nghĩ người nghệ sĩ phải thẳng với mình, và thật với người. Một lần nào đó tôi đã có nói “Là một người viết nhạc, có 2 điều mà tôi không thích là giả dối và vay mượn”. Người nghệ sĩ nói chung, người nhạc sĩ nói riêng cần phải có một tấm lòng độ lượng, chân thành yêu đời, một trái tim chan chứa, nồng nàn yêu người, và nên tìm cho mình một hướng đi riêng, một con đường mới để phục vụ nhân sinh.

26. Đối với chú, trong sáng tác âm nhạc, kỹ thuật và nội dung điều nào quan trọng hơn? Có những tác giả chú trọng khai thác kỹ thuật viết nhưng lại thiếu cân bằng trong ngôn ngữ hay nội dung bài nhạc.

Mặc dù trong việc sáng tác ca khúc, cả 2 phương diện kỹ thuật, và nội dung đều rất quan trọng, nhưng căn bản của ca khúc là những bài hát ngắn gọn, dễ nghe, dễ hát, và bản chất của người Việt chúng ta hiền hòa, giản dị, thích nghe những điệu nhạc êm tai, những câu hát dễ nhớ. Do đó nếu quá chú ý đến kỹ thuật thì bản nhạc sẽ trở nên cầu kỳ, khô khan khó hát. Vì vậy nói tới ca khúc (tấu khúc là một đề tài khác) nội dung, ngôn ngữ trở thành quan trọng hơn.

27. Thông thường, tính đa cảm, lãng mạn, giàu mơ mộng là những yếu tố chính đối với một nghệ sĩ. Nhưng ngòai đời, họ có thể lại là một con người khác. Vậy, Thưa chú, giữa một Ngô Thụy Miên trong âm nhạc và một Ngô Thụy Miên ngoài đời có điều gì khác nhau không?

Khi còn trẻ, còn độc thân thì chẳng khác gì đâu. Bây giờ đã có gia đình, thì ở ngoài đời tôi xử sự cân nhắc hơn với trái tim đầy tình cảm, cũng như tính lãng mạn, mơ mộng của mình. Sống trong đời, mình có nhiều trách nhiệm với những người xung quanh, cần phải làm sao dung hòa được cả 2 phần, trái tim và lý trí.

28. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật như một phương tiện để nói về cuộc sống và con người, cũng như về chân thiện mỹ. Chú là một nhạc sĩ có tài, xin chú cho biết quan niệm của chú về thế nào là “chân thiện mỹ”?

Là một người viết nhạc, thì đối với tôi, âm nhạc là một phương tiện biểu hiện được tất cả những tình cảm giao hòa giữa con người và con người, giữa con người và cuộc sống, giữa con người và thiên nhiên. Nghe nhạc, hòa mình trong nhạc vẫn là nỗi sung sướng, niềm hạnh phúc nhất sau tình yêu. Như vậy có thể nói âm nhạc chính là tình yêu vậy.

29. Đối với chú thế nào là một sáng tác thành công? Được số đông khán thính giả yêu thích? Đạt được kỹ thuật viết nhạc cao? Hay chuyển đạt, bộc bạch được những điều mà mình muốn gởi gắm (cho dù có thể không cần kỹ thuật hoặc số đông người yêu mộ)?

Tất cả những gì VK đề cập tới đều có thể coi như là những câu trả lời đúng. Tuy nhiên giản dị mà nói, với tôi thì sự thành công của một ca khúc chính là sự tồn tại của ca khúc đó sau những tháng năm, những thử thách của thời gian và không gian.  Hiện nay những tác phẩm của 2 thập niên 40, 50, và vẫn đang còn được trình bầy, được yêu thích bởi mọi từng lớp khán thính giả là những tác phẩm được coi là thực sự thành công.

30. Trải qua một thời gian dài miệt mài với âm nhạc và có nhiều đóng góp giá trị cho nền âm nhạc Việt nam, nếu chính chú là người nhìn lại tất cả những sáng tác của mình, chú có suy nghĩ gì hay nhận xét gì về chính các tác phẩm của chú?

Cám ơn VK. Tôi đóng góp không được bao nhiêu, nhưng rất hãnh diện về những gì mình đã viết, những gì mình đã chia sẻ được với người, với đời. Đôi khi tôi nghĩ là mình viết đã đủ rồi; đời đã nghe, người đã hiểu, nhưng khi ý nhạc tới thì lại ngồi xuống phím đàn, để mong tiếp tục gửi tới khách tri âm những tình ca của một đời nhạc NTM.

[footer]

Mùa Thu Đông Kinh (Hoàng Thi Thơ)

Mùa thu là niềm cảm hứng bất tận trong âm nhạc. Trong một chuyến lưu diễn ở xứ Phù Tang vào thập niên 1960, nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ đã cho ra đời một nhạc phẩm có giai điệu và lời ca đậm chất Nhật Bản nhưng vẫn mang bản sắc ngũ cung của nhạc Việt. Tiếp nối dòng nhạc về mùa thu, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản “Mùa thu Đông Kinh” của nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ.

Mùa thu Đông Kinh (Hoàng Thi Thơ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa thu Đông Kinh (Hoàng Thi Thơ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

mua-thu-dong-kinh--1--hoang-thi-tho--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-thu-dong-kinh--2--hoang-thi-tho--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

MÙA THU ĐÔNG KINH 
(Nguồn: trích trong tập truyện “Michiko” của Trương Duy Cường)

kimono

1-

Mùa thu vừa trở lại thành phố Đông Kinh. Buổi sáng sương mù phủ kín mọi nơi. Ngọn núi “Fuji-san” (Phú-sĩ-sơn) cao 776 m (12,390 ft) là một núi lửa đã tắt từ năm 1707 và đến năm 1807, một trăm năm sau vùng đất thiêng này mới bắt đầu đón những bước chân dọ dẫm của những tu sĩ cùng những nam du khách hành hương.

Mãi đến năm 1872, phái nữ mới được phép trèo lên nơi này.

Ngọn núi cao nhất vùng mọi ngày rất dễ nhìn từ xa, hôm nay cũng chưa ló dạng.

Mặt trời từ hướng đông đang cố gắng đưa sức nóng làm tan sương mù để chào cư dân trong vùng một ngày mới vui tươi hạnh phúc ” Ohayo!”.

Michiko và Nguyễn đang dạo chơi trong “cung đình hoa viên Hama”, tọa lạc về hướng nam của vùng trung tâm Đông Kinh gần con sông Sumida và vịnh Tokyo.

Hai người bạn trẻ tay trong tay đi dạo trong những con đường hẹp trải sỏi dưới những hàng cây phong lá vàng lá đỏ chen nhau rất thơ mộng. Chân giẫm lên những đống lá vàng khô nghe tiếng lá phát ra một âm thanh nát vụn dưới chân người. Rồi một trận gió thu mang chút hơi lạnh thổi qua làm những chiếc lá phong vàng rơi lả tả trên vai người, trên lối đi.

Nguyễn chợt nghĩ đến những câu thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư ” Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” trong khi Michiko cũng nhớ lại một đoạn Haiku (hài cú) cổ của một thi sĩ nổi tiếng Nhật Bản Matsuo Basho.

Đây là một trong những hoa viên đẹp và nổi tiếng của Đông Kinh và cũng của cả xứ Phù Tang. Nổi tiếng vì tại hoa viên này rộng hai mươi lăm hec-ta (62 – acre) thành lập từ năm 1654 là một khu vườn đặc biệt mang tên “cung đình hoa viên” (Palace Garden) làm nơi hưu trí của gia đình một vị lãnh chúa dùng nơi săn bắn vịt trời trong những khu hồ nước rộng có những hàng liễu rủ xuống bờ đá ven hồ có nhiều đàn vịt trời lội, đẻ trứng và sinh sống.

Nơi đây trong chuyến thăm viếng ngoại giao của Tổng Thống Hoa Kỳ Ulysses S. Grant năm 1879 đã ở trong dinh thự tọa lạc tại khu cung đình hoa viên này và thưởng thức trà xanh với Nhật Hoàng Minh Trị nơi Trà thất Nakajima.

Trong thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, phi cơ đồng minh đã bỏ bom ngày 29 tháng 11 năm 1944 thiêu rụi Trà thất Nakajima và những cảnh vật chung quanh. Trà thất đươc gia đình vị lãnh chúa xây cất lại đẹp hơn, nới rộng vườn hoa, trồng những cây trà xanh, những cây ăn quả và tu bổ ao hồ thiên nhiên trước kia để vịt trời tiếp tục đến sinh sống.

Michiko hỏi Nguyễn:

“Lần đầu tiên anh đến Tokyo vào mùa thu, anh thấy như thế nào?”

Nguyễn trả lời vị hôn thê không bằng cảm tưởng của chính chàng mà chàng rào đón:

” Ngày xưa khi còn sống bên Việt Nam, anh rất thích bài hát “Mùa Thu Đông Kinh” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, bài hát này không những nói lên được cảm nghĩ của một người Việt mà điệu nhạc tấu lên những âm hưởng Nhật bản cổ truyền thật tuyệt diệu. Nếu một thính giả ngoại quốc, không phải người Nhật, khi nghe dàn nhạc hòa tấu nhạc khúc này thì ngỡ là tác phẩm của một người Nhật chính hiệu, không ai có thể ngờ nhạc khúc của một nhạc sĩ Việt Nam có nhiều dịp đến biểu diễn nghệ thuật tại Tokyo mà viết hay như vậy”

“Bài hát như thế nào, anh có thể dịch sang tiếng Pháp để em thưởng thức được không?” Michiko thích thú đề nghị với người yêu.”

“Được lắm chứ, Michiko! Bài hát này sẽ thay anh bày tỏ cảm tưởng… chân thật và tuyệt vời…với Đông Kinh và với Em:

” Michiko, chérie! Cette chanson racontait …( Này Michiko thân yêu, ca khúc này thỏ thẻ…}

 “Lạc trong Đông Kinh.
Vừa khi mùa Thu gieo thương nhớ.
Làm tôi ngẩn ngơ nhìn qua hồn thơ.
Chiếc áo buồn kimono .
Đôi thiên nga trong hồ.
Cô Geisha trên bờ.
Thiết tha trong mong chờ.

Chờ ai xa xăm
Từ muôn nẻo đêm mà chẳng thấy.
Người đâu với cung đàn đang dở dang.
Nhớ thương hoài theo thời gian.
Tiếng cô đơn khơi buồn.
Samisen não nề.
Khi gió thu về.

Mùa Thu Đông Kinh
Buồn như tình em trong cơn gió.
Đìu hiu liễu bên đàng ru lòng ai.
Lá thu vàng trên bờ vai.
Như bao nhiêu thu tình.
Mang theo bao nỗi lòng.
Tiếng gió thu lạnh lùng.

Mùa Thu Đông Kinh.
Gọi đôi hình bóng trong giây phút.
Chờ trông bước đi tìm tâm tình nhau.
Bước đi tìm duyên ngày sau.
Trong tiếng hát mơ màn,
trong ánh nắng ngỡ ngàng.
Xao xuyến lá thu vàng.”

“Merci beaucoup! ( cám ơn Anh rất nhiều!) Nghe tuyệt quá, anh ạ! Em là người Nhật mà cảm nhận càng thấm thía hơn giống như thưởng thức những câu thơ cổ Haiku của thi sĩ Nhật Bản viết với 17 vần (5-7- 5). của thế kỷ XVII.”

Michiko thổ lộ với người yêu.

Nguyễn nói:

“Michiko, em chỉ mới nghe lời ca không thôi, mà đã cảm nghĩ như thế, anh sẽ gửi cho em dĩa nhạc hòa tấu để em có dịp thưởng thức những âm thanh tuyệt vời của nhà viết nhạc họ Hoàng, em sẽ cảm nhận tâm tình của một nhạc sĩ tài hoa người Việt Nam.”

2-

Đứng trên bờ sông, Michiko trỏ vào chiếc du thuyền nhỏ hai tầng sơn mầu vàng nhạt đang bỏ neo tại bến tàu, nàng nói với Nguyễn:

“Mình sẽ đáp chuyến tàu này?”

“Vâng. Cưng cẩn thận khi bước ra cầu tàu và lên tàu.”

Hành khách xếp hàng rất dài chờ lên tàu theo lời hướng dẫn tour “Sumida River Trip” của cô gái Nhật bằng hai ngôn ngữ Anh ngữ và Nhật bản ngữ.

Tokyo là thành phố nằm hai bên bờ một con sông lớn Sumida và những nhánh kênh đào đẹp trước khi ra vịnh Đông Kinh.

Nguyễn rất thích những thành phố được thiên nhiên ưu đãi như vậy.

Khi còn ở quê nhà chàng đã nhìn thấy những thành phố lớn nhỏ nằm bên bờ sông như Huế thơ mộng bên dòng Hương Giang lững lờ trôi, Đà nẵng rộn rịp bên bến cảng Hàn Giang, Hội An cổ kính tựa mình soi nước Sài Giang, Sài Gòn tấp nập tàu bè trên cảng sông Sài gòn, Cần Thơ thơ mộng ngắm bến Ninh Kiều tựa vào Hậu Giang…

Thời gian vừa qua Nguyễn cùng người yêu Michiko khi du lịch bên châu Âu nhìn dòng sông Seine soi bóng nhà thờ Notre Dame tại Paris, du lịch Thái Lan thấy sông Chao Phraya lượn quanh thành phố Bangkok, sông Ping ôm ấp thành phố Chiang Mai.

*

Lần lượt đến Michiko và Nguyễn bước lên tàu. Michiko rủ Nguyễn lên tầng cao nhất không có mái che để nhìn rõ quang cảnh hai bên bờ sông Sumida.

Những khu phố Đông Kinh với những buildings cao ngất , tháp hình vuông, tháp hình tròn chen nhau như muốn phô diễn vẻ đẹp và kiến trúc tân kỳ hiện đại của mình.

Khởi hành từ Odaiba, tàu quành lên hướng bắc của thành phố Tokyo đi đến Akakusa .

Tàu rúc qua hơn 12 cây cầu xây mỹ thuật và đa dạng sơn những màu sắc khác nhau như Azuma, Komagata, Umaya, Kuramae, Ryogoku, Shinohashi, Kiyoshu, Sumidagawa-ohashi, Eitai, Chuo-ohashi, Tsukuda-ohashi, Kachdoki, Azuma, Kiyoshu, Kachdoki…

Michiko thích chụp ảnh phong cảnh, nên nàng đã chụp những cây cầu này, như nàng nhận xét không thấy hai cây cầu giống nhau. Mỗi cầu mỗi kiểu kiến trúc riêng biệt.

Về ban đêm những cây cầu Azuma, EItai, Kiyos và Kachidoki sáng rực ánh đèn điện trộng rất ngoạn mục trên cầu cũng như phần phản chiếu trên mặt nước sông. Phong cảnh nên thơ và lãng mạn. Du khách có thể nhìn thấy dãy cao ốc của khu xưởng máy chế tạo rượu bia của công ty sản xuất rượu bia nổi tiếng của Nhật Asahi.

Tàu chạy qua hải cảng Đông Kinh nhộn nhịp tàu bè ra vào, đi lại. Những thương thuyền khổng lồ hiện đại rúc lên những hồi còi nghe như tiếng kèn trầm bổng trong một dàn quân nhạc đang trình tấu. Đẹp nhất là khúc tàu từ từ lách vào vùng giữa nơi nước sông Sumida gặp nước mặn của vịnh Đông Kinh.

Muốn đi xem nhiều nơi khác du khách phải đáp những chuyến du thuyền lớn của “Sumida River Cruise Day Tour” ăn uống trên tàu và ngồi xem phong cảnh vịnh Tokyo hơn tám tiếng rưỡi đồng hồ. Nhưng nếu muốn đi xem ít giờ hơn, du khách cũng có thể đi bằng “suijo-bus” do các công ty du lịch bằng tàu trên sông Sumida cho thuê theo sự thương lượng và thỏa thuận riêng. Tàu sẽ đi theo nơi mình thích xem trên sông Sumida và vịnh Tokyo. Tại địa điểm cầu tàu Hinode Pier cũng bán vé cho nhiều chuyến tàu đi xem nhiều lộ trình khác nữa. Dịch vụ khai thác và phục vụ du lịch trên sông Sumida rất chuyên nghiệp, sáng kiến, đa dạng… nhờ vậy có thể thu nhiều ngân khoản mà du khách đem lại hàng năm.

Một trong những cách làm hấp dẫn hàng trăm ngàn đến một triệu du khách trong mùa hè là đốt pháo bông về ban đêm trên sông Sumida tổ chức mỗi năm vào tháng 8 dương lịch.

3-

Chỉ còn hai ngày nữa Nguyễn trở về lại Hoa Kỳ sau những ngày đi rong chơi Thái Lan và Nhật Bản với vị hôn thê.

Sáng nay, hai người bạn trẻ tay trong tay dạo chơi Tokyo ngày chót. Đi ngang qua khu các tiệm kim hoàn, Nguyễn rủ Michiko vào xem.

Nguyễn biết trong các tiệm kim hoàn tại đây, tất cả kim cương, đá quý đều phải nhập cảng. Trừ một mặt hàng là Ngọc Trai nổi tiếng là do Nhật bản nuôi cấy và sản xuất tại địa phương.

Ngọc Trai của Nhật Bản là một trong những mặt hàng trang sức nổi tiếng trên thế giới.

Nên Nguyễn nghĩ trong đầu ” đến Nhật mà mua tặng cho người yêu một món trang sức bằng Ngọc Trai để làm kỷ niệm thì còn gì bằng!”, chàng quay sang vị hôn thê và nói:

“Michiko, em hãy chọn hộ anh một bộ trang sức bằng Ngọc Trai gồm một đôi hoa tai ngọc trai, một chuỗi ngọc trai đeo cổ, một dây đeo tay kết bằng ba chuỗi ngọc trai ngắn và một nhẫn ngọc trai mà anh sẽ tặng em làm quà lưu niệm chuyến chúng mình đi du lịch này.”

4-

Những học sinh , sinh viên, người trẻ tuổi và trung niên sống tại Nhật bản rất thích các quán Karaoke.

Theo Nhật Bản Ngữ Karaoke có nghĩa “không có dàn nhạc”.

Dân địa phương đến hát karaoke rất hãnh diện về phát minh này của các kỹ sư Nhật vào thập niên 1960. Ngày nay, không những chỉ dân Nhật đủ mọi lứa tuổi chọn là môn giải trí mà là một hiện tượng lan tràn khắp mọi nơi trên địa cầu.

Michiko rủ Nguyễn tham dự môn giải trí phổ thông và hấp dẩn này để biết một sinh hoạt văn hóa của Tokyo.

Michiko đưa Nguyên đến “Big Echo Karaoke”. Đây là một trong những thương hiệu của nhiều cửa hàng tổ chức Karaoke có chỗ cho khách ngồi ăn uống để vui chơi.

Các nhà kinh doanh Karaoke, luôn luôn đáp ứng được thị hiếu của khách hàng nên đầy đủ bài bản , nhạc classics, jazz, pop tây phương, những enka tiếng Nhật, những chansons tiếng Pháp , pop songs tiếng Mỹ… trong những phòng trang bị dàn âm thanh tuyệt vời.

Những phòng ăn rộng có thể tổ chức tiệc tùng, mừng sinh nhật vừa ăn uống vừa hát tặng nhau, hát giúp vui, hát thi đua…đủ kiểu.

Michiko ghi tên hát một chanson tiếng Pháp “Tous les garcons et les filles de mon âge..” để tặng Nguyễn.

Từ ngày quen nhau, chưa bao giờ Nguyễn nghe giọng hát của vị hôn thê của chàng mà Nguyễn chỉ độc tấu dương cầm theo lời yêu cầu của Michiko để nàng thưởng thức.

Hôm nay nghe giọng Michiko ca một ca khúc Pháp, chàng rất ngạc nhiên và thích thú. Đến khi giọng ca của Michiko chấm dứt , các khách thưởng thức đều đứng lên vỗ tay nồng nhiệt tán thưởng.

“Giọng nàng hát hay, phát âm rất chuẩn, diễn tả tươi vui… như một ca sĩ chính hiệu.”

một vị khách trung niên ngồi bàn bên cạnh nói với bạn bè.

Michiko về lại chỗ ngồi bên Nguyễn. Nguyễn cầm tay nàng và đặt một nụ hôn vào đấy, chàng nói nhỏ vào tai nàng:

“Em có giọng hát tuyệt vời như vậy mà từ lâu em dấu kín. Lúc nghe em hát, anh cảm động lắm. Sau này, em học xong về lại Mỹ anh sẽ đệm nhạc cho em luyện giọng “ca vàng này ” hàng ngày, để hát trong ngày lễ thành hôn của chúng ta, em đừng từ chối nhé.”

5-

Hôm nay trời Đông Kinh bỗng trở lạnh vì những cơn gió thổi từ phía bắc bên Tây Bá Lợi Á tràn xuống.

Michiko đưa Nguyễn ra phi trường Narita mà mọi du khách thường gọi Tokyo New International Airport trên chuyến free shuttle bus của hãng Japan Airlines JAL.để trở lại Hoa Kỳ.

Những ngày vui bên nhau đã trôi qua rất nhanh, bây giờ chỉ đọng lại những hoài niệm.

Michiko cảm thấy buồn buồn như mùa thu Đông Kinh đang bao quanh bên nàng.

Nguyễn dặn vị hôn thê cố gắng học hành để quên nhung nhớ và giữ gìn sức khỏe. Hẹn ngày vui trùng phùng tại San José…khi nàng tốt nghiệp và trở về với Nguyễn.

“Sayonara!”(Tạm biệt!)

“Yoi goryoko o!” (Chúc thượng lộ bình an!”

[footer]