Cùng với “Tàu anh qua núi”, bản “Tình yêu bên dòng sông quan họ” là sáng tác để lại nhiều ấn tượng cho công chúng nhất của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa. Ca khúc thì đã quá quen với người yêu nhạc nhưng ít người biết được nhạc sỹ Phan Lạc Hoa đã lấy ý thơ từ bài “Đêm sông Cầu” của Đỗ Trung Lai. [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu đến quý vị bài thơ & bài hát.
Danh mục: Nhà thơ – Nhà văn
Phan Huyền Thư lên tiếng sau bài báo chấn động về cha
Sau bài viết của bác sỹ Sao Hồng kể về những năm tháng cuối đời của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa, dư luận có những thông tin trái chiều. Dưới góc độ sưu tầm và tổng hợp tư liệu về nhạc xưa, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bài phỏng vấn của đài truyền hình VTC với nhà văn – nhà thơ Phan Huyền Như, cô con gái của Phan Lạc Hoa và ca sỹ Thanh Hoa.
PHAN HUYỀN THƯ LÊN TIẾNG SAU BÀI BÁO CHẦN ĐỘNG VỀ CHA
(Nguồn: vtc.vn)
Nhà thơ Phan Huyền Thư nói như vậy về nội dung bài viết đang gây chú ý cực độ mấy ngày gần đây xung quanh cái chết bí ẩn của cha mình, nhạc sỹ Phan Lạc Hoa.
30 năm sau cái chết chấn động của người nghệ sỹ tài năng Phan Lạc Hoa, câu chuyện cũ lại được xới lên lần nữa qua lời kể của bác sĩ Sao Hồng, cậu sinh viên thực tập khoa Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai ngày nào. Ông đã từng có thời gian chăm sóc Phan Lạc Hoa những ngày bạo bệnh và có những kỷ niệm, những năm tháng không thể quên với người nghệ sỹ này.
Trong câu chuyện đó nhắc đến cả mối tình sôi nổi, cuồng nhiệt của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa với ca sỹ Thanh Hoa, người đã cùng ông xây đắp cuộc sống và có với nhau những người con. Trong đó có cuộc sống cô độc của Phan Lạc Hoa, những ngày chữa bệnh tại bệnh viện, những ngày buồn khi ông và vợ quyết định ly hôn và cuối cùng là cái chết do treo cổ tự tử để lại nhiều dấu hỏi đau đớn.

Trịnh Công Sơn & Thanh Thúy
Người yêu nhạc xưa mỗi khi nhắc đến Trịnh Công Sơn không thể không nói về Khánh Ly. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ thì người ca sỹ đầu tiên giới thiệu nhạc Trịnh đến với công chúng lại là “giọng hát liêu trai” Thanh Thúy. [dongnhacxua.com] xin giới thiệu một bài viết của nhà văn Từ Kế Tường để chúng ta có thêm tư liệu.

TRỊNH CÔNG SƠN & NHỮNG CẢM XÚC ĐẦU ĐỜI
(Nguồn: bài viết của tác giả Từ Kế Tường đăng trên NguoiDuaTin.vn)
Có nhiều tài liệu cho rằng giữa nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh và “Người em sầu mộng” Thanh Thúy có một mối giao tình đặc biệt ở “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy”.

Trong giới nữ ca sĩ thành danh và nổi tiếng trước năm 1975 có một giọng ca rất đặc biệt, không lẫn lộn với ai dù khán thính giả chỉ nghe thôi không cần nhìn thấy mặt người nữ ca sĩ đó cũng nhận biết rõ ràng, chính xác là Thanh Thúy. Cô ca sĩ này là người Huế, nói rặt tiếng Huế nhưng hát giọng Bắc, chất giọng trộn lẫn giữa Huế và Hà Nội vốn đã đặc biệt, nhưng khi con chim họa mi Thanh Thúy cất lên bằng giọng hát thì càng đặc biệt hơn. Đó là một chất giọng hơi khàn nhưng không đục, được Thanh Thúy luyến láy như phù thủy, nhấn nhá nhiều cung bậc trầm bổng rất liêu trai. Dường như Thanh Thúy sinh ra là để hát boléro và nếu nói Thanh Thúy là “nữ hoàng của điệu boléro” cũng không ngoa.
Nữ hoàng của điệu boléro
Thanh Thúy tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Thanh Thúy, cô sinh năm 1943 là người con xứ Huế thơ mộng, thuộc gia đình nền nếp theo đạo Phật. Do thân mẫu cô bị bệnh nan y nên Thanh Thúy cùng với gia đình vào sống ở Sài Gòn để tìm cách chữa trị. Gia đình Thanh Thúy ngụ tại một ngôi nhà phía sau chùa Kỳ Viên đường Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu ngày nay). Ca sĩ Thanh Thúy đi hát rất sớm, năm 16 tuổi. Lần đầu tiên Thanh Thúy xuất hiện trên sân khấu phòng trà Đức Quỳnh cạnh rạp chiếu bóng Việt Long đường Cao Thắng vào cuối năm 1959, khi vừa 16 tuổi. Rạp Việt Long sau được xây lại mang tên mới là rạp Văn Hoa Sài Gòn, bây giờ là rạp Thăng Long. Thanh Thúy xuất hiện ở đây cùng với ca sĩ Minh Hiếu và lập tức tiếng hát “liêu trai” của cô đã chinh phục được khán thính giả phòng trà vốn rất khó tính trong việc thưởng thức âm nhạc.
Sau đó Thanh Thúy thường xuyên xuất hiện ở phòng trà Anh Vũ rồi các chương trình Đại nhạc hội, chương trình phụ diễn Ca nhạc kịch của các rạp chiếu bóng. Những năm đầu của thập niên 1960 tên tuổi của ca sĩ Thanh Thúy đã lẫy lừng không chỉ trên các sân khấu phòng trà mà cả trên sóng đài phát thanh, đĩa nhạc, băng nhạc. Những ca khúc đã gắn liền với tên tuổi Thanh Thúy lúc bấy giờ như: Nửa đêm ngoài phố, Kiếp nghèo, Người em sầu mộng, Ngăn cách, Tàu đêm năm cũ… Hầu hết những tác phẩm âm nhạc được Thanh Thúy thể hiện thành công đều là điệu boléro của nhạc sĩ Trúc Phương và một số ca khúc của Y Vân.
Giữa lúc tiếng hát Thanh Thúy đang bay cao cùng với tên tuổi của cô trên bầu trời nghệ thuật và trong lòng khán thính giả ái mộ thì mẹ cô đột ngột lâm bạo bệnh và qua đời. Cái chết của mẹ đã ảnh hưởng rất nhiều tới con đường sự nghiệp và cuộc sống của Thanh Thúy trong giai đoạn này. Đêm đêm dưới ánh đèn sân khấu, trong tà áo dài tha thướt, mái tóc buông vai, đôi mắt sâu buồn, Thanh Thúy cất giọng hát đầy tâm trạng ấy khiến người nghe như nghẹn đi và Thanh Thúy quả thật là “Người em sầu mộng” của… bao người.

“Nghi án tình yêu” với nhạc sĩ họ Trịnh
Trong số lượng sáng tác khổng lồ của người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn để lại cho đời có hai ca khúc mà dư luận cho rằng chàng nhạc sĩ họ Trịnh viết để gửi gấm tâm sự mình đến với ca sĩ Thanh Thúy từ năm cô 16 tuổi, lúc mới bắt đầu đi hát. Đó là hai ca khúc đầu tay “Ướt mi” và “Thương một người”. Trong hai ca khúc này, có nhiều ca từ khiến người ta liên tưởng đến hình bóng Thanh Thúy như “đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca…”, “thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi, đôi vài gầy ướt mềm, người lạnh lắm hay không?”, “thương ai tà áo trắng, trông như ánh sao băng, thương ai cười trong nắng, nhẹ nhàng áng mây tan”.
Nhạc sĩ họ Trịnh thì đã mất, ca sĩ Thanh Thúy chắc không bao giờ nói ra uẩn khúc này nên có lẽ “nghi án” sẽ không bao giờ được làm rõ và cũng sẽ đi vào quên lãng. Tuy nhiên trong lúc tìm tư liệu để viết về ca sĩ Thanh Thúy, người viết bài này đã may mắn tìm thấy trong tác phẩm “Về một quãng đời Trịnh Công Sơn” của Nguyễn Thanh Ty có đề cập một giai thoại liên quan tới ca sĩ Thanh Thúy và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng như hai ca khúc “Ướt mi” và “Thương một người”.
Theo tư liệu này thì có lần Trịnh Công Sơn đã tâm sự rằng lúc ông đang ở trọ tại Sài Gòn để đi học, đêm nào cậu học trò mê giọng ca Thanh Thúy cũng tìm đến phòng trà cô cộng tác để nghe cô hát. Theo thời gian, hình ảnh cô ca sĩ có giọng hát như hút hồn người này đã in đậm vào lòng Trịnh Công Sơn, chính ông cũng tự hỏi rằng có phải mình đã yêu cô ca sĩ ấy chăng? Ông không dám trả lời vì lúc đó Trịnh Công Sơn chỉ là một anh học trò nghèo, chưa phải là nhạc sĩ, lại nhút nhát, trong khi Thanh Thúy đã là cô ca sĩ đang nổi tiếng, mỗi đêm kẻ đón người đưa tấp nập.
Không thể khẳng định được tình cảm của mình nhưng đêm đêm cậu học trò nghèo chỉ đủ tiền mua ly đá chanh cũng không thể thiếu vắng được tiếng hát và hình ảnh của Thanh Thúy. Một đêm nọ, Trịnh Công Sơn tới nhà hàng nổi Mỹ Cảnh nghe Thanh Thúy hát và đánh bạo viết vào mảnh giấy nhỏ yêu cầu Thanh Thúy hát bài “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong. Lời yêu cầu của Trịnh Công Sơn được Thanh Thúy đáp ứng hết sức bất ngờ với cảm xúc mãnh liệt. Và trong lúc hát bài này, Thanh Thúy đã không cầm được nước mắt khi tới đoạn: “Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành như nhủ trời xanh, gió ngừng đi, mưa buồn chi cho cõi lòng lâm ly…”.
Có lẽ Thanh Thúy nhớ tới mẹ cô với chứng bệnh nan y đang mỏi mòn chờ cô trở về nhà trong con hẻm nhỏ. Những giọt nước mắt xúc động mà Thanh Thúy cố kìm giữ đã đọng lại trên hai hàng mi đen dài của người ca sĩ đã khiến Trịnh Công Sơn vô cùng thương cảm. Sau đêm ấy nhạc sĩ họ Trịnh đã thức trắng để viết ca khúc đầu tay “Ướt mi” điệu slow, với ca từ rất buồn, rất đẹp và tuyệt hay.
Chàng nhạc sĩ đa tình họ Trịnh đã nắn nót chép ca khúc này cẩn thận luôn mang theo bên mình để có dịp là đưa tặng ca sĩ Thanh Thúy. Nhưng do tính nhút nhát, rụt rè, có chút mặc cảm nên bài hát “Ướt mi” cứ mang đi rồi lại mang về mấy lượt. Một hôm không dằn lòng được nữa, Trịnh Công Sơn đã đánh bạo tới ngồi sát sân khấu để chờ dịp thuận tiện đưa tặng bài hát. Sau vài lần “quyết tâm” thì dịp thuận tiện đã tới, Trịnh Công Sơn vội vã tiến lên sân khấu chỉ kịp đưa bài hát tặng Thanh Thúy, nói lí nhí mấy câu không rõ lời, rồi quay xuống hàng ghế khán giả với sự hồi hộp khó lường. Đêm đó Trịnh Công Sơn không ngủ được vì hồi hộp, lo lắng, không biết số phận “đứa con tinh thần ” của mình ra sao, có được Thanh Thúy đón nhận? Phải mất đến 3 tuần lễ, giữa lúc hoàn toàn tuyệt vọng thì một đêm kia đến phòng trà nghe Thanh Thùy hát, Trịnh Công Sơn hoàn toàn bất ngờ khi Thanh Thúy xuất hiện, ra hiệu cho ban nhạc ngưng khúc dạo đầu để cô nói mấy lời.
Thanh Thúy đã nói rằng đêm nay sẽ trình bày một ca khúc mới của một nhạc sĩ rất lạ, chưa có tên tuổi đã có nhã ý gửi tặng cho cô. Đó là nhạc phẩm “Ướt mi” của Trịnh Công Sơn và hy vọng đêm nay sẽ có mặt tác giả ngồi phía dưới để Thanh Thúy được nói mấy lời cảm ơn. Thế rồi Thanh Thúy đã đưa bản chép tay bài hát “Ướt mi” cho ban nhạc đệm và cô cất giọng hát: “Ngoài hiên mưa rơi rơi, lòng ai như chơi vơi. Người ơi nước mắt hoen mi rồi, đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca…”. Khỏi phải nói, người sung sướng nhất chính là tác giả bài hát đang ngồi phía dưới. Thanh Thúy hát xong, cố ý nán lại sân khấu để chờ người đã tặng nhạc. Lúc này, Trịnh Công Sơn thu hết can đảm bước lên nói lời cám ơn Thanh Thúy vì đã hát bài hát “Ướt mi” rất hay. Thanh Thúy đã rất ngạc nhiên và tỏ ý muốn nói chuyện riêng với tác giả. Cô mời luôn Trịnh Công Sơn về nhà và cả hai ra đón taxi. Nhà Thanh Thúy ở sâu trong con hẻm nhỏ và đây chính là hình ảnh, cảm xúc để chẳng lâu sau đó Trịnh Công Sơn sáng tác ca khúc ” Thương một người”.
Như vậy, về phần tư liệu đã có đủ cơ sở để chứng minh giữa Trịnh Công Sơn và Thanh Thúy có một mối giao tình đặc biệt khi tên tuổi cô vừa mới nổi lên dưới ánh đèn sân khấu. Đồng thời, Trịnh Công Sơn cũng báo hiệu một tài năng âm nhạc qua hai tác phẩm đầu tay “Ướt mi” và “Thương một người”. Sau này cả hai đều nổi tiếng. Còn chuyện tình cảm, yêu đương phát triển hay dừng ở mối duyên văn nghệ thì chỉ có người trong cuộc mới biết rõ. Dư luận đã đặt ra nghi án có một chuyện tình thật đẹp gữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Thanh Thúy từ lúc hai người còn khá trẻ có lẽ cũng từ giai thoại và tư liệu này chăng?

Giọng hát “không đụng hàng”
Có thể nói cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960 ca sĩ Thanh Thúy nổi lên như một hiện tượng đặc biệt và độc đáo bởi giọng hát thiên phú của cô. Thật sự, trước năm 1975, giới ca sĩ không có hiện tượng trùng lắp, mỗi người sở hữu một giọng ca riêng không ai giống ai mà ngôn ngữ bây giờ gọi là ” không đụng hàng” ở giọng ca nam cũng như nữ. Từ Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, đến Jo Marcel, Evis Phương… từ Thái Hằng, Thái Thanh, Lệ Thanh, Kim Tước, Hà Thanh, Quỳnh Dao đến Thanh Thúy, Minh Hiếu hay Lệ Thu, Khánh Ly sau này khi nghe giọng ca họ cất lên không cần nhìn thấy mặt cũng biết ca sĩ ấy là ai. Trong đó, giọng ca Thanh Thúy là một sự độc đáo hiếm có, bởi lẽ sau giọng ca Thanh Thúy khó tìm được một giọng ca thứ hai nào tương tự như vậy.
Năm 1962 Thanh Thúy được bầu chọn là Hoa hậu Nghệ sĩ. Đến giữa thập niên 60, chính xác là năm 1964 người ái mộ giọng hát của cô bất ngờ khi được tin Thanh Thúy “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những tưởng giọng hát Thanh Thúy sẽ chỉ còn vang vọng trong băng, đĩa, còn “người em sầu mộng” sẽ không bao giờ xuất hiện trở lại. Nhưng không ngờ, sau khi sinh con trai đầu lòng, Thanh Thúy đã trở lại với sân khấu ca nhạc và đêm đêm đứng dưới ánh đèn màu tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình. Thanh Thúy cùng gia đình sang Mỹ định cư những ngày cuối tháng 4/1975.
Từ Kế Tường
[footer]
Phố Huyện Chiều Em Nhớ (Hình Phước Liên)
[dongnhacxua.com] có đề cập đến nhạc sỹ Hình Phước Liên trong một bài viết tri ân nhạc sỹ Thanh Tùng khi nhắc đến sáng tác chung giữa hai nhà nhạc sỹ (bản “Cây đàn guitar của Lorca”). Riêng với cá nhân chúng tôi, nhạc sỹ Hình Phước Liên là một người anh đáng quý khi cùng tham gia vài hoạt động văn nghệ của tỉnh Phú Khánh ngày ấy (từ năm 1989 tách ra thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa). Hình Phước Liên cũng chính là em trai của nhạc sỹ Hình Phước Long, tác giả của “Gần lắm Trường Sa ơi” mà chúng tôi đã có lần giới thiệu.
Nhạc sỹ Hình Phước Liên. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net
[dongnhacxua.com] còn nhớ vào thập niên 1990, bản “Phố huyện chiều em nhớ” của Hình Phước Liên từ vùng quê Ninh Hòa, bay sang tận Mỹ rồi trở về lại Việt Nam qua tiếng hát của ca sỹ Lâm Thúy Vân trong một đĩa CD của Trung tâm Asia.
Để người yêu nhạc có thêm tư liệu về nhạc sỹ Hình Phước Liên, về huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa) và con sông Dinh, chúng tôi xin mạn phép trích đăng bài viết của tác giả Dương Tấn Long.
SÔNG DINH QUA THI CA
(Nguồn: tác giả Dương Tấn Long đăng trên ninh-hoa.com)
Một buổi tối, hai gia đình: tôi và em tôi là Tấn Sơn rũ nhau đến quán ca nhạc loại “hát với nhau nghe” nằm trên con đường tập trung nhiều hàng quán ăn chơi có tiếng ở trung tâm Sài Gòn. Thỉnh thoảng vẫn thế, vì Sơn thích ca hát và giọng tốt nên thường sưu tầm những địa chỉ “ tầm cở” để thử tài, và cứ mỗi lần Sơn rũ là tôi không từ chối. Với máu nghề nghiệp và thích nghe nhạc, đi chơi như vậy tôi được thưởng thức nhiều mặt. Được biết đây là một quán mới mở, dành cho giới trẻ nên cách trang trí rất ấn tượng, hình khối, đường nét mặt tiền mạnh mẽ, với hệ thống đèn nhiều màu rực rỡ. Bước vào cửa đã nghe tiếng nhạc disco với âm lượng quá cở, tiếng cười nói của từng nhóm bạn trẻ tạo một thứ tiếng ồn vượt mức chịu đựng ở cái tuổi trung niên như tôi.
Gian phòng chữ nhật không đủ rộng, chính giữa một bar rượu hình oval đã đầy các thanh niên nam nữ ăn mặc rất thời thượng đang ngồi trên các ghế cao, hướng vào giữa. Hai bên, sát tường là các bàn nước đặt dọc ở trên nền cao gần cả mét và đầu kia là một sân khấu nhỏ. Các hình thức, chi tiết nội thất thể hiện như trong một chiếc tàu biển: – những mỏ neo treo lủng lẳng, sợi dây thừng giăng đong đưa, chiếc vô lăng như bánh xe luân hồi to đùng gắn cuối phòng, các ô cửa tròn và các nữ tiếp viên xinh đẹp, phơi phới với trang phục như lính hải quân váy cực ngắn, đang rộn ràng trò chuyện với khách. Mật độ trang bị nội thất và con người nơi đây khá cao. Vì đi với gia đình nên chúng tôi tìm một nơi yên ổn, kín đáo ở góc cuối phòng và nhờ vậy tôi có thể quan sát được rộng và đầy đủ.
Giờ hát với nhau đã đến, tiếng nhạc phát ra từ máy chợt tắt, tiếng cười nói giảm đi, một số lớn khách đã đổi tư thế ngồi, quay về hướng sân khấu, không khí tỉnh lại. Một MC nam đẹp trai, tuổi trên 35 bước ra sân khấu, rất tự tin và tươi cười chào khán phòng, cùng lúc ban nhạc với vài nhạc công cũng tiến đến nhạc cụ. Sau phần giới thiệu vào đầu chương trình ca nhạc hằng đêm của quán, một khúc nhạc intro trổi lên như là thứ nhạc thiều riêng, với âm lượng vừa phải và giai điệu rumba khoan thai quen thuộc, tôi cảm thấy thật dễ chịu. MC vào đề rất tự nhiên, hàng loạt từ hoa mỹ được tung ra để giới thiệu một ca khúc với tốc độ chóng mặt, tôi há hốc theo dõi với chút kính nể khả năng phát thanh trôi chảy như thuộc bài của chàng MC này. Mặc dù đã nói rất dài nhưng tôi vẫn chưa đoán được bài hát tên gì, chỉ biết rằng đó là một chuyện tình lâm ly bi đát. Quay lại Sơn tôi hỏi :
– Chàng này ở đâu ra vậy ?
– Tên là HT, em có quen, làm ở nhà văn hóa quận X. chuyên hướng dẫn các chương trình, ảnh mời em đến đây.- Sơn trả lời.
…. Và có dài thì cũng phải có đoạn kết, đó là bài “hoa sứ nhà nàng”… một chàng tướng to, khỏe cở anh Vọi trong “trống mái” của Khái Hưng, mặc chiếc áo rất hoa lá cành, ôm sát người, phơi lồ lộ những cơ bắp! rời bar rượu từ từ tiến lên sân khấu với dáng vẻ hiên ngang như đi chiến đấu, khán giả vỗ tay nồng nhiệt, một tín hiệu sinh động, lạc quan khởi đầu, mấy đứa nhỏ con tôi và con Sơn thích chí vỗ tay hưởng ứng theo. Tôi thấy lùng bùng hai tai. Có lẽ chàng này đi rất sớm và đã kiếm ngay xuất đầu tiên.
Câu vô đề -“đêm đêm ngưởi mùi h… mùi hương của nhà nàng” thấy lạnh cả người, một chất giọng eo ẻo, pha cải lương đúng chất với bài hát nhưng không tương ứng với tướng mạo của chàng lực sĩ tí nào, chàng say sưa, rên rĩ diễn tả nỗi đau khổ, có thể xếp vào bậc thầy của sến …không khí khán phòng tỏ ra nhẫn nại, chia xẻ, chờ phút cáo chung của khúc bi ca, thế nhưng kết cục lại có hậu với tràng pháo tay như pháo tết và vài tiếng huýt sáo inh tai, anh “Vọi” một lần nữa hiên ngang trở về bar rượu. MC lại xuất hiện, rất hào hứng và chợt xuống giọng ra vẻ triết lý cao siêu đầy kịch tính, nói về thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc này…Một lần nữa tôi được chứng kiến tài nghệ của MC – đúng là một cao thủ, chữ nghĩa có thừa, – à, thì ra là một bài hát của Trịnh Công Sơn, bài “phúc âm buồn”. Một cô gái khoảng hai mươi lăm, mặt đầy đặn, mắt đeo cặp kính cận nặng, bước lên sân khấu..” người nằm co, như loài thú, khi mùa đông về…người nằm yên không kêu than chết trên căn phần…người còn đứng như tượng đá…” khán phòng trầm lắng, một chút chùng lòng vì lời hát thấm sâu, chất giọng alto khoẻ khoắn, đầy dẫn dụ ngọt ngào, bài hát được kết thúc với sự ngưỡng mộ trân trọng. Và không khí như nóng lên khi MC giới thiệu một tay chơi gầy gò, mặc bộ Jean rách rưới bạc phết màu, điệu twist được trổi lên với bài “60 năm cuộc đời”, tôi chợt nhớ đến giai điệu kích động được phổ biến, ngự trị trong các vũ trường và các phòng trà Sài gòn trong thập niên 60 với chiếc quần ống túm là biểu tượng. “…ới..ới đời sống là thế không là bao, em ơi có bao nhiêu 60 năm…” Chàng trai vừa hát vừa lắc theo twist rất điệu nghệ, thỉnh thoảng chàng ứ…ứ nghe rất bốc (không thua gì Hùng Cường). Các nhạc công được dịp cũng xã hết công suất.
Những bạn trẻ bị cuốn hút với những thân hình cựa quậy và tay chân quờ quạng theo, với hậu quả là tiếng pháo tay, la hét dậy trời của đám cuồng nhiệt. Sau trận bị trấn áp ngạt thở bằng âm thanh ấy tôi nghe ê ẩm cả người, đến nhân vật thứ tư tôi không còn đủ sinh lực chăm chú theo dõi mà quay về nói chuyện với gia đình, nhưng lần nữa lại phải quay về hướng sân khấu vì có một chàng trông rất lãng tử không hát mà đang nói điều gì, khán phòng bớt ồn. Nhìn cách ăn mặc có chút lè phè và cách diễn đạt lại lè nhè, tôi cảm nhận chàng là một bợm nhậu hơn là ca sĩ, thử lắng nghe ??!,- thì ra chàng muốn đọc thơ, môt bài thơ tự biên, tự diễn nói về một nghịch lý trong tình yêu mà chàng đã trãi qua. Tôi phải quay người lại để nghe, một cảm giác vừa khó chịu nhưng thích thú; khó chịu vì nơi này đâu phải là chỗ của thơ thẩn, và thích vì đụng đến lãnh vực hảo của mình. Chiến hữu này xem chừng bị lạc lõng nhưng vẫn tự tin, mắt lim dim đầy tâm trạng, chậm rãi và một chút xuất thần, hai câu cuối chàng lại ngẫu hứng ngâm lên nghe thống thiết, bài thơ dài vừa phải, đôi chỗ cảm thấy “phê” vì những ý tứ độc đáo, có thể xếp vào loại khá. Thật ái ngại cho chàng,vì giữa chốn “đạn bom khói lửa” thế này mà dám bay bổng như vậy, nhưng khán giả tỏ ra lịch sự và cho một tràng pháo tay không kém phần nhiệt liệt, một nửa để khích lệ tiết mục lạ, một nửa để tống tiễn cho nhanh?!.
Tưởng bở, chàng thừa thắng xông lên, quyết tâm không chịu rời micro và tiếp tục giới thiệu cho khán giả thưởng thức thêm một tiết mục nữa, lần này chàng hát chứ không phải đọc thơ. Chàng thật can đảm trước một lực lượng “ca sĩ” hùng hậu nộp đơn xin hát đang hăm hở, chờ đợi đến lượt mình, bài thơ vừa rồi đã làm nhụt chí và ngao ngán nhiều tay chơi nhưng chàng nào có hay biết, vẫn ung dung tự tại, bình thản tiếp tục. Bài hát được giới thiệu với tựa đề “ con sông quê hương”- nói về một con sông ở Bình Định của nhạc sĩ Xuân An, thoáng qua tựa bài hát nghe không quen và tác giả càng không biết, có chăng một nhận xét là chàng này thích hàng lạ, chỉ trình diễn những cái người khác chưa biết. Vẫn hào hứng và tự tin, sau khi dặn dò, chỉ vẽ các nhạc công, tiếng nhạc trổi lên, chàng cất tiếng ca: – “ bình thường, bình thường thôi bạn ơi…” rất hồn nhiên và lạc quan.-“ vẫn núi giăng mây, vẫn lúa xanh đôi bờ…”. Đến đây thì tôi thấy ngờ ngợ, bài hát hình như đã nghe đâu đó, giai điệu và tiết tấu nhẹ nhàng, tha thiết, ca từ đơn giản, gần gủi, một air nhạc xưa cũ ?! bài viết theo nhịp 2/4, không trang trọng, tươi vui, thướt tha cho những dòng sông theo kiểu valse như “blue Danube”, “Danube waves” hoặc “dòng An Giang” cũng không hào hùng như “Bạch Đằng Giang” hay “Sông Lô”.
Tôi cố suy nghĩ để tìm những yếu tố quen thuộc của bài hát, nhưng sinh hoạt ồn ào kiểu này thật khó mà moi lại ký ức, đang miên man tôi chợt nghe Sơn lẩm bẩm – Uả, bài này của anh Phước Liên viết về con sông Dinh đây mà. Vừa lúc ấy tôi chớt nhớ ra tựa bài hát “Ơi con sông Dinh” và Sơn cũng gật đầu. Chàng ca sĩ rất thiết tha và tôi rời khỏi thực tại “…ơi con sông Dinh yêu thương và tháng ngày em thơ ấu, sớm tối qua cầu dừng chân ngắm xuồng câu, con sông quê hương chảy từ buồng tim của mẹ, ôm con chờ chồng rồi hoá đá vọng phu….” Nhớ lại bài hát này lần đầu tiên tôi biết được là nó xuất hiện trong tập bài hát mà Phước Liên in chung với nhạc sĩ Đổ Trí Dũng của hội văn học nghệ thuật Khánh Hòa xuất bản, Liên đã gởi tặng tôi trong những năm tháng khi tôi còn mãi mê với những công trình xây dựng ở Đồng Tháp. Sở dĩ tôi nhớ và có ấn tượng với bài này vì lần đầu trong đời tôi thấy được một bài hát viết về con sông Dinh quê mình và tác giả lại là người bạn thân. Khi ấy tôi đã phải viết thư tới Liên với nhiều lời lẽ ca ngợi và cám ơn. Sau đó tôi cứ áy náy hoài về một ý sửa lưng bạn, vì trong bài hát có câu“…Sớm tối qua cầu dừng chân ngắm xuồng câu…” tôi nói đùa rằng – đứng trên cầu Dinh chỉ thấy ghe thôi chứ làm gì có xuồng mà ngắm”, ý tôi muốn nói rằng phương tiện đi trên sông Dinh đoạn ấy người quê mình chỉ gọi bằng ghe. Tôi mạnh dạn nói lên điều này vì Liên là bạn cùng xóm Rượu với mình, không xa lạ với con sông Dinh, có đi đâu cũng phải theo con đường Nguyễn Trường Tộ mà về, có nghĩa là từ thơ ấu đến lúc vào đời, dân xóm Rượu cứ phải đi, về dọc theo sông Dinh nên hình ảnh gì của sông Dinh cũng đều được chứng kiến và khắc sâu vào tâm trí mỗi người. Sau này khi quay về Sài Gòn công tác và Tấn Sơn vào Sài gòn học, anh em ở chung nhà, thỉnh thoảng tôi có nghe Sơn hát và được biết rằng bài hát này khá phổ biến ở Ninh Hòa.
Cứ mãi suy nghĩ về chuyện cũ mà quên thực tại Saigon by night tạp lục, tôi với Sơn còn miên man với chuyện bài hát thì may mắn quá, chàng lãng tử đã nhường sân khấu lại cho MC và người khách được mời lên kế tiếp chính là Tấn Sơn, tôi vội nói với Sơn là sẵn dịp này khéo léo đính chính lại tên và tác giả bài hát mà vị khách vừa rồi nhầm lẫn. Sơn không vội vàng rời chỗ ngồi và như đang do dự điều gì, bình thản một chút, Sơn từ từ bước về sân khấu với phong thái chửng chạc và trịnh trọng tìm một vài lý lẻ hay đẹp giới thiệu bài hát của mình. Bài hát “Xin còn gọi tên nhau” của Trường Sa là bài hát tôi rất thích, cùng những bài hát quí hiếm khác của cùng tác giả như “Mùa thu trong mưa”. Bài này tiết tấu sôi nổi nhưng thiết tha; lúc dồn nén, lúc dàn trãi, tạo một hiệu ứng mạnh mẽ, phải récitatif và nhấn nhá như Lệ Thu mới lột tả hết độ tuyệt cuả nó, nhất là những đoạn cao trào. Khánh Ly tuy mượt mà và ngọt ngào ở bài này nhưng diễn đạt đều quá. Sơn trình bày cũng khá. Tôi đã được nghe Sơn hát nhiều lần nhưng không nhàm chán, có lẽ là một trong những bài ruột của sơn và hình như hôm nay Sơn ưu ái tặng tôi món đặc sản này !? – Nhạc đã hay, lời và nội dung cũng không kém. “ Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng, chiều đông đưa những bước chân đau mòn …còn ai giữa mênh mông đời mình, nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ ….. rồi trong mưa gió biết ai vỗ về…..tình trong cơn ngủ mê, rồi phai trong hàng mi.….” Một nỗi đau tình nhẹ nhàng, một đối xử thật vị tha và bao dung với người yêu dù cuộc tình đã vỡ, lúc nào cũng lo toan cho một cánh chim bay xa ….Khán giả vỗ tay rất nhiều khi Sơn hát xong, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy điều gì đó đang vướng víu, cả nhà vỗ tay rất dài để ủng hộ gà nhà nhưng tôi lại lơ đễnh cho đến khi Sơn có vài lời đính chính :
– Thành thật cám ơn bạn vừa rồi đã trình bày rất hay bài hát ngợi ca con sông quê hương chúng tôi, chúng tôi rất xúc động vì lâu lắm rồi mới được nghe lại. Tác giả bài hát là người anh cùng xóm với chúng tôi tên là Hình Phước Liên hiện đang sống tại Nha Trang, con sông mà bạn vừa hát tên là sông Dinh chảy qua thị trấn Ninh Hòa một huyện của tỉnh Khánh Hòa, bài hát ấy tên là ”ơi con sông Dinh…”
Sau những lời nhẹ nhàng phủ nhận toàn bộ cái “trật lất” của bạn một cách tinh vi, Sơn đã “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Tâm trạng phức tạp, khó chịu trong tôi mới được giải tỏa, tôi nghĩ rằng – nhiều người, nhất là các bạn trẻ nơi chốn ăn chơi, náo nhiệt như thế này có mấy ai để ý đến bài hát xa lạ, bình thường hơn những gì bình thường ấy. Lẽ ra cũng chẳng cần đính chính nhưng sao lúc ấy tôi vẫn muốn Sơn làm như vậy. Trên đường trở lại chỗ ngồi Sơn ghé nơi vị khách hát nhầm nói điều gì rất lâu ra bộ vui vẻ, đồng cảm. Tôi thấy mọi việc như vậy là ổn, đã không xãy ra phiền lụy gì. Sơn về chỗ ngồi, cười mỉm và được vợ con khen nức nở pha chút khôi hài, con gái tôi rút cành hoa hồng duy nhất đang cắm trên chiếc bình trang trí đặt trên bàn đưa cho bé Khiêm tặng bố. Tôi định hỏi Sơn về cuộc kỳ ngộ vừa rồi thì lại thấy một người đi về hướng bàn của mình, nhìn kỹ tôi biết là chiến hữu ấy đang tìm đến.
– Chào các anh chị, em tên Định, các anh chị đều ở Nha Trang phải không ?
– Đúng rồi. Tôi cười trả lời và đưa tay, chàng ra vẻ kính cẩn đưa cả hai tay nắm chặt
– Vừa rồi em giới thiệu tầm bậy quá, cũng may các anh nói cho em biết, chứ hồi giờ em cứ nghĩ bài hát như vậy.
Nghe Định phân trần trong hơi men, tôi vội đỡ lời :
– Vui vẻ như vậy là sướng rồi, có gì quan trọng lắm đâu, ai biết đúng sai ra sao, Định hát hay đấy chứ, ờ mà sao em biết bài hát ấy.
Chàng bắt đầu kể –… hồi em học Đại Học Thủy Sản Nha Trang có thằng bạn ở chung phòng ký túc xá, nó hát bài ấy rất hay và em thích quá nên nhờ nó chỉ em, nó nói xuất xứ bài hát như em giới thiệu trên sân khấu vừa rồi, mình cũng ham vui, hay đi ca hát và bài này là bài ruột của em đấy, anh thấy em hát bài này được không? .
– Tuyệt vời rồi còn gì, nếu chọn là bài ruột thì ráng mà nhớ tên tác giả, tên bài hát, và thuộc lời đầy đủ nhé, lần sau mà còn trật nữa là kêu cảnh sát phạt đấy.
– Định cười huề, xoa xoa vai tôi – tha cho em, như vậy là thuộc nhiều lắm rồi !
– Định hát có hồn lắm, anh nghe mà nhớ nhà, nhớ quê hương Ninh Hòa, hồi học ở ngoài đó Định có ra Ninh Hòa lần nào chưa?
– Em có nghe nói chứ chưa ra ấy bao giờ, tiếc quá !, nghe nói Ninh Hòa đẹp lắm phải không anh? Hình như thằng bạn dạy em bài hát quê đâu ngòai đấy.
Tôi chẳng biết phải trả lời sao với câu hỏi ít vô tư và khá tế nhị này! Định một thoáng nghĩ ngợi bồi thêm một câu rất tâm lý:
– Cảnh vật thiên nhiên và con người Khánh Hòa em thấy đều đẹp cả, các anh chị đúng là người Khánh Hòa, em rất cảm mến…bữa nào em mời mấy anh đi lai rai nói chuyện cho vui, em có mấy chỗ hay lắm.!
Qua tiếp xúc, tôi ghi nhận Định là một con người chân tình, có tâm hồn nhưng ẩn chứa một chút hoang đàng. Rất biết ơn Định vì Định đã quay ngược được dòng suy nghĩ của chúng tôi đến 180 độ trong một khung cảnh khó mà những cảm xúc loại ấy xen vào. Buổi tối hôm ấy trên đường về tôi cứ miên man vô cớ, vùng ký ức đang bị khuấy động, một cảm giác bâng khuâng xen lẫn những hân hoan. Về đến nhà tôi đã phải điện thọai ngay ra NhaTrang để chia xẻ một nỗi niềm rất thực nhưng cũng rất mơ hồ với Hình Phước Liên dù đã gần 11 giờ đêm, đây cũng là cái cớ để tôi liên lạc với Liên và nói một số chuyện vì vài tháng rồi không tin tức về nhau, tôi nghỉ rằng dù có phải bị đánh thức lúc này chắc Liên không trách cứ gì tôi . Và rồi Liên có mặt bên kia đầu dây. Sau những lời chào hỏi như mọi khi, tôi báo cho Liên biết – rất mừng vì đã tìm được hai đĩa cd nhạc hải ngọai mà Liên giới thiệu là album “Dòng sông Kỷ niệm” do Asia phát hành và Lâm Thúy Vân hát, trong đó có bài “phố huyện chiều em nhớ” của Liên và album “Con gái” do Hạ Vy thực hiện, trong đó có 2 bài của Liên là “Hồn nhiên như lá” và “Mưa xanh”, nhận xét chung về những bài hát trên là những cảm xúc nhẹ nhàng, gợi tả thật sinh động về vùng đất kỷ niệm, với nhiều chất Ninh Hòa, rất tiếc bài “Phố huyện chiều em nhớ” giọng Lâm Thúy Vân yếu quá nên nghe không rõ, nhất là ở những nốt xuống thấp, Liên nói – chất giọng như Lâm Thúy Vân rất thích hợp với tính cách bài hát nhưng nếu được Ngọc Lan hát thì hay hơn, giọng Ngọc Lan tuy mong manh nhưng vẫn rõ ràng, có khả năng len lỏi đến tận cùng. Tôi có nói vui với Liên là – bạn chắc đã biết câu danh ngôn “chỉ vì một cái má lúm đồng tiền mà phải cưới nguyên một cô gái “ và ở đây “ chỉ vì một hai bài hát của bạn mà tôi phải mua đến 2 đĩa nhạc đấy nhé…” tôi đã phải nghe tới, nghe lui để thắm thía, để mong tìm kiếm những gì sâu kín, cho đáng đồng tiền bát gạo! (những năm tháng ấy đĩa nhạc CD xuất hiện ở VN chỉ có con đường mang từ nước ngoài về và rất đắt cũng như rất khó kiếm, nhất là những album nhạc không phải nằm trong thị hiếu của của đông đảo người nghe, không phải được copy tại chổ nhiều và rẽ như hiện nay, ngay cả lúc ấy Liên cũng không có những đĩa nhạc trên).
Liên kể lại việc ca sĩ Hạ Vy nhân chuyến về thăm quê, muốn tìm một số nhạc phẩm viết về quê hương Khánh Hòa để ra album riêng, sau khi Liên cho nghe một số bài hát, Vy thấy thích nên mang đi và những bài hát ấy xuất hiện ở hải ngọai là do vậy (quê Hạ Vy ở xã Ninh Diêm, Ninh Hòa. Trước khi sang Mỹ, Vy là ca sĩ của đoàn Hải Đăng- Khánh Hòa) . Cuối cùng tôi nói về sự kiện đi ca hát tối nay, Liên lắng nghe tỏ vẻ thích thú, Liên nói rằng bài hát “ơi con Sông Dinh” ra đời khoảng năm 1981. Ðó là một nội dung mà Liên ấp ủ rất lâu, với tâm nguyện rằng mình là người Ninh Hòa, đã sáng tác nhiều bài hát ca ngợi nhiều thứ nhưng chưa viết gì về Ninh Hòa, về sông Dinh là không ổn, khi ấy Liên công tác ở Ninh Hòa và vợ Liên thì đang làm việc ở Nha Trang nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ phải vào Nha Trang để ổn định cuộc sống gia đình và ngày đó phải giã từ vùng đất thân yêu, lìa xa con sông Dinh yêu dấu và ý tưởng ấy đã thôi thúc Liên viết nên bài hát. Bài này được trình diễn nhiều lần, nhiều nơi trong các chương trình văn nghệ ở Ninh Hòa và được nhiều người Ninh Hòa trong giai đoạn ấy biết đến.
Liên nói thêm rằng anh Hình Phước Long có viết ca khúc “nhớ sông Dinh” cũng rất hay. Chớp được thông tin đó tôi hỏi dồn – Liên có nhớ lời và hát được không ? Liên với giọng khàn khàn đặc biệt, tuy hát không hay nhưng thường các nhạc sĩ nắm bắt được ý tứ bài hát, có khả năng diễn đạt tinh tế nên khi hát dễ tạo cảm xúc tốt “… có đi là đi trăm nẻo, có vượt là vượt nghìn đèo,vẫn nhớ tới quê hương mình có dòng sông Dinh nho nhỏ, vẫn nhớ bóng tre êm đềm, nghiêng mình soi bóng sông…” , nghe Liên hát tôi cứ ngỡ những lời nhắc nhở của con sông quê. Cũng như Liên, nhạc sĩ Hình Phước Long cũng gởi gấm tâm tư, nỗi lòng của mình, một lúc nào đó sẽ phải ly hương, mang tâm trạng tha phương, tự nhủ lòng luôn nhớ về quê nhà, điều ấy bắt gặp ở câu tâm đắc và chủ đạo nhất của bài hát “ơi con sông Dinh” của Liên, như là thông điệp gửi đến tất cả những người con Ninh Hòa xa xứ. Định vừa rồi đã hát thiếu hoặc sai chỗ nào đó nghe là lạ. Tôi đang ngập ngừng chưa nhớ rõ hết thì Liên tiếp lời bài hát“… nhưng nếu tôi xa dòng nước xanh quê nhà là trọn đời tôi sẽ nghèo đi nỗi nhớ, như con sông phơi bãi cát hoang cằn khô…” thật đúng và ý vị cho sự so sánh này, vì không gì buồn và thất vọng khi thấy dòng sông xinh đẹp ngày nào chỉ còn trơ lên một vùng rong rêu, bùn cát giữa mùa khô hạn, những dáng vẻ thơ mộng, những huyền hoặc vô hình chỉ tồn tại như là sự sống, như là phần hồn khi dòng nước còn hiện diện, còn êm đềm trôi giữa tháng ngày. Ta thử nghĩ một lúc nào đó, những hình ảnh quê nhà sẽ không còn nằm trong dòng chảy của nỗi nhớ thì liệu một cuộc sống đích thực của quãng đời ly hương có tồn tại, thân xác ta như bãi cát của lòng sông phơi trơ, như con sông đã mất đi sự sinh động….Liên im lặng một lúc, rồi nói vu vơ vài ý không ăn nhập gì vào những điều tôi mới gợi lên, có lẽ Liên muốn dấu cảm xúc sâu kín của mình, phải chăng là một thứ hạnh phúc của người trồng hoa, dù chỉ là một thỏang hương nhưng lại rất ngào ngạt tận sâu thẳm tâm hồn, nhất là thứ hương đồng nội đã dễ gợi lên một vùng trời đầy hình ảnh của quê hương và kỷ niệm.
Nói về những ca khúc viết về sông Dinh, tôi còn nhớ buổi ra mắt tập thơ “Bóng lá” của Phạm Dạ Thủy ở quán cà phê Phong Lan Ninh Hòa. Cái đêm hôm ấy trời mưa từ buổi chiều nhưng khách mời ở xa vẫn đến đông đủ: – từ Huế, Hà Nội, Nha Trang và tôi về từ Sài Gòn. Với những bài nhận xét tinh tế, bình phẩm thơ rất xúc tích, khá bài bản với nhiều ngợi khen, cổ vũ của những nhà thơ đi trước, có tên tuổi trong giới văn học Khánh Hòa và Việt Nam. Hôm ấy cũng có nhiều giọng ngâm điêu luyện của câu lạc bộ thơ nữ Khánh Hòa làm cho những bài thơ được bay bổng và ngào ngạt hơn. Chắc chắn Phạm Dạ Thủy rất sung sướng và hạnh phúc, vì buổi ra mắt tập thơ như vậy là thành công. Riêng tôi một cảm xúc mạnh mẽ được ghi nhận khi Phạm Dạ Thủy giới thiệu bài thơ “Nhớ quê “ không nằm trong tập thơ vì chị mới viết riêng tặng các bạn trong hội thân hữu Ninh Hòa tại Sài Gòn mà tôi có mặt hôm đó. Baì thơ được nhạc sĩ Hình Phước Liên phổ nhạc rất xuất sắc cũng để riêng tặng tôi cùng vài bạn. Bài hát được ca sĩ Kim Khánh, một ca sĩ có giọng ca “dĩ vãng” như Ánh Tuyết, là ca sĩ nổi tiếng cuả thành phố Nha Trang trình bày. Nôị dung bài hát vẫn trung thành với lời thơ :
“…………………………………
Thoắt đó tóc em giờ chớm bạc
Thơ ngây gởi lại cuối trời xưa
Nhớ quê mấy độ buồn em hát
Lời trôi lênh đênh trên sông mưa
……………………….
Tháng ngày tơ tưởng dòng sông cũ
Vạt cỏ mềm xanh mướt tuổi thơ
Cánh bướm thắm, con chuồn chuồn đỏ
Bay chập chờn trong những giấc mơ.
……………………………………………“
Vẫn là dòng sông Dinh lãng đãng trong thơ được âm nhạc chấp cánh bay cao đã tạo một sức truyền cảm gấp nhiều lần. Bài hát thiết tha, đầm ấm, tuy đượm chút buồn của hoài niệm nhưng vẫn là niềm tin yêu, hứa hẹn một ngày mai sáng tươi. Nhạc của Phước Liên thường nghe rất gần gủi nhưng lại rất khó diễn đạt, cách chuyển cung và những luyến láy thật khó chịu cho những ai mớI đụng vào bài hát, phải chuẩn bị và xử lý kỷ bài hát mới mong không lạc và khô cứng. Bài “nhớ quê” cũng vậy, Kim khánh ca không chê vào đâu được nhưng khi tôi đề nghị Tấn Sơn hát bài này trong dịp họp cuối năm 2002 của hội thân hữu Ninh Hòa thì Sơn lại không truyền cảm hơn vì thiếu chuẩn bị, giọng Sơn thì khoẻ mạnh, đầy kỹ thuật nhưng thiếu chất mượt mà, cứ “vô tư” mà hát thì không thể lột tả hết cái tình của bài ca. Chịu khó vuốt ve một tí, đôi chổ sên sến mới đã ! vì âm giai những bài hát của Liên có nhiều chất dân ca. Có thể nói Dạ Thủy đã chọn đúng nhạc sĩ để trao việc phổ nhạc bài thơ ấy và Phước Liên đã chọn đúng ca sĩ để trình bày ca khúc cuả mình. Ngoài Phước Liên, hôm ấy còn có thêm 3 bài thơ được phổ nhạc với 3 nhạc sĩ khác cũng có mặt là Đỗ Trí Dũng – Nha Trang, Huỳnh Liên – Ninh Hòa và một người nữa là anh Tân chủ quán Thiên Thanh ở Lương Sơn nhưng không gây nhiều ấn tượng trong tôi và những bài ấy không dính líu gì với sông Dinh . Trong bữa tiệc văn nghệ “bóng lá” linh đình hôm ấy, món nào cũng ngon lành, nhưng món “nhớ quê” đã thực sự làm tôi khóai khẩu và xúc động, vì món ấy được Dạ Thủy xào nấu bằng nhiều nguyên liệu và gia vị quê nhà, trong đó mặc dù không nói rõ nhưng “nước” của sông Dinh rất tràn đầy, ngọt ngào và thấm đậm.
Điểm lại số người sáng tác nhạc cuả Ninh Hòa chỉ cần dùng một bàn tay đã đếm đủ vì đó là lãnh vực không phải ai muốn cũng làm được. Nó đòi hỏi người viết phải có một khả năng, một trình độ nhất định về cảm xúc, về thẩm âm, sự hiểu biết văn học và điều tiên quyết là phải biết nhạc thuật. Chúng ta có thể điểm danh không khó lắm những nhạc sĩ của Ninh Hòa như: Hình Phước Liên, Hình Phước Long, Bảo Anh, Huỳnh Liên và một vài anh em không chuyên khác. Như vậy số bài hát viết về Ninh Hòa cũng không thể nhiều hơn, và ca khúc viết về sông Dinh càng hiếm, chẳng khác nào đãi cát tìm vàng.
Để kết thúc phần này, một lần nữa chúng ta lại cám ơn những người nhạc sĩ đã góp lời ca tiếng hát vào khu vườn văn nghệ của quê hương Ninh Hòa, dù những sáng tác ấy đã có nhưng âm vang bay xa, được nhiều người biết đến hoặc lặng thầm như một lời nguyện cầu thì chúng ta cũng rất trân trọng dành cả tấm lòng theo những cảm xúc của người nghệ sĩ, người con Ninh Hòa viết và ngợi ca về quê nhà.
[footer]
Từ Dung & Từ Công Phụng
Có nhiều mối tình nghệ sỹ đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tân nhạc Việt Nam. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu mối tình của nhạc sỹ Từ Công Phụng & Từ Dung.

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: TỪ DUNG – TỪ CÔNG PHỤNG
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên viết trên ThanhNien.vn)
Trong sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam trước năm 1975, có 3 cặp “uyên ương” thường xuất hiện trên sân khấu. Đó là cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly, cặp Lê Uyên & Phương và cặp Từ Dung – Từ Công Phụng. Hai cặp đầu rất “nổi đình nổi đám”, trái lại cặp sau thì rất… bí ẩn !

Thực ra thì với khán giả lứa tuổi trung niên, nhiều người vẫn còn nhớ đến cặp song ca Từ Dung – Từ Công Phụng bởi cái “e” nhạc của họ. Không dữ dội, nồng nàn như Lê Uyên Phương hoặc triết lý cao siêu như nhạc Trịnh, nhạc của Từ Công Phụng đầy chất trữ tình, êm ái với ca từ trau chuốt, sang trọng…
Trai tài gặp giai nhân
Từ Công Phụng sinh năm 1942 tại Văn Lâm (Phan Rang, Ninh Thuận), là người dân tộc Chăm, với những tố chất âm nhạc phát triển trong tâm hồn từ rất sớm. Cậu bé họ Từ đã từng ngây ngất khi nghe người anh cả đệm đàn guitar hát Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong) hoặc Trương Chi (Văn Cao)… Mày mò học đàn với người anh rồi Từ Công Phụng trở thành cây văn nghệ nòng cốt của các trường trung học Duy Tân, Phan Rang, Đà Lạt, với giọng hát rất truyền cảm. Không qua một trường lớp chính quy nào, nhưng với năng khiếu bẩm sinh và tâm hồn nhạy cảm, năm học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) anh viết tác phẩm đầu tay Bây giờ tháng mấy lúc mới 18 tuổi (1960). Tuy nhiên do bản tính nhút nhát và không mấy tự tin vào tác phẩm đầu tay nên chỉ khi Từ Công Phụng lên sống ở Đà Lạt, hợp tác với Lê Uyên & Phương trong ban nhạc Ngàn Thông thì ca khúc Bây giờ tháng mấy mới được phát trên Đài phát thanh Đà Lạt và lập tức nổi tiếng… Từ đó, vừa tự học vừa sáng tác, Từ Công Phụng cho ra đời những ca khúc trữ tình mà sang trọng, chen lẫn chút chán chường, chua xót như: Mùa xuân trên đỉnh bình yên, Tuổi xa người, Mắt lệ cho người…
Từ Dung là con gái của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, là cháu ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân). Cô sinh năm 1945, là con út trong số 4 người con (3 gái, 1 trai) của nhà văn. Từ Dung mồ côi cha năm 3 tuổi (Hoàng Đạo lên cơn đau tim và qua đời ngày 22.7.1948 trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu, Trung Quốc). Không biết bà Hoàng Đạo đưa các con vào Sài Gòn lúc nào nhưng người ta cũng đã ghi nhận trong đám tang nhà văn Nhất Linh vào ngày 7.7.1963, cô đội mũ tang đi trong đoàn người đưa tiễn. Năm 1965, Từ Dung tốt nghiệp tú tài toàn phần và đến năm 1969 lấy bằng cử nhân văn chương. Không chỉ học hành đến nơi đến chốn, Từ Dung còn là một giai nhân của Sài Gòn lúc bấy giờ, cô từng đoạt danh hiệu á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp tại miền Nam với vẻ đẹp lộng lẫy và nổi bật làn da trắng…
Từ Dung rất say mê ca hát và được trời ban cho một chất giọng khá hay. Cô theo học thanh nhạc với ca sĩ Châu Hà (vợ của nhạc sĩ Văn Phụng). Chính môi trường này đã đưa đẩy Từ Dung gặp gỡ Từ Công Phụng. Ngoại hình to lớn nhưng phong thái lại rất nghệ sĩ, ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự của Từ Công Phụng đã chinh phục trái tim người đẹp.
Đoạn cuối cuộc tình
Lần đầu họ xuất hiện bên nhau là ở quán Văn trong khuôn viên Đại học Văn khoa với ca khúc Bây giờ tháng mấy vào năm 1967. Họ thường sinh hoạt ở quán Văn cùng thời với cặp Khánh Ly – Trịnh Công Sơn. Sau khi quán Văn đóng cửa thì họ chuyển về quán Gió của Nam Lộc trên đường Võ Tánh.
Năm 1971, Từ Dung bắt đầu xuất hiện trên ti vi và có mặt trong cuộn băng Tơ Vàng 3. Cô song ca với Từ Công Phụng hai bài: Vùng trời kỷ niệm, Mùa thu mây ngàn và đơn ca ba bài: Đêm không cùng, Lời cuối và Đêm độc thoại. Riêng ca khúc Trên ngọn tình sầu được phổ từ bài thơ nổi tiếng của Du Tử Lê Khúc thêm cho Huyền Châu. Đó không phải là bài hát Từ Công Phụng sáng tác riêng cho Từ Dung nhưng đã từng được đôi uyên ương này song ca. Ca từ (lời thơ) lại như viết sẵn, như tiên tri về cuộc tình của hai người: “Hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau, ngoài trời mưa mau. Tay vuốt mặt không cùng. Bầy sẻ cũ hom hem. Chiều mái xám rêu xanh. Trời êm cao chân nhỏ. Cũng không về trên dòng sông tội lỗi… Tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngắt tạnh. Môi thâm khô từ thuở định hôn người. Ngày tháng hạ khi không mà trở rét. Giọt nắng vàng lung linh màu lạnh ngắt. Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu sa…”.
Sau năm 1975, họ hùn vốn với một gia đình khác mở quán cà phê trên đường Trần Quang Khải (quận 1, TP.HCM) lấy tên là “Café Từ Dung”. Quán có cây đàn piano trắng, lâu lâu lại có violin, tức là chơi nhạc sống. Nhạc sĩ, ca sĩ hoặc ai lên hát thì khỏi phải trả tiền cà phê và thường thì hát “nhạc chui” tức là nhạc trước 1975. Trịnh Công Sơn, Lệ Thu và nhiều nghệ sĩ khác từng lui tới quán này…
Sống với nhau có một con gái thì Từ Dung – Từ Công Phụng chia tay, một cuộc chia tay lặng lẽ, chẳng ai biết được nguyên nhân…
Năm 1980, Từ Công Phụng sang Mỹ và lập gia đình với một người phụ nữ tên là Kim Ái. Thời gian này, Từ Dung còn ở lại Việt Nam, bà mướn một căn phòng trong cư xá Ngân hàng (quận 3) và có biểu hiện trầm cảm. Bà ít khi mở miệng nói với ai một lời nào. Đêm đêm, bà thường ngồi lặng lẽ trong bóng tối trước hiên thềm như một pho tượng. Một thời gian sau, Từ Dung qua cơn trầm cảm, cũng sang định cư tại Hawaii (Mỹ) và đã lập gia đình với một người đàn ông Mỹ.
Hà Đình Nguyên
[footer]
Khúc ‘Thụy’ Bí Ẩn Của Một Cựu Phóng Viên Chiến Trường
Trong một bài viết về bản “Khúc Thụy Du” (thơ Du Tử Lê, nhạc Anh Bằng), [dongnhacxua.com] có đề cập đến hình mẫu thật của người con gái có chữ lót “Thụy”. Để người yêu nhạc có thêm thông tin, chúng tôi xin phép đăng lại một bài viết của nhà báo Tùng Duy qua chuyến trở về Hà Nội của Du Tử Lê năm 2014.
KHÚC ‘THỤY’ BÍ ẨN CỦA MỘT CỰU PHÓNG VIÊN CHIẾN TRƯỜNG (CHUYỆN ÍT NGƯỜI BIẾT VỀ THI SỸ DU TỬ LÊ)
(Nguồn: vanvn.net)
Trở lại Hà Nội từ viễn xứ Cali, lần đầu tiên thi sỹ Du Tử Lê kể về khúc đoạn bí ẩn chôn giấu hàng chục năm đã cài sâu trong tuyệt phẩm nổi tiếng “Khúc Thụy du”.

Du Tử Lê chỉ kịp xách túi đồ nghề của một phóng viên lao về phía cảng. Tiếng súng vọng vào thành phố đến từ khắp hướng. Sài Gòn đã náo loạn lắm rồi. Ngày 29.4.1975 những bước chân và mặt người lên cơn cuồng vội. Đám đông bị cản lại bởi một hàng rào thép có lính cộng hoà ngăn án cả dãy dài ở sân cảng. Còi tàu hú lên sắp rời bến. Tấm vé lên tầu được tính bằng nhãn hiệu vương giả của những gia đình tướng tá và hàng xấp đô la trao tay từ đêm trước. Điểm đến là trại tị nạn ở đảo Guam.
Chỉ là bản năng tác nghiệp của một phóng viên chiến trường, Du Tử Lê không định lên con tầu đó, anh chen được vào sát hàng rào và bắt đầu tốc ký với cuốn sổ nhỏ.
“Chú Lê! Chú Lê! Chú Lê ơi!”. Tiếng gọi như gào lên của một người phụ nữ giữa đám đông náo loạn đang chao đảo, chật cứng. Chị dâu và anh trai của Du Tử Lê dắt theo 6 đứa con đang áp chặt vì bị xô đẩy ở chân rào. Họ không có tấm vé đặc biệt để lên con tàu có thành mạn đen ngòm đó. Người sỹ quan chỉ huy nhận ra nhà báo đẹp trai Du Tử Lê thường hay lên truyền hình phỏng vấn sỹ quan, lính tráng. Và khoảng khắc định mệnh đã đến. Cả gia đình anh trai được lên tàu chỉ sau vài câu nói của chàng phóng viên kiêm thi sỹ nổi danh đất Sài Gòn với vị sỹ quan có khẩu súng ngắn đã mở sẵn nắp bao bên hông. Con tàu hú thét lên gấp gáp lần cuối. Đầu gối trầy xước máu tứa ra khi anh gắng kéo các cháu lên bậc cầu tàu. Vài giây lưỡng lự để nhảy xuống trở lại sân bến đã không kịp nữa. Chị dâu khóc oà víu kéo rất chặt cái túi máy ảnh của anh. “Chú không đi cùng anh chị thì ai sẽ lo cho các cháu! Chú không được quay lại thành phố! Súng nổ khắp nơi kia kìa. Lỡ mệnh hệ nào thì chị biết nói sao với mẹ đây?”. Tàu nhổ neo. Và nó cõng theo Du Tử Lê.
Thuỵ C., vợ anh và nhất là hai đứa con đang ra sao. Lúc anh ra khỏi nhà thì những con người thương nhất ấy vẫn ổn. Hình như cậu con trai lớn loáng thoáng vẫy tay như mọi ngày. Và như mọi ngày anh vẫn mau lẹ và bất chợt ra khỏi nhà như thế. Quen thế rồi. Vợ con của nhà báo cũng đã quen với cái cách chồng bật dậy ra khỏi nhà lúc nào không rõ.
Sài Gòn là nhà. Tổ quốc sẽ bình an thôi, và Thuỵ C. cùng hai con sẽ nhất định được bình an. Mình sẽ sớm trở về. Dọc hải lộ khắc nghiệt đói khát với những đứa cháu nheo nhóc đang say lịm trên sàn tàu lắc lư ướt bẩn chả nhớ là bao ngày cho đến chân đảo Guam, Du Tử Lê quặn lòng nghĩ về vợ con ruột thịt mà xa xót âu lo.
***
Cô sinh viên trường dược Sài Gòn bĩu cái môi xinh như thách đố Du Tử Lê xem tài nào tán đổ. Đấy là Thuỵ C. Một lần gặp gỡ giữa chàng phóng viên từng có thơ tình đăng trên mấy tờ báo ở Sài thành ngày ấy với Thuỵ C. chiều xuân 1968, đã bén lửa duyên đời. Dáng vẻ du tử của chàng trai họ Lê đủ lời thừa chữ lọt tai con gái mà tán tỉnh. Hai người yêu nhau và hứa rằng nên duyên vợ chồng nếu sinh con dù trai dù gái sẽ đặt tên là Thuỵ Du. Con trai Thuỵ Du ra đời có khuôn mặt đẹp như trăng rằm. Con trai đâu biết cái vẫy tay chào bố buổi sáng hôm ấy trước lúc bố lao ra bến tầu năm 1975, đã gửi theo Du Tử Lê một trời ly biệt đến mãi nhiều năm sau… Chiến tranh và số phận đã sắp xếp lại từng gia đình, con người trên mảnh đất quê hương Việt.
Biến cố Mậu Thân khiến cả Sài Gòn giới nghiêm từng cen ti mét. Tờ nguyệt san Tiền Phong (một tờ báo ra đời từ thời Ngô Đình Diệm chuyên viết về giới sỹ quan Cộng hoà, còn tờ Chiến sỹ Cộng hoà thì viết về lính) chỉ định Du Tử Lê đi thực hiện một phóng sự về cuộc giải toả của lính cộng hoà ở Ngã tư Bảy Hiền. Chạy xe dọc đường vắng tanh từ Cục tâm lý chiến đến Ngã tư đã thấy những xác người không toàn thây rải rác, có cẳng tay rời và da thịt tanh lọm còn mắc trên dây điện thật ghê rợn. Khu chợ Bảy Hiền đang giằng co giao chiến giành từng mét phố, từng gian hàng. Một chút thẫn người giữa cảnh hoang tàn chiến tranh, Du Tử Lê đau lòng và ghê tởm cuộc chiến, anh bất giác nhớ đến Thuỵ C.
Tạp chí Văn hồi ấy (Du Tử Lê cộng tác) muốn có một bài của anh về chiến tranh. Du Tử Lê nghĩ mình không thể gửi đến toà báo này một bài thơ tình. Vậy là tối ấy anh ngồi viết ứa một mạch “Khúc Thuỵ Du” – những ám ảnh chấn động và kinh hoàng mà anh rùng mình nhớ lại ở con phố gần Ngã tư Bảy Hiền. Quạ rỉa xác người, những cánh tay chó gặm, ai đi tìm gì đó còn ý nghĩa đã lẫn tan cùng vỏ đạn, hận vì súng nổ mà thấy tim buốt lại như bị dao đâm lút cán. Bài thơ chỉ một tý tẹo gợn về tình yêu. Nó là chiến tranh và phận người.
Chàng phóng viên kiêm thư ký toà soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền Phong cộng hoà (tờ báo cũng chấm dứt sứ mệnh của nó khi Du Tử Lê lên tầu đi viễn xứ) nói Khúc Thuỵ Du có cả trăm câu nhưng đã bị tờ Văn gút lại chỉ còn một phần ba. Du Tử Lê lấy tên lót của người yêu và tên mình xếp lại thành nhan đề. Và, mười bảy năm sau, nhạc sỹ Anh Bằng đã chuốt lên từ những vần thơ ấy thành bài hát thấm đẫm tình yêu. Nói như Du Tử Lê, rằng nhạc phẩm ấy chỉ có chút ngầm nói về chiến tranh như một “background mờ nhạt”. Nhưng ông đã cảm ơn Anh Bằng và muôn vàn khán giả, độc giả qua nó mà Khúc Thuỵ Du càng nổi tiếng, Du Tử Lê cũng càng nổi tiếng.

Chữ “Khúc” nhuốm tràn thơ Du Tử Lê. Giờ đã vượt tuổi thất thập ông vẫn ám ảnh với “Khúc”. Ông nói nó là khúc sông, đoạn đời, khúc đường, đoạn người đi qua bao nhiêu là khúc. Khúc hạnh tuyền núi sông, Đoản khúc ngựa hoang, Khúc tháng hai (và tháng nào trong năm cũng có bài về khúc), Thu khúc, Biệt khúc… Và, “Khúc” lẩn vào thơ ông cả những bài chả có chữ khúc nào.
Lại nói về Thuỵ C. Năm 1976 lá thư đầu tiên Du Tử Lê từ Mỹ gửi về đã đến tay Thuỵ C. Nước mắt người vợ tưởng đã cạn khô vì ngỡ chồng đã chết nay lại trào ra. Mãi đến năm 1978 Du Tử Lê mới đón được vợ con sang Mỹ, khi ấy Thuỵ C. đã kịp đưa hai con sang Pháp – quốc tịch gia đình cô sẵn có trước lúc ra đi . Nhưng…
Sống ở Califonia, nhà thơ, nhà báo Du Tử Lê đã vướng vào một cuộc tình khác dưới anh đèn của làng showbiz đô thị. Một nữ nghệ sỹ đã đốt cháy trái tim loang lổ toàn thơ gắn “Khúc” của Du Tử Lê. Thuỵ C. như muốn lên cơn. Cô viết đơn ly dị. Thi sỹ có tội đã chết lặng không ký. Nhưng cuối cùng nó đã kết thúc bằng văn bản ly hôn do một luật sư soạn ra mà chính Du Tử Lê đưa về nhà. Cả hai người sau đó đã ruổi theo hai con đường có những cuộc hôn nhân mới. Giờ Thuỵ C. vẫn sống ở Cali. Có lẽ câu nói của cô, rằng “không bao giờ được nhắc đến tên tôi nữa” mà Du Tử Lê muốn tác giả bài viết này ém lại bằng một chữ tắt khi muốn nhắc tên cô vào một sáng mùa hạ có ly cà phê vỉa hè Hà Nội tháng 6.2014.
Hà Nội dễ thương. Ly cà phê (ông có thể uống… suốt ngày) ông cảm nhận thật khoái khi nói vậy bên vỉa phố Ấu Triệu. Quần soóc áo phông vàng và dép lê cứ dễ dãi kỳ lạ. Ông vẫn hút thuốc. Ngày 21.6 là Ngày Nhà báo Việt Nam, ông cũng biết. Tôn vinh nghề viết là đúng rồi, ông tâm sự là sau này “về núi” sẽ đắm mình ở TP Hồ Chí Minh. Thành phố đã khác quá rồi. Ngã tư Bảy Hiền cũng khác quá rồi. Nhưng dân tộc thật tuyệt. Ông mong một lần đi thăm Tây Bắc để được đắm mình vào văn hoá đặc biệt qua làn xoè của người Thái hay tiếng khèn gợi tình của người Mông, hay trở lại Plâyku thăm bằng hữu xưa… Giỏ hoa thời mới lớn – tập thơ tặng độc giả Việt đêm giao lưu ở nhà hoạ sỹ Lê Thiết Cương, người phác hoạ tranh bìa của tập thơ, tại Hà Nội mới đây tựa như dòng nhật ký chưa đủ lẽ thôi nôi để lai dắt một “Khúc” Du Tử Lê vẫn còn những bí ẩn…
Hà Nội, tháng 6.2014
Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, sau đổi là Lê Tử Du, sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam, sau theo anh trai lên học ở Hà Nội và vào sinh sống ở Sài Gòn. Thơ Du Tử Lê từng được đăng trên hai nhật báo Los Angeles Times và New York Times, được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở nhiều trường đại học Mỹ, được dịch ra trng nhiều cuốn sách nổi tiếng, và đặc biệt có tới hơn 300 được các nhạc sỹ phổ nhạc.
[footer]
Tình Khúc Thứ Nhất (Vũ Thành An – Nguyễn Đình Toàn)
Trong một bài viết trước đây về nhạc sỹ Vũ Thành An, [dongnhacxua.com] có nhắc đến sáng tác đầu tiên đưa nhà nhạc sỹ đến với công chúng: bản “Tình khúc thứ nhất”. Hôm nay, chúng tôi mạn phép đăng lại bài viết của nhạc sỹ Tuấn Khanh về nhạc phẩm nổi tiếng này.

GHI CHÉP DĂM PHÚT VUI TRẦN THẾ
(Nguồn: nhacsituankhanh.wordpress.com)
Trong tất cả những tác phẩm mà nhạc sĩ Vũ Thành An đã cống hiến cho đời, có lẽ Tình khúc thứ nhất là một tuyệt phẩm lạ thường nhất. Mọi người vẫn nói vậy, khi ngồi với nhau và hát, nhân khi nghe tin nhạc sĩ Vũ Thành An rồi sẽ được chấp nhận xuất hiện ở quê nhà.
Nhà thơ Trần Tiến Dũng thường rất ít khi hát, nhưng trong dăm phút vui trên cõi đời cứ dần cạn, mỗi khi nói về cuộc đời và tình yêu, ông hay xin được hát bài này thay cho ngôn từ của mình. Ông không phải là một giọng hát hay, nhưng khi cất lên giai điệu của Tình khúc thứ nhất, thường thì ai có mặt cũng đều xúc động như lặng nhìn một bức tranh tuyệt đẹp của đời người, đầy những gam màu của bầu trời và vực thẳm.
“Nhiều năm nữa, người ta có thể viết nên những bài thơ hay hơn, nhưng khó mà thương đau cao vút như lời của Nguyễn Đình Toàn và nhạc của Vũ Thanh An”, nhà thơ Trần Tiến Dũng vẫn nói như vậy, trong sự xúc động mỗi khi nghe lại. Nhà thơ có ngôn ngữ hiện đại hiếm hoi của Việt Nam được nhà xuất bản Norton (Mỹ – 2007)* chọn dịch để giới thiệu 100 gương mặt thi ca đương đại Châu Á này, luôn nói ông cứ bị chấn động khi nghe phần ngôn xướng của Tình khúc thứ nhất, như được uống phần suối nguồn tinh hoa của một quá khứ văn nghệ vàng son miền Nam Việt Nam.
Có cái gì đó thật lay động khi người ta lắng nghe ca từ của Tình khúc thứ nhất. Bài hát được viết vào năm 1963, nhân công việc ở Đài Phát Thanh Sài Gòn mà ông gặp được nhà văn Nguyễn Đình Toàn để có được cơ duyên cho ra đời bài hát này. Từ năm 1954, khi đặt chân vào miền Nam, nhạc sĩ Vũ Thành An trãi qua nhiều khó khăn để vào đời, cũng như không dễ dàng thành đạt trong đời sống âm nhạc ở Sài Gòn lúc ấy đang có quá nhiều tên tuổi văn nghệ áp đảo. Nhưng khi nổi lên với Tình khúc thứ nhất, Vũ Thành An lập tức trở thành một cái tên lớn và được ghi nhớ mãi về sau, bất chấp có những nghịch cảnh của thời thế khiến ông phải cắt đứt với âm nhạc bình thường trong một giai đoạn dài.
Trong những cuộc tán gẫu bất tận về sự diệu vợi của nền âm nhạc miền Nam giữa cuối thế kỷ 20, Vũ Thành An vẫn được nhắc đến với nét nhạc luôn buồn bã loay hoay. Ngay cả trong lời hy vọng của ông, nghe như cũng vang lên từ huyệt mộ sâu thẳm. Đôi lúc người nghe phải tự hỏi rằng thương đau nào mà ông đã trãi qua, tận cùng đến mức trong ý nhạc đó, luôn là sự cào cấu của hối tiếc, nghẹn ngào. Lạ lùng, những điều đó làm nên tên tuổi của ông. Không biết liệu hôm nay, đứng trên một sân khấu những người nghe đã rất khác, một cuộc sống rất khác, liệu ông có tìm thấy một chút nắng vàng đẹp đẽ ngày cũ của mình?
“Lời nào em không nói em ơi. Tình nào không gian dối. Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say…” câu hát được đẩy đến những thanh âm cao ngất, như một lời oán thán trong đêm. Vọng âm như một đoạn thánh thi về tình yêu mà tuyệt vọng là cảm giác chiếm hữu duy nhất. Có rất nhiều nhạc sĩ đã viết về nỗi buồn, mỗi người một vẻ, mà thế giới của Vũ Thành An là một điều rất lạ, dường như vẫn sẽ day dứt, giày vò sẽ còn đuổi theo ông suốt hết kiếp người.
Non nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Việt Nam dừng tiếng súng. Nhiều bài hát tưởng chừng khó khăn lắm mới trở lại đời thường, rồi cũng đã dần dần xuất hiện trên sân khấu, truyền hình. Đã nhiều chục năm, nhưng nhiều bài hát nghe đâu như vẫn còn rất tươi mới những nỗi lòng người Việt. Câu chuyện tình yêu đơn sơ ở quê nhà bị lạc mất trên những nẻo đường đô thị đầy cám dỗ, vang vọng sự hối tiếc – như Tình khúc thứ nhất – cũng không phải xa lạ gì trong cuộc sống hôm nay. Những người con trai, con gái Việt Nam giờ đây trong đất nước có tên gọi thanh bình vẫn phải rời bỏ làng quê để đi tìm một cơ hội trong đời, rồi không còn quay lại. Dù ở thế hệ nào, vẫn có thể nao nao như tìm thấy phận mình trong tiếng ca muôn thuở.
Không phải ngẫu nhiên mà Tình khúc thứ nhất hay vô vàn những bài tình ca, những lời hát về cuộc đời… mà hàng ngàn bài hát của nền văn hoá miền Nam trước năm 1975 vẫn sống và lay động lòng người bất chấp rêu phong thời cuộc. Những bài hát đó vẫn góp tiếng vào thị trường thương mãi âm nhạc, nhưng được viết ra bằng sự chia sẻ, bằng cách kết nối sự cảm thông của thành thị và thôn quê, của con người biết đau từng nỗi đau của nhân thế. Khác với mua bán và giải khuây, những bài hát đó là lịch sử và văn hoá của một thời kỳ, nó giảng giải một cách đơn giản về chiến tranh và mất mát, chia sớt nỗi buồn của thân phận và nghịch cảnh quê hương mà không có chương trình lịch sử nào có thể sánh bằng. Vi vậy, dù đã nghe biết bao lần, trái tim ta vẫn diệu vợi khi thưởng thức, như chỉ mới vừa biết một tình khúc nào đó, lần thứ nhất trong đời.
Cuộc đời khép mở bất tận. Hôm qua, có những bài hát bị giày xéo và nguyền rủa, thì hôm nay chúng lại được trang hoàng lộng lẫy, gọi mời trở lại. Không ai có thể tự giày xéo mình đau thương bằng chính mình, cũng như chỉ có chế độ kiểm duyệt mới có thể cắt ứa máu linh hồn và trí tuệ của chính dân tộc mình.
Có người nói rằng dẫu muộn, thì việc chấp nhận phần văn hoá miền Nam Việt Nam đó vẫn còn hơn không. Nhưng ai biết được, rằng cuộc quay lại đó, là huy hoàng đón nhận hay chỉ là lời chào kết thúc.
Nhà thơ Vũ Ngọc Giao cũng viết trong một cuộc rượu, rằng:
Về đâu khi ngày đã tắt
Ngồi đây ta uống rượu chơi
Cuộc đời nằm trong con mắt
Một lần khép mở mà thôi
Ôi… trong một lần khép mở ấy, vô tận ấy biết bao đổi thay, chứa khôn cùng buồn vui trần thế.
[footer]
Khúc Thụy Du (Anh Bằng – Du Tử Lê)
“Khúc Thụy Du” không phải là một bản nhạc xưa nhưng rất được đón nhận bởi hầu hết ca sỹ cũng như công chúng yêu dòng nhạc này. Đó là một nhạc phẩm mà nhạc sỹ Anh Bằng viết tại hải ngoại sau 1975, lấy ý thơ từ bài thơ cùng tên sáng tác năm 1968 của nhà thơ Du Tử Lê. [dongnhacxua.com] còn nhớ lần đầu nghe bản này là vào đầu thập niên 1990 qua tiếng hát đầy cảm xúc của ca sỹ Tuấn Ngọc.
Bản nhạc nổi tiếng thế nào thì chắc có lẽ chúng ta không cần nói thêm. Thế nhưng rất ít người yêu nhạc biết rằng tựa bài thơ là sự kết hợp giữa chữ lót của người yêu nhà thơ (bà Thụy Châu) và chữ đầu trong bút danh Du Tử Lê.
VỀ BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU”
(Nguồn: DuTuLe.com)

Khi biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.
Đầu tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả khu Ngã tư Bảy Hiền.
Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền, ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân chúng, binh sĩ hay bộ đội CS.
Khi tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.
Khi tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh mạng cho tôi, dù là bạn cũ….
Trên đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại gây chấn động dữ dội trong tôi…
Giữa tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục bản.
Gọi là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại – – Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá lâu.
Sau khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.
Tôi nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa…
Cuối cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.
Viết xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung!
Bài thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ.
Thời đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách, tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.)
Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ – bày quả rỉa xác người – (của tươi đời nhượng lại) – bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân…
Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?
Như đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ.
Bài thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972).
Cuối năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 973.

Năm 1983, tôi cho tái bản cuốn thơ này sau khi được một độc giả du học tại Mỹ trước năm 1975, cho lại. Cô nói, tôi phải hứa in lại và dành bản đầu tiên cho cô…
Sau đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc ngay ngã tư đường Trask và Fairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh: “Tôi có thể chỉ cho người đó hát…”
Thời gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.
Khi ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà, không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.
Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca khúc “Khúc Thuỵ Du”…
Nhưng, hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…
(1-30-2010.)
NGUYÊN VĂN BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU”
(Nguồn: DuTuLe.com)
1.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình
trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi ?
2.
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài
ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thụy ơi và thụy ơi
tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thụy ơi và thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết
tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
thụy ơi và thụy ơi
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể
anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển
(3-68)
[footer]
Em đến thăm anh đêm 30 (Vũ Thành An – Nguyễn Đình Toàn)
Theo ý thơ của thi sỹ Nguyễn Đình Toàn, nhạc sỹ Vũ Thành An đã góp một nhạc phẩm bất hủ vào kho tàng nhạc Xuân. [dongnhacxua.com] muốn trân trọng nhắc đến “Em đến thăm anh đêm 30”. Một điểm khá lý thú là nhạc phẩm này không dùng một chữ “xuân” như nhiều ca khúc khác mà thay vào đó chúng ta chỉ thấy “tết”.

EM ĐẾN THĂM ANH ĐÊM 30
(Nguồn: yume.vn)
Những ngày cuối năm.
Khuya. Khi còn lại một mình trên mạng, tôi hay treo blast : Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?
Một bạn tình cờ ghé lại, hỏi : Có niềm vui rồi à? Chúc mừng nhé !
Bạn chúc mừng, sao lòng bỗng ngổn ngang trăm mối. Tết đang đến rất gần, chắc chắn rồi mùa cũng sẽ rộn ràng những thời khắc chuyển giao. Nhưng ta, ta có còn những đêm ba mươi đầy háo hức?
Khi nghe và yêu thích một ca khúc nào đấy, thì bạn đã thực sự gắn hồn mình vào trong giai điệu và ca từ của bài hát. Chỉ vì tiếng guitar solo nồng nàn, một đoạn piano gõ thánh thót hay đôi khi, chỉ là một thoáng ngẫu hứng saxophone đầy phiêu lãng… Nhưng chắc chắn vẫn phải là ca từ, ca từ êm ái và mượt mà như thơ ấy. Chúng là những lời nhắc nhớ chân thành, cứ thủ thỉ bên ta mãi…
Em đến thăm anh đêm ba mươi
Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi ?
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…
Xưa, khi nhạc sĩ Vũ Thành An bắt đầu phổ nhạc những câu thơ này từ thi sĩ Nguyễn Đình Toàn, chắc có lẽ, ông đã không dụng công lắm để trao chuốt chúng thành những giai điệu ấm áp và tình cảm thế. Bởi tôi, bạn và tất cả những người đã từng yêu đều có thể dễ dàng bật lên thành câu hát. Khi khắc khoải về một vùng kí ức đẹp. Khi tiếc nuối mơ hồ về một kỉ niệm tình đã cắt cớ ngủ yên.
Có thể ta không có những đêm ba mươi cùng em vô ưu, lang thang trên những con phố mòn mỏi bước. Là con đường Duy Tân, là con đường Gia Long, là con đường Tú Xương… xa lắc trong nỗi nhớ. Và có lẽ, chúng chỉ còn là giấc mơ u hoài, lê thê kéo từ thế kỉ trước. Nơi có những đêm ba mươi, vào thời khắc giao mùa thiêng liêng vẫn còn những người phu quét lá bên đường. Miệt mài và cần mẫn. Và ta , ta có dừng lại xin một chiếc lá vàng, để làm bằng chứng yêu em?
Người phu quét đường…
Chiếc lá vàng…
Khung cảnh im lắng. Đẹp một cách mộc mạc, đơn sơ. Một bức tranh huyền thoại về tình yêu, lồng hờ hững vào trong phố. Yên bình, trong vắt. Nhưng tình yêu có thực sự cần những nhân chứng và vật chứng ấy không? Ta đã ngô nghê đặt lại câu hỏi ấy, có nghĩa là ta cũng đang dần quên đi một thời yêu đương phóng khoáng, cuồng say…
Tay em lạnh để cho tình mình ấm
Môi em mềm cho giấc ngủ em thơm
Sao Giao Thừa xanh trong đôi mắt ngoan
Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?
Thì là Tết đấy. Những con đường đang nhộn nhịp quá những người qua. Phố xá dần đông vui lên, rộn ràng những sắc màu nghênh tiếp năm mới. Với lòng người, có quá nhiều điều để háo hức, chờ mong…
Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?
Mà có phải khi ai vu vơ thốt lên câu hát bất chợt ấy, cũng là đang thực sự có niềm vui đâu…
Tháng ngày đã trôi qua
Tình đã phôi pha
Người khuất xa
Chỉ còn chút hương xưa
Rồi cũng phong ba
Rụng cùng mùa…
Tác phẩm đầu tay nổi tiếng của nhạc sĩ Vũ Thành An, “Tình khúc thứ nhất”, cũng là một bài hát phổ từ thơ của thi sĩ Nguyễn Đình Toàn : “Có yêu nhau xin ngày thơ ngây Lúc mắt chưa nhạt phai Lúc tóc chưa đổi thay Lúc môi chưa biết dối cho lời…”. Đấy là những câu thơ rưng rức đầy tiếc nuối. Mờ. Phai.
Nỗi buồn ở đây dường như đã đi đến cùng tận. Khi “chỉ còn chút hương xưa” rồi cũng đã “phong ba”, và cuối cùng, “rụng cùng mùa” ?
Không. Với kỉ niệm đẹp, nỗi buồn ấy như là một thú vui tao nhã. Những khi thấy lòng mình chùn xuống, ta thong thả mang ra gặm, nhắm…
Dòng sông đêm hồn đen sâu thao thức
Ngàn vì sao mọc hay lệ khóc nhau?
Đá buồn chết theo sau
Ngày vực sâu
Rớt hoài xuống hư không
Cuộc tình đau…
Đã có rất nhiều ca sĩ trình bày ca khúc này. Nhưng được yêu thích nhất có lẽ là Khánh Ly và Nguyên Khang. Nếu Khánh Ly với giọng hát nữ tính, đầy chất ma mị của mình đã tình tự khôn nguôi về một thời yêu thương say đắm, thì Nguyên Khang bằng sự ấm áp cố hữu, lại đem đến một hoài niệm buồn. Một nỗi buồn sang trọng và cần thiết.
Giao thừa đang sắp đến. Gần, đã gần lắm rồi…
Và trong cái thời khắc mong manh ấy, khi trời đất đang bắt đầu trở mình cho một cuộc chuyển giao, thế nào tôi cũng để cho cái ngày xưa của mình quay lại. Rằng :
Em đến thăm anh đêm ba mươi Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi ?
Anh nói với người phu quét đường Xin chiếc lá vàng, làm bằng chứng yêu em…
.
(*) Nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.
Sắc Hoa Màu Nhớ (Nguyễn Văn Đông)
Tiếp nối dòng nhạc Nguyễn Văn Đông, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu một sáng tác gắn liền với tên tuổi của nhà nhạc sỹ: bản “Sắc hoa màu nhớ”.



ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA “SẮC HOA MÀU NHỚ”
(Nguồn: lời kể của chính nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông trong bài phỏng vấn của nhà báo Hoàng Lan Chi)

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
[footer]