Giọng ca Tâm Vấn (Thanh Trang – VOA Tiếng Việt)

Góp phần vào sự hình thành nền tân nhạc Việt Nam là những giọng ca vàng mà tên tuổi còn lưu danh mãi cho muôn đời sau. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu tiếng hát nữ ca sỹ Tâm Vấn qua một chương trình do được nhạc sỹ Thanh Trang biên soạn cho đài VOA Việt Ngữ.

Ca sỹ Tâm Vấn (1953). Ảnh: sankhaucailuong.com
Ca sỹ Tâm Vấn (1953). Ảnh: sankhaucailuong.com

GIỌNG CA TÂM VẤN
(Nguồn: chương trình Ca Khúc Việt Nam do Thanh Trang phụ trách trên đài VOA Tiếng Việt)

Quý vị thân mến! Trong chương trình hôm nay chúng tôi xin nói về một giọng hát thuộc lớp đầu đàn đã đem những bài hát nổi tiếng đầu tiên của Tân Nhạc Việt Nam đến với người nghe từ thời cuối thập niên 40. Và đấy là giọng hát của nữ danh ca Tâm Vấn, một người mà thời cuối thập niên 40 ở Hà Nội, rồi từ thời đầu thập niên 50 ở trong Nam, mãi cho đến đầu thập niên 70, không những được khán thính giả của đài phát thanh và truyền hình thời ấy quen thuộc với giọng hát mà còn quen thuộc luôn với cả một vóc dáng xinh đẹp, khả ái.

Tình Yêu Bên Dòng Sông Quan Họ (Phan Lạc Hoa – Đỗ Trung Lai)

Cùng với “Tàu anh qua núi”, bản “Tình yêu bên dòng sông quan họ” là sáng tác để lại nhiều ấn tượng cho công chúng nhất của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa. Ca khúc thì đã quá quen với người yêu nhạc nhưng ít người biết được nhạc sỹ Phan Lạc Hoa đã lấy ý thơ từ bài “Đêm sông Cầu” của Đỗ Trung Lai. [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu đến quý vị bài thơ & bài hát.

Phan Huyền Thư lên tiếng sau bài báo chấn động về cha

Sau bài viết của bác sỹ Sao Hồng kể về những năm tháng cuối đời của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa, dư luận có những thông tin trái chiều. Dưới góc độ sưu tầm và tổng hợp tư liệu về nhạc xưa, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bài phỏng vấn của đài truyền hình VTC với nhà văn – nhà thơ Phan Huyền Như, cô con gái của Phan Lạc Hoa và ca sỹ Thanh Hoa.

PHAN HUYỀN THƯ LÊN TIẾNG SAU BÀI BÁO CHẦN ĐỘNG VỀ CHA 
(Nguồn: vtc.vn)

Nhà thơ Phan Huyền Thư nói như vậy về nội dung bài viết đang gây chú ý cực độ mấy ngày gần đây xung quanh cái chết bí ẩn của cha mình, nhạc sỹ Phan Lạc Hoa.

30 năm sau cái chết chấn động của người nghệ sỹ tài năng Phan Lạc Hoa, câu chuyện cũ lại được xới lên lần nữa qua lời kể của bác sĩ Sao Hồng, cậu sinh viên thực tập khoa Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai ngày nào. Ông đã từng có thời gian chăm sóc Phan Lạc Hoa những ngày bạo bệnh và có những kỷ niệm, những năm tháng không thể quên với người nghệ sỹ này.

Trong câu chuyện đó nhắc đến cả mối tình sôi nổi, cuồng nhiệt của nhạc sỹ Phan Lạc Hoa với ca sỹ Thanh Hoa, người đã cùng ông xây đắp cuộc sống và có với nhau những người con. Trong đó có cuộc sống cô độc của Phan Lạc Hoa, những ngày chữa bệnh tại bệnh viện, những ngày buồn khi ông và vợ quyết định ly hôn và cuối cùng là cái chết do treo cổ tự tử để lại nhiều dấu hỏi đau đớn.

Chân dung nhạc sỹ Phan Lạc Hoa  thời trẻ. Ảnh: Phan Huyền Thư.
Chân dung nhạc sỹ Phan Lạc Hoa thời trẻ. Ảnh: Phan Huyền Thư.

Tàu Anh Qua Núi (Phan Lạc Hoa)

Người Pháp khi đặt chân đến Đông Dương khoảng năm 1858 đã nhanh chóng phát triển và đặt nền móng vững chắc cho ngành đường sắt Việt Nam. Và cũng đã hơn 50 năm, hình ảnh sân ga và con tàu cũng đi vào nền nhạc Việt. Hôm nay [dongnhacxua.com] giới thiệu tác phẩm nổi tiếng “Tàu anh qua núi” của một nhạc sỹ tài hoa bạc mệnh: Phan Lạc Hoa.

Một Người Đi (Mai Châu)

Sân ga và con tàu từ rất lâu đã đi vào dòng nhạc xưa như là những hình ảnh mang tính biểu trưng cho sự chia ly. Trong số những nhạc phẩm ấy, cá nhân [dongnhacxua.com] đặc biệt yêu thích bản “Một người đi”. Sau này khi có thời gian tìm hiểu thêm, chúng tôi mới đó là sáng tác của nhạc sỹ Mai Châu, cũng chính là phu quân của ca sỹ Hoàng Oanh nổi tiếng. Nhân dịp này xin gởi lời chúc sức khỏe và an lành đến gia đình cô Hoàng Oanh – nhạc sỹ Mai Châu và gởi đến người yêu nhạc bài hát này.

Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy (Trầm Tử Thiêng)

Trưa nay, 20.03.2016, cầu Ghềnh ở thành phố Biên Hòa bị sập. Nhiều người bị rơi xuống sông, hàng trăm hành khách đường sắt bị điêu đứng. [dongnhacxua.com] xin gởi lời chia buồn đến các gia đình nạn nhân và mong những tổn thất nếu có sẽ được hạn chế tối đa.

Nhân sự kiện này, chúng tôi chợt nhớ đến biến cố Mậu Thân 1968. Khi đó, cầu Trường Tiền ở Huế (có lẽ cũng được Pháp xây dựng cùng thời với cầu Ghềnh) cũng bị gãy. Cũng bao nhiêu người dân vô tội bị chết, bao gia đình tan nát, điêu linh. Thời chiến cũng như thời bình, dù cố tình hay vô tình, thì người dân vô tội vẫn phải gánh chịu hậu quả không lường. Một lần nữa, [dongnhacxua.com] cầu mong mọi điều tốt lành nhất cho các nạn nhân và mong những người có thẩm quyền hành động vì lợi ích của người dân, của dân tộc để nước Việt mình không phải hứng chịu những thảm họa mà cố nhạc sỹ Trầm Tử Thiêng phải đau buồn thốt lên trong nhạc phẩm “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”

Ảnh: vietstamp.net
Ảnh: vietstamp.net

CẦU TRƯỜNG TIỀN
(Nguồn: wikipedia)

Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền [1], là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m [2], được thiết kế theo kiến trúc Gô tích, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế thuộc Việt Nam.

Cầu Trường Tiền bên nhành phượng vĩ, sáng mùa hè 2007. Ảnh: wikipedia
Cầu Trường Tiền bên nhành phượng vĩ, sáng mùa hè 2007. Ảnh: wikipedia

Căn cứ bài thơ “Thuận Hóa thành tức sự” của nhà thơ Thái Thuận [3], thi sĩ Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tôn, sông Hương đã có cầu. Chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống [4]. Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.

Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi ấy Khâm sứ Trung Kỳ là Levécque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do Gustave Eiffel thiết kế) và khởi công xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này [5]. Tổng cộng tiền xây cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng bạc Đông Dương, là một số tiền lớn vào thời đó [6]. Tổng chiều dài cây cầu lúc bấy giờ là 401,10 m, rộng 6,20 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược (hay hình bán nguyệt); và hình dáng đó về cơ bản được giữ nguyên cho tới ngày nay.

Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn làm cầu hư hỏng nặng. Hai năm sau, tức năm Thành Thái thứ 18 (1906)[7], chiếc cầu mới được tu sửa lại, và mặt cầu được đúc bằng bê tông cốt thép.
Năm 1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất.

Năm 1937, dưới triều vua Bảo Đại, cầu Trường Tiền được trùng tu, cải tạo lớn. Cầu được mở rộng hành lang hai bên cho xe đạp và người đi bộ. Ở hành lang tại vị trí trụ cầu giữa 2 vài có các bao lơn (ban công) phình rộng ra – là nơi nghỉ chân, ngắm cảnh hay tránh nhau.

Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng.

Năm 1946, trong chiến tranh Việt – Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại.

Năm 1953, cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ.

Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy [8], khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.

Cầu nổi do đội công binh Quân đội Hoa Kỳ bắc qua sông Hương sau khi cầu Trường Tiền bị giật sập. Ảnh: wikipedia
Cầu nổi do đội công binh Quân đội Hoa Kỳ bắc qua sông Hương sau khi cầu Trường Tiền bị giật sập. Ảnh: wikipedia

Sau khi kết thúc chiến tranh (1975) cầu được đổi tên thành “Tràng Tiền”.

Mãi tới năm 1991 cầu Tràng Tiền mới được khôi phục, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,…[9].

Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại… và đến năm 2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền

 [footer]

Trịnh Công Sơn & Thanh Thúy

Người yêu nhạc xưa mỗi khi nhắc đến Trịnh Công Sơn không thể không nói về Khánh Ly. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ thì người ca sỹ đầu tiên giới thiệu nhạc Trịnh đến với công chúng lại là “giọng hát liêu trai” Thanh Thúy. [dongnhacxua.com] xin giới thiệu một bài viết của nhà văn Từ Kế Tường để chúng ta có thêm tư liệu.

Ướt mi (Trịnh Công Sơn). Ảnh: CoThomMagazine.com
Ướt mi (Trịnh Công Sơn). Ảnh: CoThomMagazine.com

TRỊNH CÔNG SƠN & NHỮNG CẢM XÚC ĐẦU ĐỜI
(Nguồn: bài viết của tác giả Từ Kế Tường đăng trên NguoiDuaTin.vn)

Có nhiều tài liệu cho rằng giữa nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh và “Người em sầu mộng” Thanh Thúy có một mối giao tình đặc biệt ở “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy”.

Ca sỹ Thanh Thúy. Ảnh: NguoiDuaTin.vn
Ca sỹ Thanh Thúy. Ảnh: NguoiDuaTin.vn

Trong giới nữ ca sĩ thành danh và nổi tiếng trước năm 1975 có một giọng ca rất đặc biệt, không lẫn lộn với ai dù khán thính giả chỉ nghe thôi không cần nhìn thấy mặt người nữ ca sĩ đó cũng nhận biết rõ ràng, chính xác là Thanh Thúy. Cô ca sĩ này là người Huế, nói rặt tiếng Huế nhưng hát giọng Bắc, chất giọng trộn lẫn giữa Huế và Hà Nội vốn đã đặc biệt, nhưng khi con chim họa mi Thanh Thúy cất lên bằng giọng hát thì càng đặc biệt hơn. Đó là một chất giọng hơi khàn nhưng không đục, được Thanh Thúy luyến láy như phù thủy, nhấn nhá nhiều cung bậc trầm bổng rất liêu trai. Dường như Thanh Thúy sinh ra là để hát boléro và nếu nói Thanh Thúy là “nữ hoàng của điệu boléro” cũng không ngoa.

Nữ hoàng của điệu boléro

Thanh Thúy tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Thanh Thúy, cô sinh năm 1943 là người con xứ Huế thơ mộng, thuộc gia đình nền nếp theo đạo Phật. Do thân mẫu cô bị bệnh nan y nên Thanh Thúy cùng với gia đình vào sống ở Sài Gòn để tìm cách chữa trị. Gia đình Thanh Thúy ngụ tại một ngôi nhà phía sau chùa Kỳ Viên đường Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu ngày nay). Ca sĩ Thanh Thúy đi hát rất sớm, năm 16 tuổi. Lần đầu tiên Thanh Thúy xuất hiện trên sân khấu phòng trà Đức Quỳnh cạnh rạp chiếu bóng Việt Long đường Cao Thắng vào cuối năm 1959, khi vừa 16 tuổi. Rạp Việt Long sau được xây lại mang tên mới là rạp Văn Hoa Sài Gòn, bây giờ là rạp Thăng Long. Thanh Thúy xuất hiện ở đây cùng với ca sĩ Minh Hiếu và lập tức tiếng hát “liêu trai” của cô đã chinh phục được khán thính giả phòng trà vốn rất khó tính trong việc thưởng thức âm nhạc.

Sau đó Thanh Thúy thường xuyên xuất hiện ở phòng trà Anh Vũ rồi các chương trình Đại nhạc hội, chương trình phụ diễn Ca nhạc kịch của các rạp chiếu bóng. Những năm đầu của thập niên 1960 tên tuổi của ca sĩ Thanh Thúy đã lẫy lừng không chỉ trên các sân khấu phòng trà mà cả trên sóng đài phát thanh, đĩa nhạc, băng nhạc. Những ca khúc đã gắn liền với tên tuổi Thanh Thúy lúc bấy giờ như: Nửa đêm ngoài phố, Kiếp nghèo, Người em sầu mộng, Ngăn cách, Tàu đêm năm cũ… Hầu hết những tác phẩm âm nhạc được Thanh Thúy thể hiện thành công đều là điệu boléro của nhạc sĩ Trúc Phương và một số ca khúc của Y Vân.

Giữa lúc tiếng hát Thanh Thúy đang bay cao cùng với tên tuổi của cô trên bầu trời nghệ thuật và trong lòng khán thính giả ái mộ thì mẹ cô đột ngột lâm bạo bệnh và qua đời. Cái chết của mẹ đã ảnh hưởng rất nhiều tới con đường sự nghiệp và cuộc sống của Thanh Thúy trong giai đoạn này. Đêm đêm dưới ánh đèn sân khấu, trong tà áo dài tha thướt, mái tóc buông vai, đôi mắt sâu buồn, Thanh Thúy cất giọng hát đầy tâm trạng ấy khiến người nghe như nghẹn đi và Thanh Thúy quả thật là “Người em sầu mộng” của… bao người.

Trịnh Công Sơn. Ảnh: NguoiDuaTin.vn
Trịnh Công Sơn. Ảnh: NguoiDuaTin.vn

“Nghi án tình yêu” với nhạc sĩ họ Trịnh

Trong số lượng sáng tác khổng lồ của người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn để lại cho đời có hai ca khúc mà dư luận cho rằng chàng nhạc sĩ họ Trịnh viết để gửi gấm tâm sự mình đến với ca sĩ Thanh Thúy từ năm cô 16 tuổi, lúc mới bắt đầu đi hát. Đó là hai ca khúc đầu tay “Ướt mi” và “Thương một người”. Trong hai ca khúc này, có nhiều ca từ khiến người ta liên tưởng đến hình bóng Thanh Thúy như “đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca…”, “thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi, đôi vài gầy ướt mềm, người lạnh lắm hay không?”, “thương ai tà áo trắng, trông như ánh sao băng, thương ai cười trong nắng, nhẹ nhàng áng mây tan”.

Nhạc sĩ họ Trịnh thì đã mất, ca sĩ Thanh Thúy chắc không bao giờ nói ra uẩn khúc này nên có lẽ “nghi án” sẽ không bao giờ được làm rõ và cũng sẽ đi vào quên lãng. Tuy nhiên trong lúc tìm tư liệu để viết về ca sĩ Thanh Thúy, người viết bài này đã may mắn tìm thấy trong tác phẩm “Về một quãng đời Trịnh Công Sơn” của Nguyễn Thanh Ty có đề cập một giai thoại liên quan tới ca sĩ Thanh Thúy và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng như hai ca khúc “Ướt mi” và “Thương một người”.

Theo tư liệu này thì có lần Trịnh Công Sơn đã tâm sự rằng lúc ông đang ở trọ tại Sài Gòn để đi học, đêm nào cậu học trò mê giọng ca Thanh Thúy cũng tìm đến phòng trà cô cộng tác để nghe cô hát. Theo thời gian, hình ảnh cô ca sĩ có giọng hát như hút hồn người này đã in đậm vào lòng Trịnh Công Sơn, chính ông cũng tự hỏi rằng có phải mình đã yêu cô ca sĩ ấy chăng? Ông không dám trả lời vì lúc đó Trịnh Công Sơn chỉ là một anh học trò nghèo, chưa phải là nhạc sĩ, lại nhút nhát, trong khi Thanh Thúy đã là cô ca sĩ đang nổi tiếng, mỗi đêm kẻ đón người đưa tấp nập.

Không thể khẳng định được tình cảm của mình nhưng đêm đêm cậu học trò nghèo chỉ đủ tiền mua ly đá chanh cũng không thể thiếu vắng được tiếng hát và hình ảnh của Thanh Thúy. Một đêm nọ, Trịnh Công Sơn tới nhà hàng nổi Mỹ Cảnh nghe Thanh Thúy hát và đánh bạo viết vào mảnh giấy nhỏ yêu cầu Thanh Thúy hát bài “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong. Lời yêu cầu của Trịnh Công Sơn được Thanh Thúy đáp ứng hết sức bất ngờ với cảm xúc mãnh liệt. Và trong lúc hát bài này, Thanh Thúy đã không cầm được nước mắt khi tới đoạn: “Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành như nhủ trời xanh, gió ngừng đi, mưa buồn chi cho cõi lòng lâm ly…”.

Có lẽ Thanh Thúy nhớ tới mẹ cô với chứng bệnh nan y đang mỏi mòn chờ cô trở về nhà trong con hẻm nhỏ. Những giọt nước mắt xúc động mà Thanh Thúy cố kìm giữ đã đọng lại trên hai hàng mi đen dài của người ca sĩ đã khiến Trịnh Công Sơn vô cùng thương cảm. Sau đêm ấy nhạc sĩ họ Trịnh đã thức trắng để viết ca khúc đầu tay “Ướt mi” điệu slow, với ca từ rất buồn, rất đẹp và tuyệt hay.

Chàng nhạc sĩ đa tình họ Trịnh đã nắn nót chép ca khúc này cẩn thận luôn mang theo bên mình để có dịp là đưa tặng ca sĩ Thanh Thúy. Nhưng do tính nhút nhát, rụt rè, có chút mặc cảm nên bài hát “Ướt mi” cứ mang đi rồi lại mang về mấy lượt. Một hôm không dằn lòng được nữa, Trịnh Công Sơn đã đánh bạo tới ngồi sát sân khấu để chờ dịp thuận tiện đưa tặng bài hát. Sau vài lần “quyết tâm” thì dịp thuận tiện đã tới, Trịnh Công Sơn vội vã tiến lên sân khấu chỉ kịp đưa bài hát tặng Thanh Thúy, nói lí nhí mấy câu không rõ lời, rồi quay xuống hàng ghế khán giả với sự hồi hộp khó lường. Đêm đó Trịnh Công Sơn không ngủ được vì hồi hộp, lo lắng, không biết số phận “đứa con tinh thần ” của mình ra sao, có được Thanh Thúy đón nhận? Phải mất đến 3 tuần lễ, giữa lúc hoàn toàn tuyệt vọng thì một đêm kia đến phòng trà nghe Thanh Thùy hát, Trịnh Công Sơn hoàn toàn bất ngờ khi Thanh Thúy xuất hiện, ra hiệu cho ban nhạc ngưng khúc dạo đầu để cô nói mấy lời.

Thanh Thúy đã nói rằng đêm nay sẽ trình bày một ca khúc mới của một nhạc sĩ rất lạ, chưa có tên tuổi đã có nhã ý gửi tặng cho cô. Đó là nhạc phẩm “Ướt mi” của Trịnh Công Sơn và hy vọng đêm nay sẽ có mặt tác giả ngồi phía dưới để Thanh Thúy được nói mấy lời cảm ơn. Thế rồi Thanh Thúy đã đưa bản chép tay bài hát “Ướt mi” cho ban nhạc đệm và cô cất giọng hát: “Ngoài hiên mưa rơi rơi, lòng ai như chơi vơi. Người ơi nước mắt hoen mi rồi, đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca…”. Khỏi phải nói, người sung sướng nhất chính là tác giả bài hát đang ngồi phía dưới. Thanh Thúy hát xong, cố ý nán lại sân khấu để chờ người đã tặng nhạc. Lúc này, Trịnh Công Sơn thu hết can đảm bước lên nói lời cám ơn Thanh Thúy vì đã hát bài hát “Ướt mi” rất hay. Thanh Thúy đã rất ngạc nhiên và tỏ ý muốn nói chuyện riêng với tác giả. Cô mời luôn Trịnh Công Sơn về nhà và cả hai ra đón taxi. Nhà Thanh Thúy ở sâu trong con hẻm nhỏ và đây chính là hình ảnh, cảm xúc để chẳng lâu sau đó Trịnh Công Sơn sáng tác ca khúc ” Thương một người”.

Như vậy, về phần tư liệu đã có đủ cơ sở để chứng minh giữa Trịnh Công Sơn và Thanh Thúy có một mối giao tình đặc biệt khi tên tuổi cô vừa mới nổi lên dưới ánh đèn sân khấu. Đồng thời, Trịnh Công Sơn cũng báo hiệu một tài năng âm nhạc qua hai tác phẩm đầu tay “Ướt mi” và “Thương một người”. Sau này cả hai đều nổi tiếng. Còn chuyện tình cảm, yêu đương phát triển hay dừng ở mối duyên văn nghệ thì chỉ có người trong cuộc mới biết rõ. Dư luận đã đặt ra nghi án có một chuyện tình thật đẹp gữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Thanh Thúy từ lúc hai người còn khá trẻ có lẽ cũng từ giai thoại và tư liệu này chăng?

Thanh Thúy. Ảnh: NguoiDuaTin.vn
Thanh Thúy. Ảnh: NguoiDuaTin.vn

Giọng hát “không đụng hàng”

Có thể nói cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960 ca sĩ Thanh Thúy nổi lên như một hiện tượng đặc biệt và độc đáo bởi giọng hát thiên phú của cô. Thật sự, trước năm 1975, giới ca sĩ không có hiện tượng trùng lắp, mỗi người sở hữu một giọng ca riêng không ai giống ai mà ngôn ngữ bây giờ gọi là ” không đụng hàng” ở giọng ca nam cũng như nữ. Từ Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, đến Jo Marcel, Evis Phương… từ Thái Hằng, Thái Thanh, Lệ Thanh, Kim Tước, Hà Thanh, Quỳnh Dao đến Thanh Thúy, Minh Hiếu hay Lệ Thu, Khánh Ly sau này khi nghe giọng ca họ cất lên không cần nhìn thấy mặt cũng biết ca sĩ ấy là ai. Trong đó, giọng ca Thanh Thúy là một sự độc đáo hiếm có, bởi lẽ sau giọng ca Thanh Thúy khó tìm được một giọng ca thứ hai nào tương tự như vậy.

Năm 1962 Thanh Thúy được bầu chọn là Hoa hậu Nghệ sĩ. Đến giữa thập niên 60, chính xác là năm 1964 người ái mộ giọng hát của cô bất ngờ khi được tin Thanh Thúy “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những tưởng giọng hát Thanh Thúy sẽ chỉ còn vang vọng trong băng, đĩa, còn “người em sầu mộng” sẽ không bao giờ xuất hiện trở lại. Nhưng không ngờ, sau khi sinh con trai đầu lòng, Thanh Thúy đã trở lại với sân khấu ca nhạc và đêm đêm đứng dưới ánh đèn màu tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình. Thanh Thúy cùng gia đình sang Mỹ định cư những ngày cuối tháng 4/1975.

Từ Kế Tường

[footer]

Phố Huyện Chiều Em Nhớ (Hình Phước Liên)

[dongnhacxua.com] có đề cập đến nhạc sỹ Hình Phước Liên trong một bài viết tri ân nhạc sỹ Thanh Tùng khi nhắc đến sáng tác chung giữa hai nhà nhạc sỹ (bản “Cây đàn guitar của Lorca”). Riêng với cá nhân chúng tôi, nhạc sỹ Hình Phước Liên là một người anh đáng quý khi cùng tham gia vài hoạt động văn nghệ của tỉnh Phú Khánh ngày ấy (từ năm 1989 tách ra thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa). Hình Phước Liên cũng chính là em trai của nhạc sỹ Hình Phước Long, tác giả của “Gần lắm Trường Sa ơi” mà chúng tôi đã có lần giới thiệu.

 Nhạc sỹ Hình Phước Liên. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

Nhạc sỹ Hình Phước Liên. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

[dongnhacxua.com] còn nhớ vào thập niên 1990, bản “Phố huyện chiều em nhớ” của Hình Phước Liên từ vùng quê Ninh Hòa, bay sang tận Mỹ rồi trở về lại Việt Nam qua tiếng hát của ca sỹ Lâm Thúy Vân trong một đĩa CD của Trung tâm Asia.

 

Để người yêu nhạc có thêm tư liệu về nhạc sỹ Hình Phước Liên, về huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa) và con sông Dinh, chúng tôi xin mạn phép trích đăng bài viết của tác giả Dương Tấn Long.

SÔNG DINH QUA THI CA
(Nguồn: tác giả Dương Tấn Long đăng trên ninh-hoa.com)

Một buổi tối, hai gia đình: tôi và em tôi là Tấn Sơn rũ nhau đến quán ca nhạc loại “hát với nhau nghe” nằm trên con đường tập trung nhiều hàng quán ăn chơi có tiếng ở trung tâm Sài Gòn. Thỉnh thoảng vẫn thế, vì Sơn thích ca hát và giọng tốt nên thường sưu tầm những địa chỉ “ tầm cở” để thử tài, và cứ mỗi lần Sơn rũ là tôi không từ chối. Với máu nghề nghiệp và thích nghe nhạc, đi chơi như vậy tôi được thưởng thức nhiều mặt. Được biết đây là một quán mới mở, dành cho giới trẻ nên cách trang trí rất ấn tượng, hình khối, đường nét mặt tiền mạnh mẽ, với hệ thống đèn nhiều màu rực rỡ. Bước vào cửa đã nghe tiếng nhạc disco với âm lượng quá cở, tiếng cười nói của từng nhóm bạn trẻ tạo một thứ tiếng ồn vượt mức chịu đựng ở cái tuổi trung niên như tôi.

Gian phòng chữ nhật không đủ rộng, chính giữa một bar rượu hình oval đã đầy các thanh niên nam nữ ăn mặc rất thời thượng đang ngồi trên các ghế cao, hướng vào giữa. Hai bên, sát tường là các bàn nước đặt dọc ở trên nền cao gần cả mét và đầu kia là một sân khấu nhỏ. Các hình thức, chi tiết nội thất thể hiện như trong một chiếc tàu biển: – những mỏ neo treo lủng lẳng, sợi dây thừng giăng đong đưa, chiếc vô lăng như bánh xe luân hồi to đùng gắn cuối phòng, các ô cửa tròn và các nữ tiếp viên xinh đẹp, phơi phới với trang phục như lính hải quân váy cực ngắn, đang rộn ràng trò chuyện với khách. Mật độ trang bị nội thất và con người nơi đây khá cao. Vì đi với gia đình nên chúng tôi tìm một nơi yên ổn, kín đáo ở góc cuối phòng và nhờ vậy tôi có thể quan sát được rộng và đầy đủ.

Giờ hát với nhau đã đến, tiếng nhạc phát ra từ máy chợt tắt, tiếng cười nói giảm đi, một số lớn khách đã đổi tư thế ngồi, quay về hướng sân khấu, không khí tỉnh lại. Một MC nam đẹp trai, tuổi trên 35 bước ra sân khấu, rất tự tin và tươi cười chào khán phòng, cùng lúc ban nhạc với vài nhạc công cũng tiến đến nhạc cụ. Sau phần giới thiệu vào đầu chương trình ca nhạc hằng đêm của quán, một khúc nhạc intro trổi lên như là thứ nhạc thiều riêng, với âm lượng vừa phải và giai điệu rumba khoan thai quen thuộc, tôi cảm thấy thật dễ chịu. MC vào đề rất tự nhiên, hàng loạt từ hoa mỹ được tung ra để giới thiệu một ca khúc với tốc độ chóng mặt, tôi há hốc theo dõi với chút kính nể khả năng phát thanh trôi chảy như thuộc bài của chàng MC này. Mặc dù đã nói rất dài nhưng tôi vẫn chưa đoán được bài hát tên gì, chỉ biết rằng đó là một chuyện tình lâm ly bi đát. Quay lại Sơn tôi hỏi :

– Chàng này ở đâu ra vậy ?

– Tên là HT, em có quen, làm ở nhà văn hóa quận X. chuyên hướng dẫn các chương trình, ảnh mời em đến đây.- Sơn trả lời.

…. Và có dài thì cũng phải có đoạn kết, đó là bài “hoa sứ nhà nàng”… một chàng tướng to, khỏe cở anh Vọi trong “trống mái” của Khái Hưng, mặc chiếc áo rất hoa lá cành, ôm sát người, phơi lồ lộ những cơ bắp! rời bar rượu từ từ tiến lên sân khấu với dáng vẻ hiên ngang như đi chiến đấu, khán giả vỗ tay nồng nhiệt, một tín hiệu sinh động, lạc quan khởi đầu, mấy đứa nhỏ con tôi và con Sơn thích chí vỗ tay hưởng ứng theo. Tôi thấy lùng bùng hai tai. Có lẽ chàng này đi rất sớm và đã kiếm ngay xuất đầu tiên.

Câu vô đề -“đêm đêm ngưởi mùi h… mùi hương của nhà nàng” thấy lạnh cả người, một chất giọng eo ẻo, pha cải lương đúng chất với bài hát nhưng không tương ứng với tướng mạo của chàng lực sĩ tí nào, chàng say sưa, rên rĩ diễn tả nỗi đau khổ, có thể xếp vào bậc thầy của sến …không khí khán phòng tỏ ra nhẫn nại, chia xẻ, chờ phút cáo chung của khúc bi ca, thế nhưng kết cục lại có hậu với tràng pháo tay như pháo tết và vài tiếng huýt sáo inh tai, anh “Vọi” một lần nữa hiên ngang trở về bar rượu. MC lại xuất hiện, rất hào hứng và chợt xuống giọng ra vẻ triết lý cao siêu đầy kịch tính, nói về thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc này…Một lần nữa tôi được chứng kiến tài nghệ của MC – đúng là một cao thủ, chữ nghĩa có thừa, – à, thì ra là một bài hát của Trịnh Công Sơn, bài “phúc âm buồn”. Một cô gái khoảng hai mươi lăm, mặt đầy đặn, mắt đeo cặp kính cận nặng, bước lên sân khấu..” người nằm co, như loài thú, khi mùa đông về…người nằm yên không kêu than chết trên căn phần…người còn đứng như tượng đá…” khán phòng trầm lắng, một chút chùng lòng vì lời hát thấm sâu, chất giọng alto khoẻ khoắn, đầy dẫn dụ ngọt ngào, bài hát được kết thúc với sự ngưỡng mộ trân trọng. Và không khí như nóng lên khi MC giới thiệu một tay chơi gầy gò, mặc bộ Jean rách rưới bạc phết màu, điệu twist được trổi lên với bài “60 năm cuộc đời”, tôi chợt nhớ đến giai điệu kích động được phổ biến, ngự trị trong các vũ trường và các phòng trà Sài gòn trong thập niên 60 với chiếc quần ống túm là biểu tượng. “…ới..ới đời sống là thế không là bao, em ơi có bao nhiêu 60 năm…” Chàng trai vừa hát vừa lắc theo twist rất điệu nghệ, thỉnh thoảng chàng ứ…ứ nghe rất bốc (không thua gì Hùng Cường). Các nhạc công được dịp cũng xã hết công suất.

Những bạn trẻ bị cuốn hút với những thân hình cựa quậy và tay chân quờ quạng theo, với hậu quả là tiếng pháo tay, la hét dậy trời của đám cuồng nhiệt. Sau trận bị trấn áp ngạt thở bằng âm thanh ấy tôi nghe ê ẩm cả người, đến nhân vật thứ tư tôi không còn đủ sinh lực chăm chú theo dõi mà quay về nói chuyện với gia đình, nhưng lần nữa lại phải quay về hướng sân khấu vì có một chàng trông rất lãng tử không hát mà đang nói điều gì, khán phòng bớt ồn. Nhìn cách ăn mặc có chút lè phè và cách diễn đạt lại lè nhè, tôi cảm nhận chàng là một bợm nhậu hơn là ca sĩ, thử lắng nghe ??!,- thì ra chàng muốn đọc thơ, môt bài thơ tự biên, tự diễn nói về một nghịch lý trong tình yêu mà chàng đã trãi qua. Tôi phải quay người lại để nghe, một cảm giác vừa khó chịu nhưng thích thú; khó chịu vì nơi này đâu phải là chỗ của thơ thẩn, và thích vì đụng đến lãnh vực hảo của mình. Chiến hữu này xem chừng bị lạc lõng nhưng vẫn tự tin, mắt lim dim đầy tâm trạng, chậm rãi và một chút xuất thần, hai câu cuối chàng lại ngẫu hứng ngâm lên nghe thống thiết, bài thơ dài vừa phải, đôi chỗ cảm thấy “phê” vì những ý tứ độc đáo, có thể xếp vào loại khá. Thật ái ngại cho chàng,vì giữa chốn “đạn bom khói lửa” thế này mà dám bay bổng như vậy, nhưng khán giả tỏ ra lịch sự và cho một tràng pháo tay không kém phần nhiệt liệt, một nửa để khích lệ tiết mục lạ, một nửa để tống tiễn cho nhanh?!.

Tưởng bở, chàng thừa thắng xông lên, quyết tâm không chịu rời micro và tiếp tục giới thiệu cho khán giả thưởng thức thêm một tiết mục nữa, lần này chàng hát chứ không phải đọc thơ. Chàng thật can đảm trước một lực lượng “ca sĩ” hùng hậu nộp đơn xin hát đang hăm hở, chờ đợi đến lượt mình, bài thơ vừa rồi đã làm nhụt chí và ngao ngán nhiều tay chơi nhưng chàng nào có hay biết, vẫn ung dung tự tại, bình thản tiếp tục. Bài hát được giới thiệu với tựa đề “ con sông quê hương”- nói về một con sông ở Bình Định của nhạc sĩ Xuân An, thoáng qua tựa bài hát nghe không quen và tác giả càng không biết, có chăng một nhận xét là chàng này thích hàng lạ, chỉ trình diễn những cái người khác chưa biết. Vẫn hào hứng và tự tin, sau khi dặn dò, chỉ vẽ các nhạc công, tiếng nhạc trổi lên, chàng cất tiếng ca: – “ bình thường, bình thường thôi bạn ơi…” rất hồn nhiên và lạc quan.-“ vẫn núi giăng mây, vẫn lúa xanh đôi bờ…”. Đến đây thì tôi thấy ngờ ngợ, bài hát hình như đã nghe đâu đó, giai điệu và tiết tấu nhẹ nhàng, tha thiết, ca từ đơn giản, gần gủi, một air nhạc xưa cũ ?! bài viết theo nhịp 2/4, không trang trọng, tươi vui, thướt tha cho những dòng sông theo kiểu valse như “blue Danube”, “Danube waves” hoặc “dòng An Giang” cũng không hào hùng như “Bạch Đằng Giang” hay “Sông Lô”.

Tôi cố suy nghĩ để tìm những yếu tố quen thuộc của bài hát, nhưng sinh hoạt ồn ào kiểu này thật khó mà moi lại ký ức, đang miên man tôi chợt nghe Sơn lẩm bẩm – Uả, bài này của anh Phước Liên viết về con sông Dinh đây mà. Vừa lúc ấy tôi chớt nhớ ra tựa bài hát “Ơi con sông Dinh” và Sơn cũng gật đầu. Chàng ca sĩ rất thiết tha và tôi rời khỏi thực tại “…ơi con sông Dinh yêu thương và tháng ngày em thơ ấu, sớm tối qua cầu dừng chân ngắm xuồng câu, con sông quê hương chảy từ buồng tim của mẹ, ôm con chờ chồng rồi hoá đá vọng phu….” Nhớ lại bài hát này lần đầu tiên tôi biết được là nó xuất hiện trong tập bài hát mà Phước Liên in chung với nhạc sĩ Đổ Trí Dũng của hội văn học nghệ thuật Khánh Hòa xuất bản, Liên đã gởi tặng tôi trong những năm tháng khi tôi còn mãi mê với những công trình xây dựng ở Đồng Tháp. Sở dĩ tôi nhớ và có ấn tượng với bài này vì lần đầu trong đời tôi thấy được một bài hát viết về con sông Dinh quê mình và tác giả lại là người bạn thân. Khi ấy tôi đã phải viết thư tới Liên với nhiều lời lẽ ca ngợi và cám ơn. Sau đó tôi cứ áy náy hoài về một ý sửa lưng bạn, vì trong bài hát có câu“…Sớm tối qua cầu dừng chân ngắm xuồng câu…” tôi nói đùa rằng – đứng trên cầu Dinh chỉ thấy ghe thôi chứ làm gì có xuồng mà ngắm”, ý tôi muốn nói rằng phương tiện đi trên sông Dinh đoạn ấy người quê mình chỉ gọi bằng ghe. Tôi mạnh dạn nói lên điều này vì Liên là bạn cùng xóm Rượu với mình, không xa lạ với con sông Dinh, có đi đâu cũng phải theo con đường Nguyễn Trường Tộ mà về, có nghĩa là từ thơ ấu đến lúc vào đời, dân xóm Rượu cứ phải đi, về dọc theo sông Dinh nên hình ảnh gì của sông Dinh cũng đều được chứng kiến và khắc sâu vào tâm trí mỗi người. Sau này khi quay về Sài Gòn công tác và Tấn Sơn vào Sài gòn học, anh em ở chung nhà, thỉnh thoảng tôi có nghe Sơn hát và được biết rằng bài hát này khá phổ biến ở Ninh Hòa.

Cứ mãi suy nghĩ về chuyện cũ mà quên thực tại Saigon by night tạp lục, tôi với Sơn còn miên man với chuyện bài hát thì may mắn quá, chàng lãng tử đã nhường sân khấu lại cho MC và người khách được mời lên kế tiếp chính là Tấn Sơn, tôi vội nói với Sơn là sẵn dịp này khéo léo đính chính lại tên và tác giả bài hát mà vị khách vừa rồi nhầm lẫn. Sơn không vội vàng rời chỗ ngồi và như đang do dự điều gì, bình thản một chút, Sơn từ từ bước về sân khấu với phong thái chửng chạc và trịnh trọng tìm một vài lý lẻ hay đẹp giới thiệu bài hát của mình. Bài hát “Xin còn gọi tên nhau” của Trường Sa là bài hát tôi rất thích, cùng những bài hát quí hiếm khác của cùng tác giả như “Mùa thu trong mưa”. Bài này tiết tấu sôi nổi nhưng thiết tha; lúc dồn nén, lúc dàn trãi, tạo một hiệu ứng mạnh mẽ, phải récitatif và nhấn nhá như Lệ Thu mới lột tả hết độ tuyệt cuả nó, nhất là những đoạn cao trào. Khánh Ly tuy mượt mà và ngọt ngào ở bài này nhưng diễn đạt đều quá. Sơn trình bày cũng khá. Tôi đã được nghe Sơn hát nhiều lần nhưng không nhàm chán, có lẽ là một trong những bài ruột của sơn và hình như hôm nay Sơn ưu ái tặng tôi món đặc sản này !? – Nhạc đã hay, lời và nội dung cũng không kém. “ Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng, chiều đông đưa những bước chân đau mòn …còn ai giữa mênh mông đời mình, nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ ….. rồi trong mưa gió biết ai vỗ về…..tình trong cơn ngủ mê, rồi phai trong hàng mi.….” Một nỗi đau tình nhẹ nhàng, một đối xử thật vị tha và bao dung với người yêu dù cuộc tình đã vỡ, lúc nào cũng lo toan cho một cánh chim bay xa ….Khán giả vỗ tay rất nhiều khi Sơn hát xong, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy điều gì đó đang vướng víu, cả nhà vỗ tay rất dài để ủng hộ gà nhà nhưng tôi lại lơ đễnh cho đến khi Sơn có vài lời đính chính :

– Thành thật cám ơn bạn vừa rồi đã trình bày rất hay bài hát ngợi ca con sông quê hương chúng tôi, chúng tôi rất xúc động vì lâu lắm rồi mới được nghe lại. Tác giả bài hát là người anh cùng xóm với chúng tôi tên là Hình Phước Liên hiện đang sống tại Nha Trang, con sông mà bạn vừa hát tên là sông Dinh chảy qua thị trấn Ninh Hòa một huyện của tỉnh Khánh Hòa, bài hát ấy tên là ”ơi con sông Dinh…”

Sau những lời nhẹ nhàng phủ nhận toàn bộ cái “trật lất” của bạn một cách tinh vi, Sơn đã “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Tâm trạng phức tạp, khó chịu trong tôi mới được giải tỏa, tôi nghĩ rằng – nhiều người, nhất là các bạn trẻ nơi chốn ăn chơi, náo nhiệt như thế này có mấy ai để ý đến bài hát xa lạ, bình thường hơn những gì bình thường ấy. Lẽ ra cũng chẳng cần đính chính nhưng sao lúc ấy tôi vẫn muốn Sơn làm như vậy. Trên đường trở lại chỗ ngồi Sơn ghé nơi vị khách hát nhầm nói điều gì rất lâu ra bộ vui vẻ, đồng cảm. Tôi thấy mọi việc như vậy là ổn, đã không xãy ra phiền lụy gì. Sơn về chỗ ngồi, cười mỉm và được vợ con khen nức nở pha chút khôi hài, con gái tôi rút cành hoa hồng duy nhất đang cắm trên chiếc bình trang trí đặt trên bàn đưa cho bé Khiêm tặng bố. Tôi định hỏi Sơn về cuộc kỳ ngộ vừa rồi thì lại thấy một người đi về hướng bàn của mình, nhìn kỹ tôi biết là chiến hữu ấy đang tìm đến.

– Chào các anh chị, em tên Định, các anh chị đều ở Nha Trang phải không ?

– Đúng rồi. Tôi cười trả lời và đưa tay, chàng ra vẻ kính cẩn đưa cả hai tay nắm chặt

– Vừa rồi em giới thiệu tầm bậy quá, cũng may các anh nói cho em biết, chứ hồi giờ em cứ nghĩ bài hát như vậy.

Nghe Định phân trần trong hơi men, tôi vội đỡ lời :

– Vui vẻ như vậy là sướng rồi, có gì quan trọng lắm đâu, ai biết đúng sai ra sao, Định hát hay đấy chứ, ờ mà sao em biết bài hát ấy.

Chàng bắt đầu kể –… hồi em học Đại Học Thủy Sản Nha Trang có thằng bạn ở chung phòng ký túc xá, nó hát bài ấy rất hay và em thích quá nên nhờ nó chỉ em, nó nói xuất xứ bài hát như em giới thiệu trên sân khấu vừa rồi, mình cũng ham vui, hay đi ca hát và bài này là bài ruột của em đấy, anh thấy em hát bài này được không? .

– Tuyệt vời rồi còn gì, nếu chọn là bài ruột thì ráng mà nhớ tên tác giả, tên bài hát, và thuộc lời đầy đủ nhé, lần sau mà còn trật nữa là kêu cảnh sát phạt đấy.

– Định cười huề, xoa xoa vai tôi – tha cho em, như vậy là thuộc nhiều lắm rồi !

– Định hát có hồn lắm, anh nghe mà nhớ nhà, nhớ quê hương Ninh Hòa, hồi học ở ngoài đó Định có ra Ninh Hòa lần nào chưa?

– Em có nghe nói chứ chưa ra ấy bao giờ, tiếc quá !, nghe nói Ninh Hòa đẹp lắm phải không anh? Hình như thằng bạn dạy em bài hát quê đâu ngòai đấy.

Tôi chẳng biết phải trả lời sao với câu hỏi ít vô tư và khá tế nhị này! Định một thoáng nghĩ ngợi bồi thêm một câu rất tâm lý:

– Cảnh vật thiên nhiên và con người Khánh Hòa em thấy đều đẹp cả, các anh chị đúng là người Khánh Hòa, em rất cảm mến…bữa nào em mời mấy anh đi lai rai nói chuyện cho vui, em có mấy chỗ hay lắm.!

Qua tiếp xúc, tôi ghi nhận Định là một con người chân tình, có tâm hồn nhưng ẩn chứa một chút hoang đàng. Rất biết ơn Định vì Định đã quay ngược được dòng suy nghĩ của chúng tôi đến 180 độ trong một khung cảnh khó mà những cảm xúc loại ấy xen vào. Buổi tối hôm ấy trên đường về tôi cứ miên man vô cớ, vùng ký ức đang bị khuấy động, một cảm giác bâng khuâng xen lẫn những hân hoan. Về đến nhà tôi đã phải điện thọai ngay ra NhaTrang để chia xẻ một nỗi niềm rất thực nhưng cũng rất mơ hồ với Hình Phước Liên dù đã gần 11 giờ đêm, đây cũng là cái cớ để tôi liên lạc với Liên và nói một số chuyện vì vài tháng rồi không tin tức về nhau, tôi nghỉ rằng dù có phải bị đánh thức lúc này chắc Liên không trách cứ gì tôi . Và rồi Liên có mặt bên kia đầu dây. Sau những lời chào hỏi như mọi khi, tôi báo cho Liên biết – rất mừng vì đã tìm được hai đĩa cd nhạc hải ngọai mà Liên giới thiệu là album “Dòng sông Kỷ niệm” do Asia phát hành và Lâm Thúy Vân hát, trong đó có bài “phố huyện chiều em nhớ” của Liên và album “Con gái” do Hạ Vy thực hiện, trong đó có 2 bài của Liên là “Hồn nhiên như lá” và “Mưa xanh”, nhận xét chung về những bài hát trên là những cảm xúc nhẹ nhàng, gợi tả thật sinh động về vùng đất kỷ niệm, với nhiều chất Ninh Hòa, rất tiếc bài “Phố huyện chiều em nhớ” giọng Lâm Thúy Vân yếu quá nên nghe không rõ, nhất là ở những nốt xuống thấp, Liên nói – chất giọng như Lâm Thúy Vân rất thích hợp với tính cách bài hát nhưng nếu được Ngọc Lan hát thì hay hơn, giọng Ngọc Lan tuy mong manh nhưng vẫn rõ ràng, có khả năng len lỏi đến tận cùng. Tôi có nói vui với Liên là – bạn chắc đã biết câu danh ngôn “chỉ vì một cái má lúm đồng tiền mà phải cưới nguyên một cô gái “ và ở đây “ chỉ vì một hai bài hát của bạn mà tôi phải mua đến 2 đĩa nhạc đấy nhé…” tôi đã phải nghe tới, nghe lui để thắm thía, để mong tìm kiếm những gì sâu kín, cho đáng đồng tiền bát gạo! (những năm tháng ấy đĩa nhạc CD xuất hiện ở VN chỉ có con đường mang từ nước ngoài về và rất đắt cũng như rất khó kiếm, nhất là những album nhạc không phải nằm trong thị hiếu của của đông đảo người nghe, không phải được copy tại chổ nhiều và rẽ như hiện nay, ngay cả lúc ấy Liên cũng không có những đĩa nhạc trên).

Liên kể lại việc ca sĩ Hạ Vy nhân chuyến về thăm quê, muốn tìm một số nhạc phẩm viết về quê hương Khánh Hòa để ra album riêng, sau khi Liên cho nghe một số bài hát, Vy thấy thích nên mang đi và những bài hát ấy xuất hiện ở hải ngọai là do vậy (quê Hạ Vy ở xã Ninh Diêm, Ninh Hòa. Trước khi sang Mỹ, Vy là ca sĩ của đoàn Hải Đăng- Khánh Hòa) . Cuối cùng tôi nói về sự kiện đi ca hát tối nay, Liên lắng nghe tỏ vẻ thích thú, Liên nói rằng bài hát “ơi con Sông Dinh” ra đời khoảng năm 1981. Ðó là một nội dung mà Liên ấp ủ rất lâu, với tâm nguyện rằng mình là người Ninh Hòa, đã sáng tác nhiều bài hát ca ngợi nhiều thứ nhưng chưa viết gì về Ninh Hòa, về sông Dinh là không ổn, khi ấy Liên công tác ở Ninh Hòa và vợ Liên thì đang làm việc ở Nha Trang nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ phải vào Nha Trang để ổn định cuộc sống gia đình và ngày đó phải giã từ vùng đất thân yêu, lìa xa con sông Dinh yêu dấu và ý tưởng ấy đã thôi thúc Liên viết nên bài hát. Bài này được trình diễn nhiều lần, nhiều nơi trong các chương trình văn nghệ ở Ninh Hòa và được nhiều người Ninh Hòa trong giai đoạn ấy biết đến.

Liên nói thêm rằng anh Hình Phước Long có viết ca khúc “nhớ sông Dinh” cũng rất hay. Chớp được thông tin đó tôi hỏi dồn – Liên có nhớ lời và hát được không ? Liên với giọng khàn khàn đặc biệt, tuy hát không hay nhưng thường các nhạc sĩ nắm bắt được ý tứ bài hát, có khả năng diễn đạt tinh tế nên khi hát dễ tạo cảm xúc tốt “… có đi là đi trăm nẻo, có vượt là vượt nghìn đèo,vẫn nhớ tới quê hương mình có dòng sông Dinh nho nhỏ, vẫn nhớ bóng tre êm đềm, nghiêng mình soi bóng sông…” , nghe Liên hát tôi cứ ngỡ những lời nhắc nhở của con sông quê. Cũng như Liên, nhạc sĩ Hình Phước Long cũng gởi gấm tâm tư, nỗi lòng của mình, một lúc nào đó sẽ phải ly hương, mang tâm trạng tha phương, tự nhủ lòng luôn nhớ về quê nhà, điều ấy bắt gặp ở câu tâm đắc và chủ đạo nhất của bài hát “ơi con sông Dinh” của Liên, như là thông điệp gửi đến tất cả những người con Ninh Hòa xa xứ. Định vừa rồi đã hát thiếu hoặc sai chỗ nào đó nghe là lạ. Tôi đang ngập ngừng chưa nhớ rõ hết thì Liên tiếp lời bài hát“… nhưng nếu tôi xa dòng nước xanh quê nhà là trọn đời tôi sẽ nghèo đi nỗi nhớ, như con sông phơi bãi cát hoang cằn khô…” thật đúng và ý vị cho sự so sánh này, vì không gì buồn và thất vọng khi thấy dòng sông xinh đẹp ngày nào chỉ còn trơ lên một vùng rong rêu, bùn cát giữa mùa khô hạn, những dáng vẻ thơ mộng, những huyền hoặc vô hình chỉ tồn tại như là sự sống, như là phần hồn khi dòng nước còn hiện diện, còn êm đềm trôi giữa tháng ngày. Ta thử nghĩ một lúc nào đó, những hình ảnh quê nhà sẽ không còn nằm trong dòng chảy của nỗi nhớ thì liệu một cuộc sống đích thực của quãng đời ly hương có tồn tại, thân xác ta như bãi cát của lòng sông phơi trơ, như con sông đã mất đi sự sinh động….Liên im lặng một lúc, rồi nói vu vơ vài ý không ăn nhập gì vào những điều tôi mới gợi lên, có lẽ Liên muốn dấu cảm xúc sâu kín của mình, phải chăng là một thứ hạnh phúc của người trồng hoa, dù chỉ là một thỏang hương nhưng lại rất ngào ngạt tận sâu thẳm tâm hồn, nhất là thứ hương đồng nội đã dễ gợi lên một vùng trời đầy hình ảnh của quê hương và kỷ niệm.

Nói về những ca khúc viết về sông Dinh, tôi còn nhớ buổi ra mắt tập thơ “Bóng lá” của Phạm Dạ Thủy ở quán cà phê Phong Lan Ninh Hòa. Cái đêm hôm ấy trời mưa từ buổi chiều nhưng khách mời ở xa vẫn đến đông đủ: – từ Huế, Hà Nội, Nha Trang và tôi về từ Sài Gòn. Với những bài nhận xét tinh tế, bình phẩm thơ rất xúc tích, khá bài bản với nhiều ngợi khen, cổ vũ của những nhà thơ đi trước, có tên tuổi trong giới văn học Khánh Hòa và Việt Nam. Hôm ấy cũng có nhiều giọng ngâm điêu luyện của câu lạc bộ thơ nữ Khánh Hòa làm cho những bài thơ được bay bổng và ngào ngạt hơn. Chắc chắn Phạm Dạ Thủy rất sung sướng và hạnh phúc, vì buổi ra mắt tập thơ như vậy là thành công. Riêng tôi một cảm xúc mạnh mẽ được ghi nhận khi Phạm Dạ Thủy giới thiệu bài thơ “Nhớ quê “ không nằm trong tập thơ vì chị mới viết riêng tặng các bạn trong hội thân hữu Ninh Hòa tại Sài Gòn mà tôi có mặt hôm đó. Baì thơ được nhạc sĩ Hình Phước Liên phổ nhạc rất xuất sắc cũng để riêng tặng tôi cùng vài bạn. Bài hát được ca sĩ Kim Khánh, một ca sĩ có giọng ca “dĩ vãng” như Ánh Tuyết, là ca sĩ nổi tiếng cuả thành phố Nha Trang trình bày. Nôị dung bài hát vẫn trung thành với lời thơ :

“…………………………………

Thoắt đó tóc em giờ chớm bạc

Thơ ngây gởi lại cuối trời xưa

Nhớ quê mấy độ buồn em hát

Lời trôi lênh đênh trên sông mưa

……………………….

Tháng ngày tơ tưởng dòng sông cũ

Vạt cỏ mềm xanh mướt tuổi thơ

Cánh bướm thắm, con chuồn chuồn đỏ

Bay chập chờn trong những giấc mơ.

……………………………………………“

Vẫn là dòng sông Dinh lãng đãng trong thơ được âm nhạc chấp cánh bay cao đã tạo một sức truyền cảm gấp nhiều lần. Bài hát thiết tha, đầm ấm, tuy đượm chút buồn của hoài niệm nhưng vẫn là niềm tin yêu, hứa hẹn một ngày mai sáng tươi. Nhạc của Phước Liên thường nghe rất gần gủi nhưng lại rất khó diễn đạt, cách chuyển cung và những luyến láy thật khó chịu cho những ai mớI đụng vào bài hát, phải chuẩn bị và xử lý kỷ bài hát mới mong không lạc và khô cứng. Bài “nhớ quê” cũng vậy, Kim khánh ca không chê vào đâu được nhưng khi tôi đề nghị Tấn Sơn hát bài này trong dịp họp cuối năm 2002 của hội thân hữu Ninh Hòa thì Sơn lại không truyền cảm hơn vì thiếu chuẩn bị, giọng Sơn thì khoẻ mạnh, đầy kỹ thuật nhưng thiếu chất mượt mà, cứ “vô tư” mà hát thì không thể lột tả hết cái tình của bài ca. Chịu khó vuốt ve một tí, đôi chổ sên sến mới đã ! vì âm giai những bài hát của Liên có nhiều chất dân ca. Có thể nói Dạ Thủy đã chọn đúng nhạc sĩ để trao việc phổ nhạc bài thơ ấy và Phước Liên đã chọn đúng ca sĩ để trình bày ca khúc cuả mình. Ngoài Phước Liên, hôm ấy còn có thêm 3 bài thơ được phổ nhạc với 3 nhạc sĩ khác cũng có mặt là Đỗ Trí Dũng – Nha Trang, Huỳnh Liên – Ninh Hòa và một người nữa là anh Tân chủ quán Thiên Thanh ở Lương Sơn nhưng không gây nhiều ấn tượng trong tôi và những bài ấy không dính líu gì với sông Dinh . Trong bữa tiệc văn nghệ “bóng lá” linh đình hôm ấy, món nào cũng ngon lành, nhưng món “nhớ quê” đã thực sự làm tôi khóai khẩu và xúc động, vì món ấy được Dạ Thủy xào nấu bằng nhiều nguyên liệu và gia vị quê nhà, trong đó mặc dù không nói rõ nhưng “nước” của sông Dinh rất tràn đầy, ngọt ngào và thấm đậm.

Điểm lại số người sáng tác nhạc cuả Ninh Hòa chỉ cần dùng một bàn tay đã đếm đủ vì đó là lãnh vực không phải ai muốn cũng làm được. Nó đòi hỏi người viết phải có một khả năng, một trình độ nhất định về cảm xúc, về thẩm âm, sự hiểu biết văn học và điều tiên quyết là phải biết nhạc thuật. Chúng ta có thể điểm danh không khó lắm những nhạc sĩ của Ninh Hòa như: Hình Phước Liên, Hình Phước Long, Bảo Anh, Huỳnh Liên và một vài anh em không chuyên khác. Như vậy số bài hát viết về Ninh Hòa cũng không thể nhiều hơn, và ca khúc viết về sông Dinh càng hiếm, chẳng khác nào đãi cát tìm vàng.

Để kết thúc phần này, một lần nữa chúng ta lại cám ơn những người nhạc sĩ đã góp lời ca tiếng hát vào khu vườn văn nghệ của quê hương Ninh Hòa, dù những sáng tác ấy đã có nhưng âm vang bay xa, được nhiều người biết đến hoặc lặng thầm như một lời nguyện cầu thì chúng ta cũng rất trân trọng dành cả tấm lòng theo những cảm xúc của người nghệ sĩ, người con Ninh Hòa viết và ngợi ca về quê nhà.

[footer]

Vĩnh Biệt Nhạc Sỹ Thanh Tùng (1948 – 2016): Nếu Tôi Chết Hãy Chôn Tôi Với Cây Đàn Guitar

Thế là cuối cùng nhạc sỹ Thanh Tùng cũng ra đi mãi mãi sau gần 10 năm chống chọi với bệnh tật. [dongnhacxua.com] xin gởi lời chia buồn sâu sắc đến gia quyến và cầu mong linh hồn ông sớm an nghỉ nơi hạnh phúc vĩnh hằng!

Nhạc sĩ Thanh Tùng trên xe lăn tại nhà riêng ở Hà Nội vài tháng trước. Ảnh: vnExpress.net
Nhạc sĩ Thanh Tùng trên xe lăn tại nhà riêng ở Hà Nội vài tháng trước. Ảnh: vnExpress.net

Thông tin về sự ra đi của nhà nhạc sỹ đáng kính tràn ngập trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong ngày hôm nay. Điều đó cho thấy nhạc sỹ Thanh Tùng đã để lại nhiều tình cảm quý mến trong lòng người yêu nhạc qua nhiều thế hệ. Như một lời tri ân, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu một sáng tác chung giữa Thanh Tùng và nhạc sỹ Hình Phước Liên mà tuổi trẻ chúng tôi vẫn thường nghêu ngao vào đầu thập niên 1980 “Cây đàn guitar của Lorca”. Trong đó chúng tôi tâm đắc nhất là câu: “Nếu tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn guitar”. Mong sao một tâm hồn nghệ sỹ như nhạc sỹ Thanh Tùng sẽ thanh thản ra đi sau khi đã để lại cho hậu thế một kho tàng âm nhạc đáng trân trọng!

NHẠC SỸ THANH TÙNG – TRÁI TIM CA HÁT LÃNG DU
(Nguồn: tác giả Anh Sa viết trên vnExpress.net)

Âm nhạc Thanh Tùng là tiếng hát của những trái tim yêu đời, yêu người, với nỗi buồn nhẹ nhàng, trong sáng nhưng đầy day dứt.

Nhạc sĩ Thanh Tùng qua đời. Ngoài những lời tiếc thương, dường như mỗi người yêu mến ông đều nhớ đến ít nhất một ca khúc đã gắn với câu chuyện nào đó, ký ức nào đó hay đơn giản chỉ là chút lòng nào đó của họ.

“Lối cũ ta về, vườn xưa có còn, hoàng hôn trong gió, thoảng hương ngọc lan…”

“Em đừng ngồi buồn và đừng nói những lời giận hờn, để bầu trời xanh ngát như màu xanh trong mắt em. Em hãy nhìn cuộc đời, trong một đời có những cuộc đời. Em hãy nhìn vào lòng người, trong lòng người có cả mọi người, có em và có tôi…”

“Em và tôi, xa nhau thấy nhớ gần nhau giận hờn. Em và tôi, những tiếng ca vui, những khúc nhạc buồn. Em và tôi, mỗi người một nửa cuộc đời…”

Dù ngồi xe lăn những năm cuối đời, nhạc sĩ Thanh Tùng vẫn giữ vẻ phong lưu. Ảnh: Quý Đoàn.
Dù ngồi xe lăn những năm cuối đời, nhạc sĩ Thanh Tùng vẫn giữ vẻ phong lưu. Ảnh: Quý Đoàn.

Âm nhạc của Thanh Tùng dường như đã ở đó rất lâu trong trái tim mọi người. Những giai điệu dễ dàng cất lên từ tâm trí của bất kỳ ai như rất thân quen. Mỗi người đều có thể bắt gặp mình trong những bài hát của Thanh Tùng. Họ có thể rơi nước mắt, có thể mỉm cười nhẹ nhàng khi câu hát nào đó cất lên. Những ca khúc cũ mà luôn mới bởi âm nhạc của ông là nắng, mưa, hoa, gió, là buổi sớm mai, là buổi chiều tàn, là đời sống. Có chăng sự tinh tế của người nhạc sĩ đã biến những điều tự nhiên ấy trở nên đẹp đẽ, thấm đẫm chất thơ.

Những ca khúc của Thanh Tùng chứa đựng nỗi buồn, ám ảnh, day dứt nhưng là nỗi buồn trong sáng, lạc quan trước cuộc sống chứ không bi lụy: “Hát đi em, hát lên những lời trái tim. Để với tiếng ca bỗng như ta gần nhau thêm. Có tiếng hát ai như cơn gió mát, giọt lệ nào là dòng suối trong veo. Như là tôi đang ở trong em đó, như tim em nằm ngủ trong tim tôi. Cách xa đâu là lãng quên, để nhớ thương nhuộm hồng trái tim…”.

Thanh Tùng sáng tác khoảng hơn 30 bài, chủ yếu là tình ca. Không phải một kho nhạc đồ sộ về dung lượng, đa dạng về đề tài nhưng ca khúc nào cũng nổi tiếng và dễ dàng đi vào lòng công chúng. Đó là Chuyện tình của biển, Chuyện cổ Nghi Tàm, Đếm lá ngoài sân, Em và tôi, Giọt nắng bên thềm, Giọt sương trên mi mắt, Hát với chú ve con, Hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta, Hoa cúc vàng, Hoa tím ngoài sân, Hoàng hôn màu lá, Lối cũ ta về, Lời tỏ tình mùa xuân, Mưa ngâu, Một mình, Ngôi sao cô đơn, Phố biển, Trái tim không ngủ yên, Vĩnh biệt mùa hè, Một thoáng quê hương… Giai điệu các ca khúc thường nhẹ nhàng, tươi tắn, có chút lãng đãng đúng như tâm hồn lãng du của Thanh Tùng.

Hình ảnh vợ Thanh Tùng xuất hiện trên màn hình trong đêm nhạc "Lối cũ ta về" của ông năm 2011. Lúc này, sức khỏe vị nhạc sĩ đã yếu nên không thể có mặt trên sân khấu. Ảnh: vnExpress.net
Hình ảnh vợ Thanh Tùng xuất hiện trên màn hình trong đêm nhạc “Lối cũ ta về” của ông năm 2011. Lúc này, sức khỏe vị nhạc sĩ đã yếu nên không thể có mặt trên sân khấu. Ảnh: vnExpress.net

Sinh thời, Thanh Tùng nổi tiếng đào hoa, đa tình. Trước khi bị đột quỵ và phải ngồi xe lăn năm 2008, cuộc đời chàng nhạc sĩ hào hoa xứ biển Nha Trang là những tháng ngày rong ruổi hát ca. Người như ông khi còn trẻ biết bao cô gái si mê. Nhưng dù mang tâm hồn ca hát lãng du, trái tim ông lại chỉ dành cho duy nhất người vợ đã mất. Bà ra đi từ đầu những năm 1990, sau 18 năm bên ông. Người đàn ông đó đã có lúc yếu đuối và gửi lòng mình vào ca khúc Một mình.

“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên. Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên. Bao đêm tôi đã một mình nhớ em. Đêm nay tôi lại một mình…”

Người ta nói đàn ông thường khóc khô. Với Thanh Tùng, Một mình như một tiếng nấc dồn nén tất cả nhớ thương dành cho người vợ quá cố. “Nhớ em vội vàng trong nắng trưa. Áo phơi trời đổ cơn mưa. Băn khoăn khi con đang còn nhỏ. Tan ca bố có đón đưa…”, “Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai. Gió sương mòn cả hai vai…”. Cái hay của Thanh Tùng là khi nghe ca khúc của ông, mỗi người phụ nữ đều cảm thấy trong đó bóng dáng của mình, đều thấy như là viết cho mình.

Cách đây vài tháng, trên chiếc xe lăn tại nhà riêng ở Hà Nội, dù không còn nói được, khi được hỏi ông thương ai nhất, nhạc sĩ Thanh Tùng lấy hết sức nói gần tròn vành rõ chữ: “Bà”. Con trai nhạc sĩ – anh Nguyễn Thanh Thông – cho biết các con cũng có lần hỏi bố về ý định đi bước nữa nhưng ông vẫn ở vậy làm gà trống nuôi con để ba người con hiện đều thành công trong cuộc sống.

Thanh Tùng mất nhưng âm nhạc của ông còn. Có lẽ, ông cũng chẳng đi đâu xa. Trái tim ca hát của ông vẫn lãng du đây đó như thường khi rồi về ngồi lặng bên thềm nhà. Ở nơi đó, thời gian qua như quy luật tự nhiên, cuộc sống trôi đi như vốn có, như những câu hát mà ông từng viết:

“…Hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi
Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi
Một sớm mai kia
Chợt thấy hư vô trong đời
Người vẫn đâu đây, người cũng đã như xa rồi
Chỉ là… thế thôi…”.

[footer]

Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước (Song Ngọc)

Đối với những Kito hữu, hôm nay là một ngày Chủ Nhật đặc biệt vì đó là Chủ Nhật thứ V mùa Chay mà ngày xưa còn gọi là “Chủ Nhật Ném Đá”. Sở dĩ có tên gọi “Chủ Nhật Ném Đá” là vì thông điệp của Chủ Nhật V Mùa Chay là một thông điệp về tình yêu và lòng tha thứ, vượt lên trên sự trừng phạt bằng cách ném đá đến chết đối với tội ngoại tình theo lề luật Do Thái xưa. Đôi nét về tôn giáo như thế để quý vị yêu nhạc hiểu rõ hơn về một bản nhạc rất đặc biệt của nhạc sỹ Song Ngọc mà [dongnhacxua.com] hân hạnh giới thiệu hôm nay: “Chuyện người đàn bà 2000 năm trước”.

Ảnh: nguoichanbay.wordpress.com
Ảnh: nguoichanbay.wordpress.com

CHUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ 2000 NĂM TRƯỚC
(Nguồn: http://phatthanhhyvong.com/node/95)

Kính thưa quý thính giả,

Nhạc sĩ Song Ngọc có gởi tặng cho đời nhạc phẩm “Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước”. Nhạc phẩm này nói về một câu chuyện thật lạ lùng, xảy ra khoảng 2000 năm về trước tại xứ Do Thái, được ghi lại trong Kinh Thánh. Trong câu chuyện, một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật lệ của xã hội Do Thái ngày đó, một phụ nữ phạm tội ngoại tình thì sẽ bị xử tử. Những người bắt quả tang phụ nữ này đang phạm tội là những bậc tu sĩ và những người có thẩm quyền trong xã hội trong thời đó. Các nhân vật này là những người thi hành luật pháp triệt để và do vậy, cái chết là định mệnh, là điều chắc chắn sẽ xảy đến cho người phụ nữ xấu số này. Nàng bị vực ra ngoài và công chúng đang vây quanh, chất đá lại, chuẩn bị thi hành cái bản án tử hình mà mặc nhiên ai ai cũng công nhận. Nếu quý vị và tôi đặt mình vào hoàn cảnh cùng đường của nàng, chúng ta sẽ thấy ra sao?

Trong tiết mục “Đời Sống Phước Hạnh” chiều hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị đi ngược lại dòng thời gian 2000 năm, trở lại với khung cảnh của câu chuyện này, dưới cái nhìn và cảm nghĩ của người phụ nữ trong câu chuyện.

“Những bước chân thật nặng nề ngoài sân báo cho nàng biết những người đi ruồng bắt sắp ập tới, trước cả khi nàng thấy họ xuất hiện tại ngưỡng cửa. Nàng biết mình đã bị bắt tại trận. Tại sao nàng không suy nghĩ về điều này trước, để khỏi bị bắt quả tang như thế này? Bây giờ chẳng còn chạy thoát vào đâu được nữa.

Ngay lập tức, nàng nhận ra ngay những người đang bước vào cửa. Họ là những người làm việc ở trong đền thờ, và nếu họ là những người sẽ xét xử nàng trong việc này, thì trước phiên tòa, sự việc không chỉ dừng lại ở những câu hạch hỏi mà thôi. Trong thâm tâm, nàng biết số phận nàng đã bị định đoạt rồi, trừ khi có phép lạ gì xảy ra mà thôi. Đã từ lâu, nàng chẳng biết thế nào là là tình yêu chân thật nữa và nàng đã thôi, không còn mộng mơ tìm kiếm một tình yêu chân thật trong đời. Nàng chỉ mong người ta mở lòng khoan dung nàng, nhưng những người bắt nàng đang trói nàng thật chặt. Chẳng hy vọng gì được tự do. Nàng biết thân phận của mình. Nàng biết mình tội lỗi và đã từ lâu có nhiều người trong thành phố xì xầm bàn tán về nàng. Thật ra thì nàng cũng nghĩ ngợi về những điều này. Nàng biết mình bị khinh dễ và bị chìm đắm trong tuyệt vọng từ lâu. Tội lỗi vây kín tâm hồn, đời sống nàng và tội lỗi cũng chẳng thương xót nàng. Cái chết đau đớn và nhục nhã đang gần kề, cho đến khi nàng bị người ta điệu đến trước một con người mang tên Giê-xu…”

Kính thưa quý thính giả,

Gioan là người tường thuật lại câu chuyện trên, kể lại rằng, buổi sáng hôm đó, Chúa Giê-xu đang ngồi trong đền thờ; dân chúng vây chặt chung quanh Ngài vì họ đang bị thu hút bởi những lời giảng dạy thật đơn giản nhưng tràn đầy tình thương và chân lý của Ngài. Thình lình, các giáo sư luật và các tu sĩ phái Pha-ra-si mang đến cho Ngài người đàn bà bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Cảnh tượng bỗng trở nên huyên náo, ồn ào, pha lẫn với những lời miệt thị, khinh dễ của đám đông trước người đàn bà tội lỗi này. Người đàn bà bị dẫn tới và ném nằm phủ phục dưới chân Chúa Giê-xu. Người tu sĩ dòng Pha-ra-si la lớn tiếng với Ngài: “Thưa thầy, chị nầy bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môi-se, người ngoại tình phải bị ném đá xử tử. Còn Thầy nghĩ sao?”

Quý thính giả thân mến,

Tội lỗi làm ngăn cách. Tội lỗi cản trở chúng ta đến gần với Thiên Chúa, mang lại cảm giác trống vắng và sợ hãi trong cuộc đời. Tội lỗi làm chúng ta mù lòa, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những tham vọng giả dối, sẽ là những niềm đau khổ cho cuộc sống của chúng ta. Đó chính là tình trạng của người đàn bà này. Không ai cảm thấy cô đơn, tủi nhục và sợ hãi như nàng lúc bấy giờ.

Sau khi tuyên bố về tội ngoại tình, lại bị bắt quả tang, của người đàn bà, người lãnh đạo đền thờ lùi lại một bước, mặc nhiên dồn Chúa Giê-xu vào vị thế của một người phán xử và chờ xem phản ứng của Ngài. Một số chi tiết cần biết khác của câu chuyện; đó là những tu sĩ dòng Pha-ra-si, cũng là những nhà làm luật, là những người có thẩm quyền to lớn trong đến thờ và chính quyền của Do thái lúc bấy giờ và họ rất ghét Chúa Giê-xu. Mặc dù Chúa Giê-xu đã thực thi bao phép lạ để chữa bịnh và cứu người, cũng như sự giảng dạy của Ngài tràn đầy chân lý và tình thương, nhưng sự kiêu ngạo đã làm cho các tu sĩ Do thái không nhận ra con người mang tên Giê-xu chính là Thiên Chúa, đã giáng trần để cứu vớt nhân loại ra khỏi vòng vây hãm của tội lỗi và đau khổ triền miên.

Hôm nay, nhân bắt được quả tang một phụ nữ phạm tội ngoại tình, họ muốn biến cơ hội này thành một cái bẫy đặt bắt bớ và có cớ hạch hỏi Ngài. Mặc dầu trong lòng rất ghét Ngài, nhưng bên ngoài, họ tâng bốc khi kêu Giê-xu là “Thầy” để mong Ngài dễ sập bẫy. Mặc dầu là giáo sư luật và hiểu rõ luật lệ hơn ai hết, nhưng họ đã vặn vẹo, tự ý thay đổi luật, khi tuyên bố rằng “người ngoại tình phải bị ném đá”, vì Môi-se ngày xưa chỉ cho phép ném đá khi một phụ nữ đang đính hôn, nhưng lại phạm tội ngoại tình trước ngày hôn lễ. Đó là chưa kể đến sự kiện tại sao họ chỉ đưa ra người đàn bà để phán xét, như vậy, người đàn ông cùng phạm tội ngoại tình với nàng ở đâu? Và tại sao họ không giam nàng một nơi, rồi tới hỏi ý kiến Chúa Giê-xu, thay vì áp dẫn nàng trước đám đông để làm nhục nàng và dồn Chúa Giê-xu ở vào một tình thế vô cùng khó xử?

Nếu Chúa Giê-xu đồng ý với luật Môi-se, tán thành việc xử tử người đàn bà ngoại tình, thì họ sẽ lên án là Ngài “bất nhất”, vì Ngài đã từng tuyên bố Ngài là Chúa Cứu Thế, là “Bánh Từ Trời” đến thế gian “không phải để kết tội nhưng cứu vớt loài người”. Nếu con người Giê-xu thực sự là Chúa Cứu Thế, thì Ngài phải luôn luôn nhu mì, giàu lòng thương xót chứ. Đó là chưa kể, nếu Ngài đồng ý xử tử nàng, Ngài sẽ bị họ kết án là dám tước quyền phân xử của chính quyền La Mã đang cai trị nước Do Thái thời bấy giờ.

Còn nếu Chúa Giê-xu không đồng ý xử tử nàng, nhưng tha nàng, thì Ngài sẽ bị lên án là kẻ “phá hoại luật pháp và lời tiên tri” được ghi trong Kinh Thánh, là kẻ đồng lõa với tội lỗi, không thể hiện sự mẫu mực của một đấng tiên tri hay sự thánh khiết trọn vẹn của Thiên Chúa.

Sứ đồ Gioan kể tiếp câu chuyện như sau: “Họ cố ý gài bẫy để tìm lý do tố cáo Ngài. Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi, Chúa đứng dậy trả lời: “Trong các ông, người nào vô tội hãy ném đá chị ấy trước đi!” Chúa lại cúi xuống viết trên mặt đất. Nghe câu ấy, họ lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước.”

Quý thính giả thân mến,

Thay vì vướng vào cái bẫy của các tu sĩ và luật gia, Chúa Giê-xu đã không đả động đến vấn đề luật pháp hay làm đau đớn thêm nỗi tủi nhục của người đàn bà ngoại tình, nhưng Ngài đã hỏi một câu đi thẳng vào tấm lòng của những con người kiêu ngạo và mù quáng. Chúa Giê-xu hỏi họ: “Trong các ông, người nào vô tội?”. Câu hỏi thật đơn sơ này của Chúa Giê-xu đã làm thức tỉnh những người có mặt hôm đó; đã biến tòa án xử tội người đàn bà ngoại tình trở thành tòa án phán xét của lương tâm trong lòng mỗi người. Chỉ trước đó vài phút, những tu sĩ và luật gia tự cho mình là đủ tư cách để phán quyết về hành vi của người khác, nhưng trước tòa án lương tâm, họ đã cả thẹn, yên lặng và lần lượt bỏ đi.

Câu hỏi của Chúa Giê-xu thật đơn sơ, nhưng khẳng định một chân lý quan trọng rằng “Mọi người đều đã phạm tội”. Có thể chúng ta không phạm pháp, hay không bị bắt quả tang như người đàn bà trong câu chuyện, nhưng không ai là vô tội trước mặt Thiên Chúa cả. Và trước mặt Ngài, mọi tội lỗi, dù nhỏ hay lớn, dù dưới bất kỳ hình thức nào, cũng đều là tội, đều làm thương tổn đến Ngài. Một lời nhận xét cẩu thả, một suy nghĩ kiêu ngạo, một lời giận dữ thốt ra vội vã, một thái độ cay đắng dai dẳng, tất cả đều nguy hại như tội ngoại tình của người đàn bà 2000 năm về trước.

Lời nói của Chúa Giê-xu không những tràn đầy chân lý, những cũng chan chứa tình thương. Chiếu theo luật pháp, người đàn bà ngoại tình này đáng bị xử tội, nhưng trong đôi mắt nhân từ của Chúa Cứu Thế, nàng cũng như tất cả chúng ta, cần nhận sự thương xót, ân huệ và sự tha thứ từ Thiên Chúa. Sau khi mọi người bỏ đi, chỉ còn lại một mình Ngài với người đàn bà, Ngài không đã không lên án, nhưng đã tha thứ nàng, khi Ngài nói “Tôi cũng không xử tội chị đâu”.

Tình thương của Thiên Chúa không có nghĩa là Ngài dung thứ và chấp nhận tội lỗi của chúng ta, nhưng tình thương của Ngài sẽ biến đổi chúng ta, từ một tội nhân trở nên một người mới, tràn đầy tình thương và khao khát làm điều lành. Tình thương, sự nhân từ và lòng tha thứ của Chúa Giê-xu đã hoàn toàn chiếm hữu tâm hồn người đàn bà ngoại tình 2000 năm trước. Chúng ta có thể đoan chắc, nàng ra về và từ bỏ đời sống ngụp lặn trong bùn nhơ trước kia, vì khi Chúa Giê-xu hỏi: “Này chị, họ đi đâu hết cả? Không có ai lên án chị sao?”, thì nàng trả lời “Thưa Chúa, không ai cả”. Nàng đã gọi Giê-xu là Chúa và xưng nhận Ngài là Cứu Chúa của đời nàng.

Kính thưa quý thính giả,

Qua câu chuyện trên, quý vị và tôi thấy mình là ai trong câu chuyện này? Quý vị và tôi có đang khoác trên mình một chiếc áo tôn giáo hay một triết lý cao siêu, tự cho mình tốt đẹp, ít tội và có quyền phán xử người khác, hay quý vị và tôi đang khổ đau với những mặc cảm tội lỗi đêm ngày? Quý vị là người còn có thanh danh hay đã bị bắt quả tang? Nhưng dầu là ai đi nữa, tất cả chúng ta cần được Thiên Chúa thương xót và tha thứ, vì tất cả chúng ta không ai là trọn vẹn trước mặt Ngài và lương tâm chúng ta biết rõ điều này. Theo đúng luật công bình thì “Có tội thì phải đáng phải chết”, nhưng Chúa Giê-xu, chính là Thiên Chúa, vì thương nhân loại, đã hạ sanh làm người, và sau đó bằng lòng chết thế cho tội lỗi của quý vị và tôi trên cây thập tự, cách đây hơn 2000 năm về trước.

Kính thưa quý thính giả,

“Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước” bắt đầu với người đàn bà phạm tội ngoại tình, nhưng câu chuyện đem đến cho mỗi chúng ta niềm hy vọng chứa chan vào sự thương xót và lòng tha thứ bao la của Thiên Chúa, qua những lời lẽ thật đơn sơ nhưng tràn đầy chân lý và tình thương của người đàn ông mang tên Giê-xu. Theo thiển ý của tôi, nếu nhạc sĩ Song Ngọc thay đổi tựa đề bài hát thành “Chuyện Người Đàn Ông 2000 Năm Trước” thì nghe càng hữu lý hơn. Quý vị thì nghĩ sao?

Kính chúc quý thính giả sớm mở tấm lòng đón nhận Thiên Chúa nhân từ vào đời sống mình.

[footer]