30 năm nhạc phim Tây Du Ký (1986 – 2016)

Chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta đón một mùa xuân mới, Xuân Bính Thân 2016. Nhân tết con Khỉ, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu đến quý vị nhạc phim “Tây Du Ký”, phiên bản 1986 mà theo thiển ý của chúng tôi là bản phim về Tôn Ngộ Không hay nhất cho đến thời điểm này.

CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ NHẠC PHIM TÂY DU KÝ
(Nguồn: vtc.vn)

Nhắc đến Tây Du Ký phiên bản 1986, nhiều người nhớ đến ca khúc chủ đề phim ‘Xin hỏi đường ở nơi đâu’, thế nhưng mấy ai biết sự thiệt thòi của cha đẻ ca khúc này.

tay du ky nhac sy 'Xin hỏi đường ở nơi đâu' thể hiện được sự vất vả gian nan của thầy trò Đường Tăng trên đường đi thỉnh kinh.
‘Xin hỏi đường ở nơi đâu’ thể hiện được sự vất vả gian nan của thầy trò Đường Tăng trên đường đi thỉnh kinh.

Mỗi khi kết thúc một tập phim Tây du ký, người xem lại được hòa trong điệu nhạc háo hức hoan ca: ‘Anh hành lý trên vai, tôi thì dắt ngựa. Ngày đón bình minh lên, chiều đưa tiễn hoàng hôn. Mặc gió rét gầm vang, không ngại hiểm nguy cất bước… ‘.

Điệp khúc cùng lời ca dễ thuộc khiến khán giả thực sự gắn bó với bài hát cũng như bộ phim Tây Du Ký. Tuy nhiên, phần đa chỉ biết đến ca sỹ Tưởng Đại Vy là người thể hiện còn vị nhạc sỹ sáng tác thì ít người chú ý.

Ông chính là nhạc sỹ Hứa Kính Thanh nổi tiếng Trung Quốc với hơn 100 ca khúc nhạc phim mang đậm phong cách dân tộc với sự hài hòa nhạc đương đại.

Trong đó, Xin hỏi đường ở nơi đâu trong bộ phim Tây Du Ký được coi là ca khúc thành công nhất của nhạc sỹ Hứa. Ca khúc này đồng thời đã mở ra trào lưu kết hợp nhạc điện tử với nhạc dân tộc cũng như dàn nhạc hợp xướng trong phim ảnh.

Trái ngược với phần nhạc không lời mở đầu phim, ca khúc cuối phim với ca từ hàm ý và da diết khiến người xem cảm nhận được nỗi vất vả trên hành trình đi thỉnh kinh của bốn thầy trò Đường Tăng.

Có thể nói, Xin hỏi đường ở nơi đâu tới nay đã trở thành phần âm nhạc mang tính tiêu chuẩn của phim Tây Du Ký.

Nhạc sĩ Hứa Kính Thanh, cha đẻ ca khúc chủ đề phim Tây Du Ký.
Nhạc sĩ Hứa Kính Thanh, cha đẻ ca khúc chủ đề phim Tây Du Ký.

Cơ duyên đến với đoàn Tây Du Ký

Mùa Đông năm 1983, Hứa Kính Thanh khi đang ngồi trên xe từ nhà đến cơ quan bỗng bật lên trong đầu hai ca câu: ‘Bốn mùa xuân hạ thu đông xoay chuyển, nếm trải bao nỗi cay đắng ngọt bùi’. Sau này, hai câu trên đã trở thành trung tâm và cao trào của bài hát Xin hỏi đường ở nơi đâu.

Hứa Kính Thanh ngó đầu ra cửa xe, trên trời hoa tuyết lất phất bay, chàng trai trẻ khi đó đã tự hỏi, đời con người có tiền thì nên, không tiền thì sẽ khác, mục đích cuộc sống của con người rút cuộc là gì… Từ suy nghĩ đó, ông đã bật ra lời ca ‘Bốn mùa xuân hạ thu đông xoay vần’.

Khi tới cơ quan, Hứa liền viết một mạch xong phần còn lại của ca khúc. Tổng thời gian ông hoàn thành Xin hỏi đường ở nơi đâu chỉ chưa đầy 20 phút.

Sau khi bộ phim Tây Du Ký phát sóng, bài Xin hỏi đường ở nơi đâu khi đó đã được truyền thông bình chọn là một trong 10 ca khúc vàng. Tuy nhiên, đơn vị tổ chức không thể tìm được người nhận giải để trao giải thưởng đặt biệt này.

Về sau, đài truyền hình Bắc Kinh đã tìm ra người nhạc sỹ đó chính là Hứa Kính Thanh, đồng thời trao phần thưởng cho ông.

Ca khúc lận đận và nguy cơ bị hủy

Năm 1986, nhân viên biên tập nhạc của đoàn phim đã hẹn gặp Hứa Kính Thanh để thông báo, lãnh đạo đài trung ương không muốn sử dụng ca khúc Xin hỏi đường ở đâu. Lý do đưa ra: ‘Tây Du Ký là một trong Tứ đại danh tác. Nếu dùng nhạc điện tử để sáng tác nhạc Tây Du Ký thì không phù hợp’.

Từ trái qua: Lục Tiểu Linh Đồng, Hứa Kính Thanh, Dương Khiết và Trì Trọng Thụy.
Từ trái qua: Lục Tiểu Linh Đồng, Hứa Kính Thanh, Dương Khiết và Trì Trọng Thụy.

Hứa Kính Thanh tới Cửu Hoa Sơn và tìm gặp nữ đạo diễn Dương Khiết tâm sự rằng ông đã bỏ nhiều công sức và tâm huyết để sáng tác nhưng giờ lại bị hủy nên rất buồn và tiếc nuối.

Nữ đạo diễn tỏ ra giận dữ, vội viết một bức tâm thư cho lãnh đạo đài, đưa Hứa Kính Thanh chuyển về cho cấp trên. Bản thân Dương Khiết rất thích ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu, vì vậy bà quyết đấu tranh giữ lại bài hát đến cùng.

Sau nhiều lần tác động, cuối cùng lãnh đạo đài đã dồng ý giữ lại ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu của Hứa Kính Thanh làm ca khúc chủ đề cuối phim Tây Du Ký.

Thù lao bèo bọt và chuyện bản quyền

Hứa Kính Thanh từng có lần gặp gỡ ca sỹ thể hiện ‘đứa con tinh thần của ông’ – nam danh ca Tưởng Đại Vy. Qua chuyện trò thân mật, Tưởng Đại Vy cho biết, mỗi lần tham gia một sự kiện văn nghệ và thể hiện ca khúcXin hỏi đường ở nơi đâu, ông đều nhận được cát-xê khoảng 250.000 NDT (854 triệu đồng).

Tính trung bình mỗi tháng ít nhất Tưởng cũng tham gia khoảng 20 sự kiện. Nghe vậy cũng khiến nhạc sỹ Hứa cảm thấy chạnh lòng, bởi ông không hề nhận được một đồng thù lao bản quyền nhạc sỹ.

Nhạc sỹ Hứa Kính Thanh từng nhận được tiền bản quyền cho ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu, tuy nhiên số lần ông nhận được tiền như vậy không phải nhiều, thậm chí khá bèo bọt.

Hiệp hội âm nhạc từng gửi cho Hứa khoảng hơn 300 NDT (khoảng 1 triệu đồng hiện tại) tiền bản quyền để được phép sử dụng ca khúc. Con số này so với giá cát-xê mà Tưởng Đại Vy nhận được là một trời một vực.

Nhạc sĩ Hứa Kính Thanh (phải) trùng phùng nam nghệ sĩ Lục Tiểu Linh Đồng
Nhạc sĩ Hứa Kính Thanh (phải) trùng phùng nam nghệ sĩ Lục Tiểu Linh Đồng

Từng có luật sự ngỏ lời giúp Hứa Kính Thanh đòi lại công bằng, với hy vọng mang lại chút thu nhập cho vị nhạc sỹ đã bước vào độ tuổi thất thập cổ lai hy. Tuy nhiên, nhạc sỹ đã từ chối với lý do: ‘Tôi và Tưởng Đại Vy đều là chỗ quen biết bao năm, mặt mũi nào mà đi làm chuyện như vậy’.

Ngoài ra, nhạc phim Tây Du Ký cũng được nhiều người hâm mộ tải về từ các trang mạng chia sẻ nhạc trực tuyến, trong khi nhạc sỹ Hứa chỉ nhận được duy nhất một lần khoản thù lao bản quyền ca khúc là 8.000 NDT (27 triệu đồng).

Đây là tổng số tiền của hơn 50 trang mạng cộng lại, trong đó có một trang trả với số tiền 2 tệ 7 xu (khoảng 9.200 đồng): ‘Khi đó tôi đã nói, tải về không phải trả tiền cho tôi, chỉ cần gửi cho tôi bao thuốc lá là được rồi’, vị nhạc sỹ hiền lành nói.

Thời kỳ vàng son và 17.000 đồng

Thời gian Tây Du Ký được phát sóng trên truyền hình cách đây hơn 20 năm, Hứa Kính Thanh với tư cách nhạc sỹ sáng tác ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu nhận khoản thù lao là 250 NDT (854.000 đồng)/tập.

Tổng cộng 25 tập ông nhận được 6.250 NDT (21 triệu đồng) – khoản tiền được coi là vô cùng lớn so với thời kỳ bấy giờ (những năm 80).

Khi ghi âm xong Xin hỏi đường ở nơi đâu, đoàn phim trả cho đội ngũ âm nhạc mỗi người 5 NDT (17.000 đồng), mọi người vui sướng lắm nhưng không ai nghĩ bài hát sẽ nổi tiếng’.

Ngoài ra, khi bộ phim Tây Du Ký được chiếu hoàn tất năm 1986, Hứa Kính Thanh đã gửi lời ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu cho tạp chí Tiếng ca Thiên Tân nhưng bị trả lại.

Lý do được tổng biên tập tạp chí này đưa ra là: ‘Ca khúc này bị hoài nghi là có tinh thần không lành mạnh’. Sau đó Hứa tiếp tục gửi ca khúc cho tạp chí Đời sống âm nhạc ở Thẩm Dương và được đăng ngay tức thì.

Hứa Kính Thanh chụp hình lưu niệm cùng Trì Trọng Thụy trong thời gian ông có mặt cùng đoàn Tây Du Ký.
Hứa Kính Thanh chụp hình lưu niệm cùng Trì Trọng Thụy trong thời gian ông có mặt cùng đoàn Tây Du Ký.

Ca khúc Xin hỏi đường ở nơi đâu được nhạc sỹ Hứa Kính Thanh soạn nhạc, trong khi phần lời do nhạc sỹ Diêm Túc soạn. Ngoài ca khúc trên, nhạc sỹ Hứa Kính Thanh còn sáng tác một số các ca khúc khác cho phim như Thiên Trúc thiếu nữ, Trư Bát Giới cõng nàng dâu.

Sau khi gắn bó với đoàn phim Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết, hơn hai mươi năm sau, nhạc sỹ Hứa Kính Thanh tiếp tục được đạo diễn Trương Kỷ Chung mời hợp tác soạn nhạc cho Tân Tây Du Ký (2009), ca khúc ở cuối phim vẫn mang tên Xin hỏi đường ở nơi đâu, nam ca sỹ Đao Lang là người thể hiện chính.

[footer]

Mẹ già như chuối chín cây (Mừng Tuổi Mẹ – Trần Long Ẩn)

Lấy cảm hứng từ hai câu ca dao:
“Mẹ già như cưới chín cây,
Gió lay mẹ rụng, con rày mồ côi”,
nhạc sỹ Trần Long Ẩn đã bổ sung vào dòng nhạc Việt một sáng tác có giá trị về tình mẫu tử. Đây cũng là nhạc phẩm được hát rất nhiều vào mỗi dịp Xuân về. Hôm nay  23 tháng chạp Ất Mùi (01.02.2016), trước thềm năm mới, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Mừng tuổi Mẹ” của nhạc sỹ Trần Long Ẩn.

Mừng tuổi Mẹ (Trần Long Ẩn). Nguồn: tkaraoke.com
Mừng tuổi Mẹ (Trần Long Ẩn). Nguồn: tkaraoke.com

MẸ GIÀ NHƯ CHUỐI CHÍN CÂY
(Nguồn: gxthanhtamhonai.com )

“Lên non mới biết non cao, Có con mới biết công lao mẹ già!”. Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta, không thể nói hết bằng lời.

me-gia-nhu-chuoi-chin-cay--gxthanhtamhonai.com--dongnhacxua.com

Tình mẹ, một tình cảm thiêng liêng, cao quý luôn hiện hữu trong mỗi người con dành cho đấng sinh thành của mình. “Lên non mới biết non cao, Có con mới biết công lao mẹ già!”. Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta, không thể nói hết bằng lời. Và cho dù có đi, ở đâu thì đúng thật, không ai tốt, chăm sóc, lo lắng cho chúng ta bằng chính cha mẹ…

Mọi người chúng ta ai cũng được sinh ra và lớn lên trong vòng tay âu yếm của mẹ hiền. Vẫn biết bên mình có biếtt bao nhiêu người thân yêu – đến trường ta có bạn bè thân thương, có ngôi trường thương mến, có thầy cô kính yêu hằng ngày vỗ về, dạy dỗ … nhưng chắc chẵn có ai không cảm nhận được tình yêu thương đầy ắp, nồng ấm của người mẹ hiền đi theo ta đến suốt cuộc đời là cao cả nhất.

Tình yêu đó cứ lớn dần theo năm tháng, đến bây giờ khi bước chân vào trường trung học phổ thông ta mới phần nào hiểu được tình yêu thiêng liêng của mẹ.

Một sớm mai thức dậy, ta đã cảm nhận được bàn tay mẹ hiền ôm ấp đêm qua, giờ đây lại chuẩn bị nắm cơm buổi sáng trước lúc ta đến trường. Khi ta vào lớp, bàn tay mẹ lại tần tảo nắng mưa ngoài nương rẫy lo cho ta buổi cơm thường nhật, từng manh áo ấm trong những tiết trời lập đông. Cứ thế, tình mẫu tử luôn hiện hữu, cứ mãi che chở, mơn trớn, vỗ về, yêu thương, trìu mến trên mỗi nẻo đường con đến lớp.

Tình mẹ tràn đầy như mặt nước hồ thu buổi sớm mà vẫn chân chất, mộc mạc, gần gũi tinh tươm tựa trang giấy học trò. Có lẽ khi con người còn chưa biết mặt chữ thì tình mẫu tử đã thể hiện đủ đầy, lung linh như ánh trăng rằm trong những câu ca dân gian xưa. Nay trên tất cả các phương tiện trao đổi thông tin, nghệ thuật, hình ảnh người mẹ lại càng được tôn vinh hơn nhưng chắc vẫn chưa bao giờ đủ để nói lên sự hy sinh và tình yêu người mẹ dành cho ta.

Từ tấm bé, khi biết cảm nhận cuộc đời, tình mẹ luôn dần lớn lên bên con theo năm tháng…

“ Ầu ơ … ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi, Khó đi mẹ dắt con đi…”

Câu hát ru con bất ngờ của nhà ai hàng xóm trong đêm sâu quạnh quẽ của miền quê có lẽ cũng đủ đưa ta theo nguồn yêu thương của tình mẹ bao la! Tình mẹ thể hiện mọi nơi trên trái đất này với bất kỳ không gian nào. Một sớm mai trong bài giảng của Thầy ở lớp, vẫn còn nhớ như in câu hò đầm ấm, du dương mà mênh mông tình mẫu tử:

“Hò ơ! Mẹ già như chuối chín cây, Gió lay mẹ rụng… gió lay mẹ rụng … con phải mồ côi!”

Buổi chiều về, đem cảm xúc này thổ lộ với Ba, con lại nghe Ba sụt sùi tiếc thương đã một lần lầm lỡ khi vô tình để mẹ buồn lúc tuổi thời cắp sách. Ba rất sợ mồ côi chăng? Có lẽ thế! Mồ côi với tình yêu thiêng liêng bất tận! mồ côi bàn tay chăm bẵm tự buổi sơ sinh! Mồ côi sự chở che từ tấm bé! Mồ côi ngay cả lúc đã là người lớn như Ba! Mồ côi sự nuông chiều trong thời thơ dại! Mồ côi cả trong buổi xế chiều!… Ba chỉ ngậm ngùi đọc câu ca dao xưa cũ:

 “Công cha như núi Thái sơn.
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Ta chợt rùng mình sợ hãi thật sự nếu trên đời này, ta hay bất kỳ ai lỡ thiếu vắng đi một tình yêu thương của mẹ hiền!

Một đêm sốt xoàng thôi ta đủ biết mẹ chẳng bao giờ yên giấc, bàn tay mẹ nhẹ nhàng sờ trán thăm khám nhiệt độ, đắp chăn, tất tả lo thuốc men, rồi mẹ nấu lá xông mà khi nhỏ ta cứ ngỡ nồi lá xông là thuốc thần để con hết bệnh!

“Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.

Cơn sốt của con đã là cơn lửa đốt lòng mẹ! Cơn ho của con chắc đã làm khuôn mặt mẹ thêm hằn những vết chân chim!

Hình ảnh người mẹ luôn bên đời ấm áp, mãi hy sinh, chở che! Cất tiếng khóc đầu tiên chào đời là ta đã nằm trọn trong tình yêu thương đó. Từng bước đi chập chững trước tiên của đời người, ai đã cầm tay ta dắt đi từng bước một? Khi lỡ ngã đau, ai lên tiếng xít xoa? Cảm nhận được nổi đau lúc này là ai ngoài mẹ? Ai mừng vui nhất khi ta cất tiếng nói bi bô? Khi bước chân vào trường, đằng sau ta không bao giờ thiếu vắng cặp mắt dõi theo đầy lo lắng của mẹ hiền! Và có ai tả được ánh mắt mừng vui của mẹ mỗi khi ta được điểm mười ?

Giờ đây, khi ngồi trên ghế nhà trường với những trang sách mới thơm tho như còn phảng phất mùi hương lúa mới đồng quê và những giọt mồ hôi tảo tần của mẹ, với bộ trang phục màu xanh hôm nay đây chắc không thiếu đi niềm hy vọng cho con nên người tự miền quê xa lắc! Khi phố lên đèn ta chắc mẹ mới rời công việc đồng áng, thoăn thoắt bước chân về nhà dưới làn sương đêm mà mẹ chưa một lần ta thán!

Còn nhớ như in những lúc học bài khuya, mẹ vẫn thức cùng con và ngồi bên may vá, khâu lại từng chiếc khuy, đắp bạ từng mãnh vai áo đã sờn. Ngồi bên con, chắc mẹ sợ con thức khuya không đủ sức mai dậy sớm đến trường, mẹ lại tất tả lo cho con từng ly nước cam ngọt lịm tình yêu thương. Đến khi con chim nhạn lạc bầy kêu sương đâu đó giữa không gian miên mang của đêm miền quê xứ Quảng, con lại lo rằng để mẹ cùng thức quá khuya làm sao ngày mai mẹ tiếp tục ra đồng dưới nắng?

Cũng đã có nhiều lần phạm lỗi, sau cái nhìn nghiêm khắc của mẹ, ta vẫn nhận được sự vỗ về bằng những lời khuyên mộc mạc, chân tình nhưng lắng sâu nỗi bao dung. Mỗi lần như vậy, con như lớn thêm lên, cứng cáp hơn lên và tự hứa với lòng sẽ không bao giờ phạm lỗi. Ta có biết đâu tuổi thơ vẫn cứ êm đềm trôi đi trong lúc lưng mẹ ngày thêm còng xuống theo dấu ấn nghiệt ngã của tháng năm, lỗi lầm xưa con e rằng chưa có dịp nào chuộc lại, tóc mẹ lại trắng thêm khi ta chưa kịp nên người!

Ngày tựu trường phổ thông trung học chuyên, hai mẹ con rụt rè trên phố như không khí “ngày tựu trường đầu tiên” của Thanh Tịnh. Trong trang phục của quê nghèo lạ lẩm tại góc phố phồn hoa nhưng con vẫn cảm nhận được sự rắn rỏi, cứng cáp của mẹ để con vững tin mà tiếp xúc môi trường mới mẻ. Có ai đó thì thầm xót xa, ái ngại nhưng có gì đâu? Người ta có thể có nhiều thứ hơn nhưng con vẫn tin rằng con đã có một gia sản quí nhất trên đời chưa chắc ai sánh kịp đó là tình mẹ của con!

Hôm nay trên chiếc xe đạp mẹ mua cho con vẫn còn thơm mùi sơn mới, con đến trường trong niềm hân hoan như đang trong vòng tay mẹ, con đã tiếp cận môi trường mới, thầy cô mới, bạn bè mới trong veo tuổi thơ học trò, con chắc vẫn không bao giờ thiếu sự lo lắng, nhớ thương của người mẹ hiền tần tảo.

Cuộc đời mẹ là cả một đời mãi hy sinh cho con, tình yêu của mẹ dành cho con mênh mông như trời biển vẫn như câu ca dao xưa đó thôi: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, và nước trong nguồn vẫn luôn chảy mãi như để tình mẹ luôn tồn tại vĩnh hằng!

Giờ đây, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tưởng như báo đáp công ơn trời biển của mẹ bằng cả sự quyết tâm học hành của con! Con hứa với mẹ con sẽ giữ mãi màu xanh đồng phục của con bên cạnh bạn bè con, của trường con luôn trong sáng như niềm tự hào của chính con, như niềm hy vọng ngọt ngào vô tư của mẹ hiền dành cho con.

Mẹ ơi! Tình mẹ thật bao la! Con chỉ là đứa bé thích luôn được nằm trong vòng tay âu yếm, trìu mến của mẹ, của gia đình! Con nguyện sẽ gắng học thật tốt để rèn luyện bản thân con nên người, góp một phần nhỏ bé cho xã hội, đem lại nguồn vui, niềm hy vọng cho mẹ, cho gia đình thương yêu của mình.

Tác giả : Cô học trò nhỏ, con gái của độc giả Trần Thị Sương, đang học lớp 10 chuyên Hóa Trường THPT chuyên Lê Quí Đôn (Đà Nẵng)

Anh Còn Nợ Em: Cố Thi Sỹ Phạm Thành Tài & Nhạc Sỹ Anh Bằng

“Anh còn nợ em” là một trong những sáng tác cuối cùng của nhạc sỹ Anh Bằng. Bản này lần đầu tiên được giới thiệu ở hải ngoại vài năm trước và đã tạo ra một tiếng vang lớn. Sau đó hầu hết các ca sỹ theo đuổi dòng nhạc xưa đều ít nhất một lần thử giọng và giới thiệu “Anh còn nợ em” đến với rộng rãi công chúng yêu nhạc. Thế nhưng không phải người yêu nhạc nào cũng biết đằng sau giai điệu mượt mà là một bài thơ rất mộc mạc và giàu cảm xúc của cố thi sỹ Phạm Thành Tài, một nhà thơ xứ Trầm Hương (Khánh Hòa – Phú Yên). [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại bài viết của nhà thơ Mai Quang để quý vị xa gần có thêm tư liệu.

"Anh còn nợ em" với thủ bút của nhạc sỹ Anh Bằng tặng cho bà quả phụ Phạm Thành Tài.
“Anh còn nợ em” với thủ bút của nhạc sỹ Anh Bằng tặng cho bà quả phụ Phạm Thành Tài.
Bài thơ "Anh còn nợ em"
Bài thơ “Anh còn nợ em”. Nguồn: CoThomMagazine
Núi Nhạn (thành phố Tuy Hòa), địa danh đã xuất hiện trong bài thơ "Anh còn nợ em".
Núi Nhạn (thành phố Tuy Hòa), địa danh đã xuất hiện trong bài thơ “Anh còn nợ em”.

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ QUÁ CỐ PHẠM THÀNH TÀI & TẬP THƠ ‘TÌNH EM CÒN ĐÓ’
(Nguồn: thi sỹ Mai Quang đăng trên TranThiNguyetMai.wordpress.com)

Phạm Thành Tài (1932-1997), quê hương ông, Quận Ninh Hòa thuộc miền Trung Việt, thùy dương cát trắng, xứ Trầm Hương (tỉnh Khánh Hòa). Ông từng là giảng sư đại học tại Đalat. Định cư tại Hoa kỳ 1991. Tốt nghiệp Bác sĩ Đông y/Hoa kỳ OMD 1995.
Làm thơ viết văn từ 1955.
Ngoài các tác phẩm Y học, về Văn học, ông đã để lại 3 tác phẩm: Tình Yêu Em Còn Đó (Thơ); Hương Gây Mùi Nhớ (Thơ); Hoa Đào Năm Ngoái (Tập truyện).
Ông mất tại Nam California ngày 06 tháng 7 năm 1997.

Tình Yêu Em Còn Đó. Tập Thơ. Nhà XB TH. Sông Bé 1990 in 1000 cuốn khổ 12×19. Bìa họa sĩ Đằng Giao. Tựa nhà văn Sơn Nam.
Tình Yêu Em Còn Đó. Tập Thơ. Nhà XB TH. Sông Bé 1990 in 1000 cuốn khổ 12×19. Bìa họa sĩ Đằng Giao. Tựa nhà văn Sơn Nam.

Như tác giả minh định ở trang trong thi tập, đây là: Tập Thơ Tình.
Tình yêu đôi lứa. Tình yêu quê hương. Rải rác có những bài thơ, cảnh vật bên ngoài được phóng rọi (hay qui chiếu?) cảnh lứa đôi (nhân cách hóa) quấn quít dĩ định bên nhau. Ở đó là dòng sông khuya, là cung thuyền, là tiếng khua của nhịp chèo. Là biển, sóng, cánh buồm. Là linh khí Đất Trời – Núi Sông nuôi lớn Giọt Tình.

Người viết đang có trên tay tập Tình Em Còn Đó (một trong hai ấn bản hiếm hoi do gia đình còn lưu giữ, quí tặng). Nhân đây cũng xin phép được gởi lời cám ơn bà quả phụ Phạm Thành Tài (nhũ danh Lê Bảo Chánh) và bà Thúy Liễu (em họ của nhà thơ), đã giúp cho người viết có được một số tư liệu liên quan. Đọc thơ Ông, có vài cảm nhận, nhận xét sau:

-Thi Tập tập trung những bài thơ cực ngắn, 4 câu là đa phần. Mỗi câu cũng thường cũng cực ngắn, 4 chữ, 5 chữ:

Biển giận ai, sóng dữ
Sóng hờn ai, nước đầy
Gió về ru mộng cũ
Chiều nay em ngủ say
.
(Giận Hờn/T.E.C.Đ tr.13)

Và v.v…

Đa số bài thơ trong tập ngắn gọn và cô đọng như vậy.
Người viết có cảm giác, ông rất sở trường về lối thơ dùng ít câu, ít chữ để chuyên chở cảm hứng của mình. Từng cái dấu phẩy (,) dấu chấm (.) ( như những ký âm lặng)… đều đóng một vai trò trong diễn dạt, biểu cảm. Ông rất khéo gói chữ, nêm ý, neo vần một cách tự nhiên (không đẽo gọt). Đó là những câu, những chữ, những dấu đã được cô, chắt tinh tuyền. Bút pháp này gợi lên sự liên tưởng đến nội lực, nội tâm, phong thái và cá tánh của tác giả lúc sinh thời.

– Thể hiện tự nhiên và tài tình trong tổng hợp những mặt chừng như là mâu thuẫn nhau:

.Phóng túng/Chừng mực (hòa lẫn):

Hai đứa bên nhau trong rừng vắng
Gió lá rì rào vây quanh…
Anh nhặt giùm em bên suối vắng
Những sợi thông vàng vương tóc xanh…

Em ơi, cho dẫu tình cách mặt
Chớ có trông hình để bóng xa

Giữa thư yêu, anh tặng em kỷ vật
Một sợi thông vàng vương tóc xanh!…

(Kỷ Vật/T.E.C.Đ.tr.75)

.Cổ kính/ Cách tân (dung hợp):

Mai bỏ anh em về. Sao
Hoa thôi nở. Và áo nữa
Thôi bay. Nắng thôi đỏ… Lửa
Tàn thôi cháy bước xôn xao.

(Em Bỏ Anh/T.E.C.Đ. tr.55)

Vẫn một mình một mình thôi. Em chỉ
Một cánh hoa cô đơn. Một cánh chim
Lìa tổ. Một con đường trăng soi. Bóng lẻ
Một mình mình thôi. Anh hiểu em…

(Anh Hiểu/T.E.C.Đ tr.57)

.Thực/ Ảo (đan xen):

Ngang vườn chợt vắng áo em phơi
Nhớ xao xác lá ngóng mây trời
Mong như dây thép trơ ngoài nắng
Chim sẻ giăng chờ chẳng muốn bay…

(Áo Trắng/T.E.C.Đ. tr.50)

Hoặc:

Em về rồi anh đợi
Hẳn em đâu quên chờ
Xin tóc em một sợi
Thay mây trời, se tơ…

(Xin Em Sợi Tóc//T.E.C.Đ.tr.42)

Và v.v…

-Tuyệt đại đa số những bài thơ trong thi tập, đều có 2 từ “anh” và “em” (Nam và Nữ):

Chiều nay mây mơ mộng
Trôi về phía biển xa
Ước gì anh là sóng
Soi em mấy biển xa…

(Mây/T.E.C.Đ. trang 12)

Còn nhiều, nhiều nữa như vậy!

-Tình Yêu đôi lứa, hình như đâu dâu cũng thấm đẫm và sung mãn trong thơ ông. Ông đã phóng chiếu Tình Yêu ra vạn vật, ra ngoại cảnh, nhân cách hóa như đôi Nam –Nữ đang âu yếm, quấn quít nhau (một ràng buộc dĩ định?) Ví dụ đơn cử ở đây, cảnh Tháp Bà (Ponagar), soi bóng trên dòng Sông Cái, có Cầu Bóng nối qua đôi bờ. Đó là nơi có lẽ đã bao lần ông qua lại, trên quê hương “thùy dương cát trắng” thân thương của mình:

Anh là Tháp, anh nhìn em ngủ
Em là sông, em nằm gối chân anh
Gió Tháp, sông trôi đôi bờ thủ thỉ
Em là Sông Cái, anh Tháp Chàm…

Cầu Bóng đón em- Cánh tay anh đó
Sóng eo thon- vòng nối dôi bờ
Kìa nụ hôn anh hay mặt trời chói đỏ
Nụ hôn thật dài trên dòng chảy như mơ…

(Phát Cảnh/T.E.C.Đ. tr.96).

Phần Kết:

Trích lời Tựa của nhà văn Sơn Nam, mượn làm phần kết:

Người khó tánh có thể yên tâm: Tình yêu lứa đôi trong “Tình Em Còn Đó” đã chan hòa hữu cơ trong tình đất nước, quê hương. Phải chăng đó là tâm sự lớn của một nhà thơ đầy sinh lực….”

Người viết mong được bạn đọc lưu tâm, đón nhận phần Giới thiệu này. Thơ Phạm Thành Tài sẽ góp vài nét đan thanh vào nền thi ca Việt chăng? Mong thay!

[footer]

Nhạc sĩ Vinh Sử: ‘Bao nhiêu bản nhạc, bấy nhiêu nhân tình!’

Trong những ngày cuối năm 2015 và đầu năm 2016, được biết sức khỏe của nhạc sỹ Vinh Sử không tốt, [dongnhacxua.com] xin thay mặt anh chị em nghệ sỹ và người yêu nhạc gởi đến ông lời chúc sức khỏe và mong ông bớt phải gánh chịu đớn đau do căn bệnh ung thư quái ác hành hạ.

nhan-co-cho-em--0--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--1--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nhan-co-cho-em--2--vinh-su--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

NHẠC SỸ VINH SỬ: ‘BAO NHIÊU BẢN NHẠC, BẤY NHIÊU NHÂN TÌNH’
(Nguồn: tác giả Thúy An – Dân Việt viết trên MotTheGioi.vn ngày 2016-01-06)

“Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia”.
Có lẽ vì bản tính ông đào hoa, cũng có lẽ vì trái tim nghệ sĩ trong ông dễ rung cảm trước nhiều bóng hồng nên những người phụ nữ đã cùng ông nên duyên cũng lặng lẽ rời xa. Nhạc của ông vì thế buồn càng chất chứa, sầu càng đong đầy.

Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn
Ở tuổi xế chiều và bị ung thư, nhạc sĩ Vinh Sử sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Ảnh: MotTheGioi.vn

Nhân dịp được vinh danh trong chương trình Sol Vàng vào ngày 9.1 tới trên VTV9, nhạc sĩ Vinh Sử đã phân trần về thói trăng hoa với bốn bà vợ và những câu chuyện về cuộc sống lúc thăng, lúc trầm của mình.

Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn
Vinh Sử thời trẻ. Ảnh: MotTheGioi.vn

Vì mê nhạc nên đời lênh đênh

Với danh xưng “vua nhạc sến”, nhạc sĩ Vinh Sử không chỉ mang nhạc bolero đi sâu vào lòng công chúng mà ông còn là bậc thầy trong việc tạo nên tên tuổi hàng loạt ca sĩ hàng đầu làng nhạc Việt. Bí quyết của ông là gì?

Tôi không có bí quyết gì đặc biệt. Dòng nhạc này vốn đã trữ tình, ngọt ngào nên dễ đi vào lòng người, đặc biệt là giới bình dân. Đỉnh cao của dòng nhạc này tại Việt Nam là vào những năm 1960 – 1970, với rất nhiều ca khúc được thu âm và phổ biến dưới dạng băng cassette cũng như đĩa nhựa như Nhẫn cỏ cho em, Nỗi buồn hoa phượng…
Đầu thế kỉ 21, dòng nhạc này hồi sinh khi hàng loạt các ca sĩ hải ngoại về nước. Bên cạnh đó, các sao trẻ như Đàm Vĩnh Hưng, Lệ Quyên cũng chọn bolero để hát, để ra album. Đây cũng chính là cơ hội khiến bolero phá cách khi có chất của pop, của nhạc sàn, nhạc điện tử… khiến kéo khán giả trẻ lại gần.

Theo ông, lý do gì khiến bolero sau nhiều năm lép vế trước nhạc Âu Mỹ, giờ đã trở lại mạnh mẽ trong đời sống âm nhạc hiện đại như một minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của dòng nhạc bị cho là ủy mị này?

Bolero được yêu thích chủ yếu nhờ ca từ đơn giản và dân dã, giai điệu dễ nhớ, dễ bắt nhịp và dễ hát, và đặc biệt là sự đa dạng trong đề tài, phần lớn là những câu chuyện về tình yêu và cuộc sống, rất ý nghĩa nhưng cũng rất buồn.

Được mệnh danh là “vua nhạc sến”, âm nhạc Vinh Sử gắn bó với dòng nhạc quê hương mang tính đại chúng. Với hơn 60 năm sáng tác, tác phẩm của ông bây giờ là cả một “kho” đồ sộ với cả trăm bài đều là những bản nhạc thất tình. Vì như thế mà người ta càng tò mò về cuộc sống trước đây của ông…

Thời hoàng kim của tôi là những Nhẫn cỏ cho em, Gõ cửa trái tim, Người phu kéo mo cau… Đó là trước năm 1975, với tiền tác quyền từ các ca khúc này đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu.
Thế nhưng, tuổi thơ tôi không trải hoa hồng. Cha mẹ là những người lao động bình dân, làm phu đồn điền cao su cho Pháp, lưu lạc vào miền Đông Nam Bộ trong thập niên 1940. Sau này gia đình tôi về Sài Gòn sống bằng nghề làm bún và tôi được sinh ra trong một xóm lao động nghèo.

Nhưng nghe nói, gia đình ông có thu nhập khá tốt khi chuyển sang làm bún?

Đúng rồi. Khi chuyển sang làm bún, ba tôi vì ham làm mà rất giàu, giàu nhất xóm nhưng ông lại rất tiết kiệm, bóp mồm bóp miệng, không dám ăn thứ mình thích, không dám mua cái mình muốn. Đến cả ra đường khát nước cũng không dám mua uống mà chịu khát chờ về nhà.
Tính ba cũng rất kỳ. Con cái mới 9, 10 tuổi đã cho đi học nghề để kiếm tiền. Nhà có 4 anh chị em nhưng chỉ có tôi được ăn học.
Thế nhưng cũng lạ, những người theo nghề ba giờ đều giàu, chỉ có tôi mê nhạc nên đời lênh đênh.

Gia đình không có ai theo nghệ thuật, mọi người lại đi làm kiếm tiền từ sớm, ông có thể kể về kỷ niệm khiến ông trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng?

Tôi là người rất ương ngạnh, không nghe lời ba mẹ, chỉ làm những gì mình thích. Dù được cho ăn học đàng hoàng nhưng 15 tuổi tôi lại bỏ học để theo đuổi sở thích sáng tác nhạc.
Đây cũng là khoảng thời gian tôi chịu nhiều ánh nhìn hoài nghi từ chính gia đình và mọi người xung quanh. Vì ba tôi mù chữ nên không ai tin tôi. Đến nỗi khi nổi tiếng rồi mọi người vẫn nghĩ tôi đi ăn cắp nhạc của người ta.

Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn
Con đường đến với âm nhạc của nhạc sĩ Vinh Sử nhiều gian nan. Ảnh: MotTheGioi.vn

Bản nhạc đầu tiên bị ném vào sọt rác

Ông không theo học trường lớp về âm nhạc, làm thế nào để ông có thể sáng tác được?

Âm nhạc như có sẵn trong máu tôi từ kiếp trước rồi. Tôi không được học nhạc trước đấy nhưng sau khi quyết định đến với nhạc, tôi đi học và mua nhiều loại sách hướng dẫn cách sáng tác. Sau một năm, tôi bắt đầu sáng tác và tất cả các tác phẩm đều nói về sự chia ly, mất mát của tình yêu đôi lứa.
Để có những tác phẩm như mọi người biết, tôi đã trải qua nhiều chuyện mà nghĩ đến đã thấy xấu hổ. Sáng tác là một chuyện, được ra mắt hay không là chuyện khác.
Trước khi sáng tác, tôi từng trộm tiền của ba má để chơi bời với giới nghệ sĩ nổi tiếng thời đó, nhất là những người làm phát thanh ở Sài Gòn. Tôi còn to gan bán cả căn nhà ba má cho được khoảng 300 – 400 ngàn để ăn uống, chơi bời.
Đến khi hết tiền, tôi giấu người thân và đến xin sống với một người bạn đạp xíc lô trong một con hẻm nhỏ. Cuối cũng ba má cũng phát hiện ra và ông bà tức giận đến mức gọi công an tới bắt tôi.
Nhưng tôi vẫn không từ bỏ đam mê. Còn nhớ lúc đó, Chế Linh đã ghi lại cho tôi bài Yêu người chung vách. Tối đến tôi thường mang ra lề đường, nơi bán hàng quán nhiều và mở lớn tiếng, mọi người khen hay. Thấy vậy tôi mang đi bán cho một nhà phát hành nhạc ở đường Nguyễn Trung Trực nhưng người chủ chỉ kêu về đợi.
Vài ngày sau tôi trở lại thì thấy cuốn băng của mình trong sọt rác. Tôi đã không dám cúi xuống lượm vì xấu hổ mà phải dùng đôi dép đang đi, kẹp lại mang giấu.

Yêu người chung vách có thể coi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, ông đã làm cách nào trong khi nó đã bị ném trong sọt rác?

Tôi đã chịu nhiều tổn thương và bị coi thường, có lẽ đó cũng là thử thách vì may mắn là, không lâu sau đó, tôi gặp được trưởng ban văn nghệ Đài phát thanh Sài Gòn và bản nhạc đầu tay này của tôi được phát miễn phí suốt một tuần trên đài lúc đó.
Ngay lập tức, tôi nhận được rất nhiều hoa của khán giả gửi về và khen tặng. Cả người quăng bản nhạc của tôi vào sọt rác là ông Minh Phát cũng tìm đến và ra giá nhất quyết đòi mua lại để phát hành.
Vì từng bị lừa cả căn nhà nên tôi dè chừng mọi người hơn. Sợ người ta ăn gian kê thêm số đĩa của mình nên khi đi in băng tôi cứ lén lút để ý.

Vậy là từ đây, âm nhạc đã mang đến cho ông cả danh tiếng và tiền bạc?

Thời hoàng kim nhất của tôi là trước năm 1975. Số tiền tác quyền từ các ca khúc đủ để tôi tậu xe hơi, nhà lầu. Tôi cảm ơn trời vì đã cho tôi cứ chắp bút bài nào là nổi tiếng bài đó. Những bản nhạc sáng tác thời mới tập tành làm nhạc sĩ như Nhẫn cỏ cho em, Người phu kéo mo cau, Hai bàn tay trắng… cũng được mọi người đón nhận. Tôi bỗng trở nên nổi tiếng và được gọi là “vua nhạc sến”.
Nhưng, lúc đó tôi nghĩ, có tiền thì phải tiêu, phải ăn nhậu và tôi sa đà vào những cuộc ăn chơi, mỗi đêm chi cả chục lượng vàng ở những nhà hàng sang trọng bậc nhất Sài Gòn.

Bên cạnh những lời đồn ông tiêu tiền như nước, ông còn nổi tiếng là đào hoa vì yêu nhiều…

Tôi thích yêu người đẹp để khi thất tình dễ có cảm hứng sáng tác. Tôi không yêu người xấu. Tôi có bao nhiêu bài nhạc thì có bấy nhiêu người tình, cả viết cho vợ nữa. Nhưng tôi không cặp với nhiều người cùng lúc. Hết yêu người này tôi mới đến với người kia.
Tôi từng bị đồn một lúc ở với nhiều bà. Tôi có phải thần thánh đâu mà làm được vậy.

Ngoài âm nhạc và người tình, ông còn được nhắc đến nhiều vì có đến bốn bà vợ. Ông thấy mình là người may mắn?

Tôi có bốn bà vợ các con đủ trai gái nhưng ở tuổi xế chiều và đang bị ung thư đại tràng, tôi sống một mình trong căn nhà hơn 10m2. Thỉnh thoảng cô vợ thứ ba có tới thăm. Sau khi bỏ tôi, cô ấy lấy chồng khác nhưng chồng cô ấy mất rồi.
Không phải con cái không quan tâm mà do tôi thích ở một mình. Chúng gọi điện hỏi thăm hoài còn khiến tôi bực mình. Tôi cũng già rồi nên sống tay trắng như giờ cũng được, vì chết rồi đâu có mang được theo.

Nghe nói sức khỏe của ông có tiến triển hơn nhiều và ông cũng có nhiều bản nhạc muốn ra mắt?

Nói thế này cũng không sai, nhờ bệnh tật, sức khỏe yếu mà tôi ở nhà và viết được nhiều hơn. Hiện tôi có hơn 200 bản nhạc chưa ra mắt.
Tôi rất vui khi biết sắp tới chương trình Sol Vàng tới đây tặng riêng tôi một đêm nhạc mang tên Vinh Sử – Gõ cửa trái tim. Chương trình này ngoài những ca khúc quen thuộc, tôi cũng gửi đến khán giả một số sáng tác mới. Hi vọng danh ca Giao Linh, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Đàm Vĩnh Hưng, Ngô Khả Tú, Tuấn Vỹ, Mai Quốc Huy… sẽ truyền tải hết được những tâm tình của tôi đến với khán giả.

Cảm ơn ông về những chia sẻ!

[footer]

Ơn Nghĩa Sinh Thành (Dương Thiệu Tước)

Nếu như ‘Lòng Mẹ” của Y Vân là bản nhạc hay nhất về tình mẹ thì có thể nói không ngoa rằng “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của Dương Thiệu Tước (1915 – 1995) là ca khúc hay nhất về tình phụ mẫu. Trước một thực tế đáng buồn là tân nhạc Việt Nam càng ngày càng ít đi những sáng tác lay động về công ơn của bậc sinh thành, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố nhạc sỹ Dương Thiệu Tước để các thế hệ sau tiếp tục giữ vững truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt.

Ơn Nghĩa Sinh Thành (Dương Thiệu Tước). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ơn Nghĩa Sinh Thành (Dương Thiệu Tước). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
on-nghia-sinh-thanh--1--duong-thieu-tuoc--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
on-nghia-sinh-thanh--2--duong-thieu-tuoc--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ DƯƠNG THIỆU TƯỚC
(Nguồn: wikipedia)

duong-thieu-tuoc--wikipedia--dongnhacxua.com

Dương Thiệu Tước (19151995) là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam.

Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định.

Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh… Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc “bài Tây theo điệu ta”, những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: „Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.

Ông vào miền Nam sinh sống từ năm 1954. Tại Sài Gòn ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy lục huyền cầm/Tây Ban cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau ngày nước Việt Nam thống nhất năm 1975, nhạc của ông bị cấm đoán và ông cũng bị mất chỗ dạy học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc.

Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại ĐứcHoa Kỳ.

Vợ sau của ông là Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Ông bà sống hạnh phúc trong 30 năm, có với nhau 5 người con là: Dương Hồng Phong, Vân Quỳnh (ca sĩ hải ngoại), Vân Dung, Vân Hòa, Vân Khanh [1].

Sau năm 1975 do bệnh tật nên ông ở lại TP Hồ Chí Minh. Năm 1978 bà Minh Trang cùng các con định cư ở nước ngoài.

Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh và được bà chăm lo cho tuổi về chiều.

Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, sau thời đổi mới, nhạc của ông đã được phép lưu hành lại trên cả nước Việt Nam.

[footer]

Tâm sự của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân

Tiếp nối dòng nhạc của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân, [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến người yêu nhạc vài nét chính về hoạt động nghệ thuật cũng như sinh hoạt đời thường mà chính nhạc sỹ đã chia sẻ trong cuộc trao đổi với nhóm DongNhacVang. Xin cảm ơn nhóm DongNhacVang và chúc nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân luôn dồi dào sức khỏe để an hưởng tuổi già!

Tâm sự về hoàn cảnh ra đời của bản “Hái hoa rừng cho em”, Trương Hoàng Xuân cho biết bản này nhạc sỹ sáng tác ngoài quân trường. Nhiều lúc nhớ “người yêu”, nhạc sỹ đã viết thư và trộm hái hoa rừng (vì sợ cấp trên phát hiện thiếu nghiêm túc trong lúc di hành) để ép vào những lá thư từ chiến trường gửi về người em hậu phương. Nhạc sỹ cũng tiết lộ thêm một chi tiết thú vị: đối tượng trong bài này là Hoàng Ngọc Quyên, người được Trương Hoàng Xuân ưu ái để tên đồng tác giả “Trương Hoàng Xuân – Hoàng Ngọc Quyên”.

Hái hoa rừng cho em (Trương Hoàng Xuân - Hoàng Ngọc Quyên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Hái hoa rừng cho em (Trương Hoàng Xuân – Hoàng Ngọc Quyên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hai-hoa-rung-cho-em--1--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hai-hoa-rung-cho-em--2--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com hai-hoa-rung-cho-em--3--truong-hoa-xuan--hoang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT TIỂU SỬ NHẠC SỸ TRƯƠNG HOÀNG XUÂN 
(Nguồn: wikipedia)

Trương Hoàng Xuân sinh năm 1939 tại Sài Gòn.

Năm 1960, ông tốt nghiệp Sư phạm, về dạy tại Long Khánh, tỉnh Bình Tuy.

Năm 1968 đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng.

Năm 1972 ông được Bộ Giáo dục VNCH bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10.

Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới cho thôi việc, ông xin qua Ngành Bưu điện làm công tác văn nghệ quần chúng cho đến ngày nghỉ hưu.

TÂM SỰ CỦA NHẠC SỸ TRƯƠNG HOÀNG XUÂN 
(Nguồn: nhóm DongNhacVang)

[footer]

Nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân: Một bước xa rời – muôn kiếp ly tan

[dongnhacxua.com] xin mạn phép lão nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân để lấy một câu trong bản “Bạc trắng lửa hồng” nổi tiếng của ông để đặt tựa cho bài viết này. Bản này ông ký nghệ danh Thy Lynh, là một cách ghép tên của người bạn gái và tên ông. Gần 50 năm trước, ông đã viết “Một bước xa rời, muôn kiếp ly tan …” và không biết có phải là định mệnh hay không nhưng sau khi vợ và 3 người con ra hải ngoại định cư, ông vẫn chọn cách sống bình dị và cô đơn trong một căn phòng nhỏ ở Sài Gòn. [dongnhacxua.com] chúc ông nhiều sức khỏe, gia đình có ngày đoàn tụ và luôn thấy ấm lòng khi người yêu nhạc vẫn còn hát mãi “Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi sao …”

Nhạc phẩm "Bạc Trắng Lửa Hồng" của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân, ký tên "Thy Lynh" với phần tham gia của Khánh Băng. Ảnh: HopAmViet.com
Nhạc phẩm “Bạc Trắng Lửa Hồng” của nhạc sỹ Trương Hoàng Xuân, ký tên “Thy Lynh” với phần tham gia của Khánh Băng. Ảnh: HopAmViet.com

bac-trang-lua-hong--1--truong-hoang-xuan--khanh-bang--hopamviet.com--dongnhacxua.com

TUỔI GIÀ CÔ QUẠNH CỦA NHẠC SỸ “BẠC TRẮNG LỬA HỒNG”
(Nguồn: vnExpress,vn ngày 9/5/2015)

Ly hôn vợ và sống một mình hơn mười năm, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân vẫn không nguôi mơ ước về một mái ấm có đầy đủ các thành viên trong gia đình.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân trong căn nhà thiếu ánh sáng vì thường xuyên đóng kín cửa. Ảnh: vnExpress.net
Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân trong căn nhà thiếu ánh sáng vì thường xuyên đóng kín cửa. Ảnh: vnExpress.net

Người dân trong con hẻm trên đường Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận, TP HCM quen với hình ảnh một ông già sống âm thầm trong căn nhà nhỏ. Mỗi khi có việc đi chợ, đi viện hoặc buồn quá muốn lái xe chạy vòng vòng thành phố, ông mới ra khỏi nhà. Đó là nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, tác giả nhiều tình khúc Bolero được ái mộ như Bạc trắng lửa hồng, Những ngày hoa mộng, Xé thư tình…

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân bắt đầu cảnh sống cô đơn cách đây 15 năm, sau khi ly hôn vợ. Căn nhà ông đang ở chưa đầy 20 m2. Tầng trệt vừa là phòng khách, vừa là chỗ để xe và nhạc cụ. Không gian dành cho bếp và nhà vệ sinh liền kề vẻn vẹn chừng 5 m2. Nhạc sĩ ngủ trên gác lửng bên cạnh vô số sách, tài liệu cá nhân và những kỷ vật gia đình.

Trong căn phòng khách nhỏ nhưng gọn gàng, chiếc đàn piano và những cây guitar nằm bám bụi. Từ lâu Trương Hoàng Xuân ngừng sáng tác vì không còn cảm hứng. Hai năm trở lại đây, sức khỏe không cho phép để dạy học và chơi nhạc, nhạc sĩ cũng không màng đến nhạc cụ. Ông nói: “Tôi không muốn chạm vào đàn nữa bởi chúng gợi quá nhiều ký ức đau buồn. Chính mẹ tôi còn nói ‘xướng ca vô loài’. Vì quan niệm đó mà tôi chịu nhiều thị phi khi vừa làm thầy giáo, vừa chơi nhạc. Nhiều người đặt điều, nhờ danh nhạc sĩ, tôi có nhiều mối quan hệ ngoài luồng. Nếu có, chắc giờ tôi đã hạnh phúc vì ít nhất, cũng có đứa con rơi nào đó ở cùng”.

Buổi sáng, nhạc sĩ dậy sớm tập thể dục, nghe đài, xem tin tức. Ông thường nấu một bữa rồi dành ăn cả ngày. Trường Hoàng Xuân hiếm khi ra khỏi nhà vì sợ trộm đột nhập, lấy mất những kỷ vật cất giữ trên căn gác. “Khi nào buồn quá, tôi lái xe máy khắp thành phố, len lỏi vào những con hẻm nhỏ cho đến khi mệt thì quay về”, nhạc sĩ chia sẻ về thú vui duy nhất của tuổi già.

Sinh trưởng trong một gia đình mà bố mẹ sớm chia lìa, anh em tan rã, Trương Hoàng Xuân coi vợ và các con là những người thân yêu nhất kề cận bên mình. “Tôi vào đời sớm, năm 16 tuổi đã lo được cho mẹ và hai em gái nhờ đi chơi nhạc tại nhà hàng. 22 tuổi, tôi lấy vợ. Tiền bạc kiếm được bao nhiêu, tôi đem về đưa hết cho vợ nuôi sáu đứa con”, nhạc sĩ tâm sự.

Đời sống hôn nhân không suôn sẻ khi vợ chồng nhạc sĩ bất đồng quan điểm, đặc biệt là việc dạy con. “Tôi nghiêm khắc trong việc giáo dục con bao nhiêu thì vợ dễ dãi bấy nhiêu. Các con không ưa tôi, nói tôi quá khắt khe. Tôi cảm thấy cô đơn trong chính ngôi nhà của mình”, Trương Hoàng Xuân cho biết. Năm 2000, mâu thuẫn tới đỉnh điểm buộc ông phải đưa ra quyết định ly hôn. Nhượng lại căn nhà rộng rãi cho vợ con, nhạc sĩ gom góp tiền dành dụm, mua ngôi nhà nhỏ, dọn ra ở riêng.

Một hàng xóm của ông chia sẻ: “Nhạc sĩ sống hiền lành, nhân ái, thậm chí hơi nhút nhát. Bác thường đóng cửa ở cả ngày trong nhà. Thi thoảng có quà biếu của học sinh, nhạc sĩ đều chia sẻ với bà con trong xóm”.

Phòng khách là nơi để xe và nhiều nhạc cụ của nhạc sĩ. Ảnh: vnExpress.net
Phòng khách là nơi để xe và nhiều nhạc cụ của nhạc sĩ. Ảnh: vnExpress.net

Rơi vào cảnh cô đơn mười mấy năm, nhạc sĩ không có ý định cưới người phụ nữ khác. Trong thâm tâm, ông vẫn mong ngày gia đình đoàn tụ.

“Tôi luôn ý thức mình là nhà giáo, phải sống sao cho học trò, đồng nghiệp cũ nể trọng. Hơn nữa, vợ chồng sống với nhau một ngày nên nghĩa, huống chi bà ấy từng mang nặng đẻ đau sinh cho tôi sáu đứa con. Khi xưa tôi ly hôn vì ngoài mâu thuẫn trong việc dạy con, chúng tôi còn nhiều bất đồng khác khó giải quyết. Giờ cô ấy thay đổi nhiều rồi”, nhạc sĩ giải thích về quyết định không tiến thêm bước nữa trong hôn nhân.

Nhạc sĩ mắc một số bệnh gan, viêm phế quản, viêm mũi dị ứng. Khi trò chuyện, ông thường xuyên thở dốc. Bác sĩ khuyên ông nên nhập viện điều trị. Nhưng vì không yên tâm với sự an toàn của những tài sản tinh thần trong nhà, ông chọn cách uống thuốc và điều trị tại gia.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân (đeo kính) cùng vợ (thứ hai, từ phải qua) và ba con gái trong lần gặp mặt cách đây 3 năm.  Ảnh: vnExpress.net
Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân (đeo kính) cùng vợ (thứ hai, từ phải qua) và ba con gái trong lần gặp mặt cách đây 3 năm. Ảnh: vnExpress.net

Niềm an ủi và cũng là động lực giúp ông nuôi hy vọng gia đình đoàn tụ những năm gần đây là các con đã phần nào hiểu và đón nhận tình cảm nơi ông. Năm 2012, trước khi sang nước ngoài định cư, các người con tổ chức họp mặt gia đình và mời ông tham dự. “Khi các con trưởng thành, hiểu và thông cảm cho bố cũng là lúc chúng kéo nhau đi xa. Tôi không đi theo vì thấy chỉ có sống ở nơi mình sinh ra, lớn lên mới thật sự thoải mái, dù một mình”.

Nhạc sĩ hớn hở khoe, con gái út và vợ ông có ý định về lại Việt Nam: “Tôi định sửa sang căn phòng trên gác làm chỗ ở khi vợ tôi về nước. Tôi nhắc các con sớm giục mẹ quay về”. Ông nói, đến khi đó ông mới yên tâm vào viện điều trị bệnh vì đã có người chăm sóc và bảo vệ ngôi nhà nhỏ.

Châu Mỹ

[footer]

Những kết hợp bất thường trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp

Trong dòng nhạc Trịnh, người yêu nhạc chúng ta khó phân biệt đâu là ca từ và đâu là lời thơ bởi vì Trịnh Công Sơn đã quá tài tình trong việc sử dụng ngôn ngữ. Theo nhận xét của nhạc sỹ Văn Cao: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người của thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ… Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra.” ( Nguồn: Wikipedia). Hôm nay, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu với quý vị một bài viết rất lạ của nhà nghiên cứu ngôn ngữ Trần Kim Phượng.

NHỮNG KẾT HỢP BẤT THƯỜNG TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN DƯỚI GÓC ĐỘ NGỮ PHÁP
(Nguồn: bài viết của PGS.TS Trần Kim Phượng đăng tạp chí Ngôn Ngữ số 10-2011)

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 và mất ngày 1 tháng 4 năm 2001. Ngày 1-4-2015 là kỷ niệm 14 năm ngày mất của ông. Nhân dịp này, vanhoahoc.vn đăng bài viết của PGS.TS. ngôn ngữ học Trần Kim Phượng (khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội), một tín đồ nhạc Trịnh, đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 10-2011 nhân 10 năm ngày mất của ông. Bài do tác giả cung cấp cho vanhoahoc.vn.

PGS.TS Trần Kim Phượng (tác giả bài viết, người chơi ghi-ta) và NCS Nguyễn Thị Bích Hạnh cùng hát nhạc Trịnh sau khi kết thúc buổi bảo vệ luận án TS của NCS tại Học viện KHXH năm 2014 về "Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn" (người hướng dẫn là GS. Đỗ Việt Hùng, chủ tịch hội đồng là GS. Nguyễn Văn Hiệp - đều là những nhà khoa học mê nhạc Trịnh).
PGS.TS Trần Kim Phượng (tác giả bài viết, người chơi ghi-ta) và NCS Nguyễn Thị Bích Hạnh cùng hát nhạc Trịnh sau khi kết thúc buổi bảo vệ luận án TS của NCS tại Học viện KHXH năm 2014 về “Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn” (người hướng dẫn là GS. Đỗ Việt Hùng, chủ tịch hội đồng là GS. Nguyễn Văn Hiệp – đều là những nhà khoa học mê nhạc Trịnh).

Năm nay là kỉ niệm 10 năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trở về với “cát bụi”. Bao năm qua, ở mọi miền trên đất nước Việt Nam, người ta vẫn xao xuyến khi nhắc đến tên ông, say sưa hát những nhạc phẩm của ông và mê mải viết về ông từ nhiều góc nhìn của văn học, văn hóa, ngôn ngữ, triết học, âm nhạc, đời sống, tôn giáo… Hình như ở bất kì lĩnh vực nào, người ta cũng có thể dễ dàng lấy ông làm đề tài nghiên cứu. Theo dòng chảy mãnh liệt đó, chúng tôi thử liều lĩnh “đọc” những ca khúc của ông dưới góc độ ngữ pháp, trước hết, để thỏa mãn những khao khát của chính mình, sau nữa hi vọng góp một tiếng nói làm sáng rõ hơn những tuyệt phẩm mà ông – kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận – đã để lại cho nhân thế.

Người ta đương nhiên thừa nhận Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ, bởi ông đang sở hữu một kho tàng âm nhạc khổng lồ – hơn 500 ca khúc. Người ta còn gọi ông là một nhà thơ, bởi ca khúc của ông thấm đẫm chất thơ và đầy vần điệu. Người ta cũng phải công nhận ông là một triết gia bởi ca từ của ông mang đầy màu sắc triết lý về cõi đời, về nhân thế… Còn chúng tôi, chúng tôi cho rằng ông là một phù thủy về ngôn ngữ. Những độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của ông không ai bắt chước được, không ai làm giả được (Lê Hữu). Nó khiến người ta ngỡ ngàng, hạnh phúc; rồi trăn trở, âu lo; rồi thảnh thơi, siêu thoát… Chúng tôi sẽ nói rõ hơn về những khác lạ của ông trong việc sử dụng các kết hợp ngữ pháp (từ cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ cho đến đơn vị câu).

1. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc cụm danh từ trong ca từ Trịnh Công Sơn

Các cụm danh từ xuất hiện trong ca khúc của người nhạc sĩ tài hoa này không phải lúc nào cũng theo quy chuẩn thông thường. Những nét độc đáo và những tầng nghĩa mới được nảy sinh từ việc đảo trật tự các thành tố, dùng danh từ đơn vị mang tính chất “lạ” hóa, hoặc dùng các định ngữ bất thường.

1.1. Đảo trật tự các thành tố trong cụm từ

Cấu trúc một cụm danh từ thông thường theo quan điểm của Nguyễn Tài Cẩn, gồm 7 thành tố, được sắp xếp như sau:

Tất cả

-4

những

-3

cái

-2

con

-1

mèo

0

đen

+1

ấy

+2

Chỉ tổng lượng (đại từ)

Chỉ lượng (phụ từ, số từ)

Chỉ xuất

Chỉ loại
(danh từ đơn vị)

Trung tâm (Danh từ sự vật)

Từ miêu tả, hạn định

Chỉ định (đại từ)

Tuy nhiên, trong ca từ của Trịnh Công Sơn, có không ít trường hợp trật tự các thành tố bị thay đổi. Đôi khi, việc đảo trật tự khiến ta rất khó minh định ranh giới giữa cụm từ và câu. Dưới đây là một vài thí dụ:

Trật tự của Trịnh Công Sơn

Trật tự thông thường

Xuất xứ (Tên bài hát)

Sen hồng một nụ

Một nụ sen hồng

Đóa hoa vô thường

Quỳnh hương một đóa

Một đóa quỳnh hương

Chuyện đóa quỳnh hương

Hồng má môi em

Má môi em hồng

Đoản khúc thu Hà Nội

Cọng buồn cỏ khô

Cọng cỏ khô buồn

Rừng xưa đã khép

Mùa xanh lá

Mùa lá xanh

Dấu chân địa đàng

Hoa vàng một đóa

Một đóa hoa vàng

Hoa vàng mấy độ

Hoa vàng mấy độ

Mấy độ hoa vàng

Hoa vàng mấy độ

Tóc xanh mấy mùa

Mấy mùa tóc xanh

Phôi pha

Tất nhiên, trước hết, việc đảo trật tự từ ngữ phụ thuộc vào giai điệu và nốt nhạc mà từ ngữ đó phải chuyển tải, nhưng đồng thời xét ở lĩnh vực ngôn ngữ, việc đảo trật tự theo kiểu danh từ sự vật đứng trước danh từ đơn vịsố từ hoặc lượng từ là để nhấn mạnh danh từ sự vật. Có trường hợp, nhạc sĩ lại đảo định tố ở vị trí +1 lên trước danh từ trung tâm: Cọng buồn cỏ khô. Cọng buồn ngay lập tức trở thành một kết hợp độc đáo, bởi người ta thường chỉ nói nỗi buồn, hoặc cùng lắm là sợi buồn (Sợi buồn con nhện giăng mau – Huy Cận). Kết hợp cọng buồn biến danh từ trừu tượng nỗi buồn thành một thực thể có thể nắm bắt được, đếm được. Nói cách khác, nỗi buồn đã hiện hình và mang cảm giác mong manh, vấn vương, phôi phai, lạc loài.

1.2. Dùng danh từ đơn vị mang tính chất “lạ hóa”

Trong hệ thống các danh từ đơn vị mà Trịnh Công Sơn sử dụng, chúng tôi nhận thấy ông rất hay dùng từ vùng và từ phiến:

Tay măng trôi trên vùng tóc dài (Còn tuổi nào cho em)

Vùng tương lai chợt xa xôi (Gọi tên bốn mùa)

Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng (Dấu chân địa đàng)

Tôi xin năm ngón tay em thiên thần trên vùng ăn năn qua cơn hờn dỗi (Lời buồn thánh)

Phiến sầu là tháng ngày (Lời của dòng sông)

Từng phiến mây hồng / từng phiến băng dài (Tuổi đá buồn)

Ru mãi ngàn năm từng phiến môi mềm (Ru em từng ngón xuân nồng)

Nếu so với khoảng, lát, miếng,… thì vùng phiến là những không gian vừa xác định, vừa không định và có độ mở nhiều chiều, nhất là chiều sâu, độ dày nên dễ gợi liên tưởng đến chiều, độ của cảm xúc, tâm hồn. Trịnh Công Sơn thực sự đã “không gian hóa” tất cả những sự vật cụ thể cũng như trừu tượng. Ta có cảm giác sự vật, thực thể nào đối với ông cũng có thể khuôn lại được, sờ nắn được.

Người ta nói nỗi sầu thì ông nói giọt sầu (Còn tuổi nào cho em), làm ta liên tưởng tới Sầu đong càng lắc càng đầy của cụ Nguyễn Du; rồi bãi sầu (Lời của dòng sông), nghe đầy nhức nhối; và cả trái sầu (Như một vết thương), phiến sầu (Lời của dòng sông) nữa. Người ta nói bản tình ca thì ông nói ngọn tình ca (Góp lá mùa xuân), nghe đã thấy dâng đầy sức sống, cảm xúc. Người ta nói mái tóc thì ông nói dòng tóc (Ru em từng ngón xuân nồng), làm ta cảm thấy ngay được độ miên man, mềm mại, vương vít của nó. Người ta nói chuyến xe, chuyến đò thì ông nói chuyến mưa (Diễm xưa); đúng là một tâm trạng đợi chờ khắc khoải, chờ mưa như nó vốn đến và đi theo chuyến, tức là theo luật lệ nhất định. Rồi người ta nói chân mây hay cuối ngày thì ông nói chân ngày (Cỏ xót xa đưa), gợi bước đi thời gian trong những ngẫm ngợi xót xa. Người ta nói ngón tay hay màn sương, búp xuân hồng thì ông nói ngón sương mù (Gọi tên bốn mùa), ngón xuân nồng (Ru em từng ngón xuân nồng), cho những không gian, âm thanh, cảm xúc hiện hình, trinh nguyên, nuột nà, thánh thiện. Người ta nói sự hoang vu thì ông nói nhánh hoang vu (Cỏ xót xa đưa), nhánh vốn là danh từ đơn vị thường đi với cỏ, nỗi cô đơn được định hình đầy mong manh… Người ta nói đôi mắt thì ông nói vườn mắt (Nắng thủy tinh), làm ta thấy như mình đang lạc vào một không gian chan chứa nắng, trong veo, đong đầy cặp mắt người tình.

Những khác lạ ấy làm nên một Trịnh Công Sơn hết sức tinh tế trong cảm nhận sự vật và cũng đầy ưu tư, trăn trở với đời. Người thi sĩ trong âm nhạc này đã cảm nhận cuộc sống sinh động bằng tất cả các giác quan, bằng trực giác và linh giác. Về điểm này, Trịnh Công Sơn cũng giống như các thi sĩ có mẫn cảm nhạy bén, như Xuân Diệu chẳng hạn.

Như vậy, điểm độc đáo của Trịnh Công Sơn là ghép những danh từ sự vật cụ thể với danh từ đơn vị trừu tượng; và ngược lại, ông lại ghép danh từ sự vật trừu tượng với những danh từ đơn vị cụ thể. Chính điều này làm cho những sự vật hữu hình trở nên bớt trần trụi, lung linh hơn, huyền ảo hơn; còn những sự vật vô hình, trừu tượng thì lại được định hình, đến mức dường như chúng ta giơ tay ra là có thể nắm bắt được. Tất cả làm cho thế giới sự vật trong ca từ của ông trở thành một thế giới vừa thực vừa ảo.

1.3. Dùng các định ngữ bất thường

Cách dùng danh từ đơn vị của Trịnh đã độc đáo, cách ông đưa ra các định ngữ đi kèm với các danh từ của mình còn độc đáo hơn. Dễ dàng tìm thấy trong ca khúc của ông những định ngữ hoàn toàn bất ngờ với suy nghĩ của người Việt. Đặc biệt là những định ngữ gắn với tình, thôi thì đủ trọng lượng, đủ chiều kích: tình dài (Bay đi thầm lặng), tình đầy (Đời cho ta thế), tình vơi (Lặng lẽ nơi này), tình sâu (Xin trả nợ người)… Ông rất quan tâm đến sự đầy vơi, hư hao, cho nên mới có ngày tháng vơi (Phúc âm buồn), nắng đầy (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) cơn đau dài (Mưa hồng), những chen đua lâu dài (Một lần thoáng có)… Hãy đọc thật chậm các kết hợp từ của Trịnh:

Những dấu chân ngoan, hố tuyệt vọng (Có những con đường)

Ngọn gió hư hao (Có một ngày như thế)

Chiều bạc mệnh, phút cao giờ sâu (Đóa hoa vô thường)

Cành thênh thang, cành bão bùng (Gọi tên bốn mùa)

Ngày yêu dấu, mây vô danh (Hãy cứ vui như mọi ngày)

Mây hoang đường (Hai mươi mùa nắng lạ)

Nắng vô thường / Chút hương nhân từ (Mưa mùa hạ)

Hạnh phúc ngu ngơ (Ngày nay không còn bé)

Màu lá thanh xuân, ngày tháng hoang vu (Người về bỗng nhớ)

Màu sương thương nhớ (Nhớ mùa thu Hà Nội)

Đá ngây ngô (Rồi như đá ngây ngô)

Vậy là với Trịnh Công Sơn, những sự vật vốn vô tri vô giác bỗng mang tình cảm, tâm trạng con người. Cho nên ta mới gặp phố hoang mang, nhịp chân bơ vơ, cát bụi mệt nhoài… Đến với Trịnh, ta còn nghe thấy lời tà dương, lời mộ địa, lời bể sông (Một cõi đi về), như là vật gì trên đời này cũng có thể cất lên tiếng nói; Từng lời bể sông là lời mộ địa chính là tiếng hấp hối của một ngày. Danh từ thời gian tháng, ngày thì hay gắn với các tính từ hoang vu, âm u… bởi cảm giác cô đơn lúc nào cũng bủa vây Trịnh. Con người Trịnh luôn sống với thiên nhiên, hòa nhập với nhiên nhiên, coi đó như người bạn, như người tình nên sỏi, đá, nắng, phố, cát bụi… cũng nhuốm đầy tâm trạng. Những hình ảnh này xuất hiện dày đặc trong ca từ của người nhạc sĩ lãng du cũng là bởi trong tiềm thức của ông luôn chịu sự ảnh hưởng của triết lí tôn giáo: vũ trụ nguyên sơ, vạn vật hữu tình. Bàn tay xanh xao thì nhiều người nói nhưng bàn tay đói (Cuối cùng cho một tình yêu) thì thật lạ. Nắng vàng mong manh chúng ta cũng đã từng nghe nhưng nắng vàng nghèo hay nắng vàng lạc trên lối đi (Em còn nhớ hay em đã quên) thì chỉ có ở Trịnh mà thôi. Có cái gì man mác buồn trong cách nhìn sự vật ở Trịnh. Đúng là ông chịu lực hút chủ đạo không phải từ sự sinh trưởng – khoẻ khoắn – ấm áp – tươi vui, mà là từ những gì tàn lụi – héo úa – mòn mỏi – u sầu – lạnh lẽo. Nhưng những thứ mà người trần coi là buồn đau thì ông lại nhìn một cách lạc quan, cho nên mới có vết thương hồn nhiên (Tưởng rằng đã quên), trái sầu rực rỡ (Như một vết thương), niềm đau ngọt ngào (Tình xót xa vừa)… Với con mắt trần gian thì các kết hợp ấy thật ngược đời. Song với Trịnh, cảm xúc, tinh thần này có được ở ông bởi ý niệm siêu thoát ảnh hưởng từ tư tưởng tôn giáo. Nhìn xa hơn, những cặp đối lập luôn luôn xuất hiện trong tư tưởng Trịnh, như ông vẫn xem cuộc đời nhị nguyên này vốn bao gồm những cặp phạm trù đối lập nhau, khó dung nạp song cũng khó phân ly. Ông ôm tất cả và không bao giờ tìm cách chia tách chúng. Cho nên ca từ của ông mới tràn ngập các kết hợp sống – chết, nhật – nguyệt, đêm – ngày, buồn – vui, sum họp – chia phôi, khổ đau – hạnh phúc, hay niềm đau – ngọt ngào

 2. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc cụm động từ

Trong cấu trúc cụm động từ của Trịnh, những bổ ngữ xuất hiện cũng đầy khác lạ, đặc biệt là các bổ ngữ đối tượng. Người ta tìm anh, tình em thì Trịnh đi tìm tình (Bống không là bống). Người ta tặng hoa, tặng quà thì Trịnh lại tặng một phố chờ (Đoản khúc thu Hà Nội). Người ta phơi áo thì Trịnh phơi cuộc tình (Ru ta ngậm ngùi), thậm chí là phơi tình cho nắng khô mau / treo tình trên chiếc đinh không (Tình xót xa vừa). Người ta chọn rau, chọn quả thì Trịnh chọn một niềm vui, chọn ngồi thật yên, chọn nắng đầy (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Người ta nhặt lá, nhặt thóc thì Trịnh lại nhặt gió trời (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Người ta đi trong mưa thì Trịnh đi trong chuyện cũ ngày xưa/ đi trong hạnh phúc quê nhà (Hai mươi mùa nắng lạ). Người ta chở hàng, chở khách thì Trịnh chở ngày hấp hối (Vàng phai trước ngõ). Người ta ôm người yêu thì Trịnh ôm mịt mùng (Tình xót xa vừa). Người ta nghiêng mình thì Trịnh lại nghiêng sầu (Mưa hồng), rồi nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình (Để gió cuốn đi)… Động từ đi có thể gắn với rất nhiều bổ ngữ chỉ không gian, song có lẽ chẳng ai nói đi quanh từng giọt nước mắt (Ru đời đã mất). Nghe đã thấy đời thật buồn! Bổ ngữ cách thức, bổ ngữ chỉ mục đích cũng thật đặc biệt, cho nên mới có yêu em thật thà (Hoa vàng mấy độ), gọi em cho nắng chết trên sông dài (Hạ trắng),…

Đọc các cụm động từ của Trịnh Công Sơn, ta như lạc bước vào một công cuộc thể nghiệm ngôn ngữ Việt đầy lí thú. Mỗi một kết hợp ngắn gọn là một nội dung ngữ nghĩa hết sức dày dặn mà Trịnh muốn chuyển tải. Chẳng hạn kết hợp nghiêng sầu hay nghiêng đời ở trên, vẫn là dự cảm về một cuộc đời đầy bấp bênh, xuất phát từ tư tưởng nhà Phật: Cuộc đời này vốn là cõi tạm, con người dừng chân ghé chơi. Hoặc kết hợp của động từ nghe với những thứ không phải là thanh âm thông thường: nghe sầu lên trong nắng, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng (Nhìn những mùa thu đi), nghe tình đổi mùa (Những con mắt trần gian), thậm chí nghe cả im lặng thở dài (Tôi đã lắng nghe) và tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi (Cát bụi)… Ít có nghệ sĩ nào có thính lực kỳ lạ như Trịnh Công Sơn, ông nghe được âm thanh vô thanh và rỗng nghĩa trong bước đi của thời gian, nghe được sự chết dần của đời người, nghe được tiếng chuông gọi hồn đều đều nhẫn nại… Tất cả mọi thanh âm qua thính giác của Trịnh đều gắn với sự cô đơn tận cùng của một con người lúc nào cũng mang trong mình ý nghĩ sinh ra đã là một kẻ thua cuộc… Môtíp quen thuộc của Trịnh là gắn những động từ chỉ hoạt động thông thường với những bổ ngữ trừu tượng. Tất cả thống nhất trong cái nhìn sự vật luôn luôn động, luôn luôn biến đổi của ông.

3. Những bất thường trong cấu trúc cụm tính từ

3.1. Kết hợp so sánh

Vẫn rất xứng đáng là “kẻ du ca về tình yêu”, Trịnh Công Sơn có những so sánh thật lạ với đối tượng tình: tình xa như trời, tình gần như khói mây, tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng… rồi tình mềm trong tay (Tình sầu). Ngoài ra còn hàng loạt các kết hợp so sánh bất ngờ với các tính từ hết sức quen thuộc: xanh, trắng, buồn, mong manh, ngoan,…:

Có những bạn bè xanh như người bệnh (Bay đi thầm lặng)

Rồi một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)

Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này (Lặng lẽ nơi này)

Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)

Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối (Thành phố mùa xuân)

Nắng có hồng bằng đôi môi em/ Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Như cánh vạc bay)…

Đứng ở góc độ phong cách học, tất cả những kết hợp nói trên đều thuộc phép so sánh tu từ. So sánh để làm rõ hơn đối tượng, song đồng thời cũng mang tới những đặc trưng mới cho đối tượng. Điều đáng quan tâm ở đây là Trịnh Công Sơn có những so sánh hết sức táo bạo, gây bất ngờ và tạo được những rung động mạnh cho xúc cảm thẩm mĩ ở người nghe.

Trịnh Công Sơn khá nhạy cảm với một số tính từ nhất định như: lênh đênh, tiều tụy, hư hao, thênh thang, bão bùng… Đặc biệt, ông rất hay sử dụng tính từ mong manh, (gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh, tình mong manh, thân mong manh…). Với Trịnh Công Sơn, cuộc này thật mà hư ảo. Theo Bửu Ý, dường như đây là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.

3.2. Sắc màu của Trịnh

Màu sắc của Trịnh cũng thật lạ, nó lại gắn với những sự vật mà người ta không ngờ tới.

Trước hết là màu hồng. Màu hồng nhạt, hồng đậm,… thì bình thường nhưng hồng vừa thì chưa ai nói. (Đấy là ta chưa bàn tới các kết hợp giấc ngủ vừa (Dấu chân địa đàng); tình xót xa vừa (Tình xót xa vừa). Màu hồng xuất hiện trong câu cũng thật đặc biệt: Em hồng một thuở xuân xanh; Mê man trời hồng vượt đồi lên non (Ra đồng giữa ngọ)…

Màu xanh lại càng lạ:

Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (Diễm xưa);

Nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Tình xa);

Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai (Xin mặt trời ngủ yên)

– Xanh yếu làn da, xanh mướt hồng nhan (Góp lá mùa xuân)

– Tiếng hát xanh xao (Lời buồn thánh)

– Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)

– Tuổi mười sáu xanh cho mọi người (Môi hồng đào)

Màu tím thì có: Chiều tím loang vỉa hè (Nhìn những mùa thu đi). Màu vàng là vàng phai (Vàng phai trước ngõ). Rồi xanh đi với hồng đến khó hiểu song đầy ám ảnh: Hai mươi giấc mộng xanh hồng quá (Hai mươi màu nắng lạ)…

Ngoài ra, một số từ ngữ đóng vai trò là bổ ngữ trong cụm tính từ của Trịnh Công Sơn cũng làm người nghe bất ngờ. Hình như ông chiêm nghiệm cuộc đời bằng quá nhiều những nhạy cảm: Tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); Lá khô vì đợi chờ (Như cánh vạc bay)… Ông đã so sánh cái mướt dài, huyền diệu của tóc với đêm thần thoại. Ngoài ẩn dụ lá… đợi chờ, bổ ngữ nguyên nhân ở đây thật lạ với cách lý giải khôđợi chờ.

4. Sự chuyển hóa từ loại trong ca từ Trịnh Công Sơn

Sự chuyển hóa từ loại diễn ra trong tiếng Việt không phải hiếm và quá đặc biệt, nhưng khi nghe ca từ nhạc Trịnh, người ta vẫn cảm thấy ông đã phù phép cho những từ ngữ của mình. Một số danh từ được dùng như tính từ, chẳng hạn: Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); hay Em đi biền biệt muôn trùng quá (Còn ai với ai). Và cũng không ít những tính từ lại được dùng như danh từ: Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù (Vàng phai trước ngõ); Và tôi đứng bên âu lo này (Này em có nhớ); Ta cười với âm u (Những con mắt trần gian); Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng (Tình xót xa vừa); Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)…

Thậm chí tính từ chỉ màu sắc vốn không kết hợp với phụ từ mệnh lệnh đi nhé nhưng kết hợp này vẫn xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn: Hồng đi nhé xin hồng với nụ (Vàng phai trước ngõ). Đây là trường hợp tính từ được dùng như động từ. Cảm giác rằng ông đã hòa nhập tận cùng với thiên nhiên, nên có thể sai khiến, dụ dỗ cả một nụ hoa. Rồi có động từ được dùng như danh từ: Nghe những tàn phai (tên một bài hát). Như đã nói, bằng một thính lực kỳ lạ, ông đã nghe được bước đi của thời gian trong sự biến chuyển của tạo vật.

5. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc câu

5.1. Những cấu trúc dưới dạng định nghĩa

Xét từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng Trịnh Công Sơn là một nhà Từ điển học tinh tế, bởi ông đã đưa ra những định nghĩa mới, thú vị cho những sự vật quen thuộc:

Con sông là thuyền, mây xa là buồm (Bốn mùa thay lá)

Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du (Biết đâu nguồn cội)

Tên em là vết thương khô (Khói trời mênh mông)

Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe (Ngày nay không còn bé)

Đời mình là những chuyến xe/ Đời mình là những đám đông/ Đời mình là những quán không/ Đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)

Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em/ Ngoài phố mùa đông, đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé!)

Từ góc độ phong cách học, có thể xem đây là những so sánh tu từ. Trịnh Công Sơn đã đem đối chiếu, quy hệ những đối tượng thuộc các phạm trù quá cách biệt nhau để tạo nên những hiệu quả biểu đạt, tri nhận sự vật và xúc cảm thẩm mĩ hết sức sâu sắc, gợi nhiều liên tưởng phong phú nơi người nghe. Cho nên nhìn mưa ngoài trời, ông lại thấy đó là những giọt nước mắt của người tình, hình như nỗi sầu đang dâng đầy trong ông. Đi trong đêm lạnh mùa đông, ông tưởng tượng môi em là đốm lửa hồng, sửa ấm lòng người, xua tan băng giá. Với một người khát sống như Trịnh Công Sơn, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, lúc nào cũng sợ không đủ thời giờ cho kiếp người, ngoảnh lại đã thấy đời xanh rêu, nên ông luôn luôn thích sự xê dịch, cho nên mới có Đời mình là những chuyến xe, đời mình là con nước trôi… Với quan niệm cuộc đời là một vấn nạn, bấp bênh và tình yêu thì mù lòa, Trịnh Công Sơn hay nói tới danh từ vết thương, và vì vậy mới có Tên em là vết thương khô,

Không sao có thể diễn tả hết được những ý nghĩa mà Trịnh Công Sơn muốn khoác cho các sự vật, hiện tượng thông qua các định nghĩa của mình. Chỉ có thể nói rằng bởi cách nhìn cuộc đời của ông quá độc đáo, quá tinh tế nên những người đã yêu nhạc Trịnh thì bao giờ cũng yêu cả phần lời ca của ông.

5.2. Những quan hệ bất thường về nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ

Quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu tiếng Việt luôn là mối quan hệ ràng buộc, hai chiều. Thông thường, vị ngữ phải nêu những đặc trưng vốn có ở chủ ngữ, phù hợp với chủ ngữ. Song với Trịnh, vị ngữ luôn nêu những đặc trưng bất ngờ, tự ông gán cho sự vật. Do vậy mới có những lời ca kỳ diệu như ở dưới đây:

Đêm chờ ánh sáng, mưa đòi cơn nắng. / Những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. (Bốn mùa thay lá)

Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra. (Biết đâu nguồn cội)

Mùa xuân quá vội, mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc lá thu phai. (Chiếc lá thu phai)

Về bên núi đợi ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay. (Chiếc lá thu phai)

Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ (Biển nhớ)

Bờ vai như giấy mới sợ nghiêng hết tình tôi (Thương một người)

Gió đêm nay hát lời tù tội quanh đời (Này em có nhớ)

Mùa xuân vừa đến xin mãi ăn năn mà thôi (Ru em từng ngón xuân nồng)

Đám rong rêu xếp hàng. (Một ngày như mọi ngày)

Xin mây xe thêm màu áo lụa. (Còn tuổi nào cho em)

Một ngày như mọi ngày từng chiều lên hấp hối (Một ngày như mọi ngày)

Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)

Phép nhân hóa là một biện pháp tu từ thường thấy trong ca từ nhạc Trịnh. Rất nhiều những sự vật vô tri, vô giác mang tâm trạng con người: cỏ lá biết buồn, biển biết nhớ, gió biết hát, đêm biết đợi chờ, mưa biết đòi cơn nắng, rong rêu biết xếp hàng… Bởi chính nhạc sĩ đã hóa thân vào những sự vật bình thường và tầm thường nhất. Dường như ông muốn trốn chạy khỏi cõi đời mà lúc nào ông cũng thấy chênh vênh, mất mát, bấp bênh. Song khi ông đã yêu thì mọi vật xung quanh ông cũng biết yêu. Đôi khi, trong Trịnh, dòng chảy tâm tư quá nhanh, quá ồ ạt đã khiến lời ca của ông bị dồn nén, các từ bị rút ngắn đến độ khó mà có thể hiểu trọn vẹn từng câu. Đành phải hiểu cảm xúc chung của cả bài. Như trong bài Có nghe đời nghiêng, cả bài hát giống như tâm sự của người ở lại khi tất cả bỗng dưng trống vắng: Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh, đàn chim non réo bên vườn hoang, người ra đi bến sông nằm lạnh, này nhân gian có nghe đời nghiêng. Hoặc trong bài Chiếc lá thu phai có câu: Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm tóc dài, chập chờn lau trắng trong tay, Trịnh Công Sơn muốn chuyển tải những thông điệp: Cuộc đời thật ngắn ngủi, thật buồn; ngoảnh đi ngoảnh lại, ta đã già; hãy cố gắng để quên đi những ám ảnh về tuổi tác. Cũng phải là một con người trải nghiệm trên đường đời nhiều lắm thì mới có thể viết: Có con đường chở mưa nắng đi (Em còn nhớ hay em đã quên)… Ngôn từ của Trịnh đã kết tinh đến độ đơn khiết, cô đọng nhất.

5.3. Đảo trật tự cú pháp (đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ)

Hãy đọc những ca từ sau đây và sắp xếp lại theo trật tự của chúng ta – những người nhìn cuộc đời bằng con mắt trần gian:

Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ (Một cõi đi về)-> Mùa xuân vừa tàn, rồi mùa hạ cũng tàn.

Xôn xao con đường, xôn xao lá (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Con đường xôn xao, lá cũng xôn xao.

Hồng má môi em hồng sóng xa (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Má môi em hồng, sóng xa hồng.

Mệt quá đôi chân này/ Mệt quá thân ta này (Ngẫu nhiên) -> Đôi chân này mệt quá / Thân ta này mệt quá.

Đừng phai nhé một tấm lòng son (Vườn xưa) -> Một tấm lòng son đừng phai nhé!

Đã về trên sông những cánh bèo xanh (Khói trời mênh mông) -> Những cánh bèo xanh đã về trên sông.

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người. (Để gió cuốn đi) -> Hãy yêu ngày tới dù kiếp người quá mệt …

Cách chúng ta đảo lại như vậy có thể làm ta dễ hiểu hơn, song hình như nó sẽ làm hỏng nhạc Trịnh.

Còn một kiểu sắp xếp nữa mà ta cũng thường gặp trong ca từ của Trịnh. Nó không phải là bất thường, mà là đặc biệt. Đó là việc Trịnh sử dụng kiểu câu đảo bổ ngữ lên trước làm đề ngữ. Cũng có khi thành phần phía trước được xem là trạng ngữ; tuy nhiên, trạng ngữ này lại quan hệ rất chặt với động từ trong câu. Câu thường kết thúc bằng một động từ, nghe khá đột ngột. Thí dụ:

Vườn khuya đóa hoa nào mới nở / Đời ta có ai vừa qua / Rồi bên vết thương tôi quỳ. / Từ những phố kia tôi về. (Đêm thấy ta là thác đổ)

Sáng cho em vòm lá me xanh. / Phố em qua gạch ngói quen tên (Em còn nhớ hay em đã quên)

Im lặng của đêm tôi đã lắng nghe. (Tôi đang lắng nghe)

Về trong phố xưa tôi nằm (Lời thiên thu gọi)

Tuổi buồn em mang đi trong hư vô (Tuổi đá buồn)

Thường thì ta sẽ nói: Đóa hoa nào mới nở trong vườn khuya/ Có ai vừa qua đời tôi/ Tôi quỳ bên vết thương./ Tôi về từ những phố kia./ Gạch ngói quen tên phố em qua./ Tôi đã lắng nghe im lặng của đêm./ Em mang tuổi buồn đi trong hư vô… Kiểu câu không kết thúc bằng thành phần bổ ngữ mà kết thúc bằng chính động từ trung tâm, như đã nói, luôn khiến người nghe có cảm giác đột ngột. Song chính điều đó lại làm nên sức hấp dẫn của nhạc Trịnh; để khi nghe nhạc Trịnh, người ta luôn cảm thấy thiếu, muốn kiếm tìm, muốn nghe mãi…

Còn có những kết hợp khó có thể sắp xếp lại theo thứ tự thông thường, cũng khó mà gọi đó là cụm từ hay là câu nữa. Chẳng hạn như: Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai hay Cuồng phong cánh mỏi hoặc Cỏ xót xa đưa… Điều này càng làm cho ta thấy nhạc sĩ nhìn sự vật, nhìn cuộc đời bằng con mắt khác với chúng ta. Lời ca của Trịnh, nói theo Bửu Ý, đã được đặc cách hóa thành Kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh của Trịnh Công Sơn là do chính ông phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm trở lại cho chính mình.

Mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nghĩa trang Gò Dưa (Thủ Đức-TPHCM)
Mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nghĩa trang Gò Dưa (Thủ Đức-TPHCM)

Đọc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp, chúng tôi không dám nói nó có giúp ta nhiều không trong việc hiểu nhạc Trịnh. Song chúng tôi ghi nhận ở người nhạc sĩ tài hoa này một mẫn cảm ngôn ngữ tuyệt diệu. Bằng những kết hợp lạ lẫm, những so sánh bất ngờ, những sắp xếp độc đáo, thông qua một tri giác bén nhạy, nhiều tầng, đa chiều kích, và với một tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ, Trịnh Công Sơn đã làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ Việt. Trịnh Công Sơn đã sống và đã yêu hết mình, dù cho ông yêu cuộc đời này bằng nỗi lòng của một tên tuyệt vọng. Mỗi ca từ ông để lại cho đời đều thấm đẫm giá trị nhân bản. Hãy sống và yêu đi, như ông đã từng viết: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ! (Mưa hồng)…

 TƯ LIỆU KHẢO SÁT: Trịnh Công Sơn, Tuyển tập những bài ca không năm tháng, Nhà xuất bản Âm nhạc, 1998.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. 1.Dương Viết Á, 2005, Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, NXB Viện Âm nhạc, HN.
  2. 2.Ban Mai, 2008, Trịnh Công Sơn – Vết chân dã tràng, NXB Lao động, Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, HN.
  3. 3.Trần Kim Phượng – Phan Ngọc Ánh, 2011, Danh từ chỉ thời gian – mùa trong ca từ Trịnh Công Sơn; Ngôn ngữ và đời sống, số 4.
  4. 4.Nguồn Internet: http://tuanvannguyen.blogspot.com.

[footer]

Hà Nội mùa vắng những cơn mưa (Trương Quý Hải – Bùi Thanh Tuấn)

Mới đó mà đã 20 năm. Những năm 1995. [dongnhacxua.com] còn nhớ như in cái rét đầu đông Hà Nội. Chúng tôi cùng một số anh em nghệ sỹ lang thang trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), rồi kéo về Hồ Tây và cuối cùng là kết thúc ở một quán cóc gần bờ hồ. Với một người sinh ra và lớn lên ở miền Nam nắng ấm như chúng tôi, cảm giác được trải nghiệm cái lạnh của xứ Bắc quả thật là tuyệt vời. Lại càng hạnh phúc hơn khi được cùng các bạn văn nghệ nhâm nhi rượu Làng Vân, đọc bài thơ “Chia tay người Hà Nội” của Bùi Thanh Tuấn và đàn hát say sưa những nhạc phẩm thịnh hành về Hà Nội lúc đó như “Hà Nội đêm trở gió”, “Hoa sữa, v.v. Hôm nay, trong cái lạnh muộn của Sài Gòn, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”.

BÀI THƠ “CHIA TAY NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA BÙI THANH TUẤN
(Nguồn: thivien.net)

Tặng anh Trần Quang Dũng

Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa,
Cái rét đầu đông giật mình bật khóc.
Hoa sữa thôi rơi những chiều tan học,
Cổ Ngư xưa lặng lẽ dấu chân buồn.

Trúc Bạch giận hờn phía cuối hoàng hôn,
Để con nước thả trôi câu lục bát.
Quán cóc liêu xiêu dăm ba tiếng nhạc,
Phía Hồ Tây vọng lại một câu Kiều.

Hà Nội trời buồn nhớ mắt người yêu,
Nhớ góc phố nhớ hàng me kỷ niệm.
Nhớ buổi chia tay mắt đầy hoa tím,
Ngõ hoa giờ hút dấu gót hài xưa.

Hà Nội mùa này nhớ những cơn mưa…

Đêm Hội quán – Đông 1992

Bài thơ này được đăng trên tạp chí Tuổi xanh năm 1992, sau đó đã được nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ nhạc thành bài hát ‘Hà Nội mùa vắng những cơn mưa’.

ĐÔI NÉT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA “HÀ NỘI MÙA VẮNG NHỮNG CƠN MƯA”
(Nguồn: đăng trên chungta.vn ngày 16/06/2014)

Nhà thơ Bùi Thanh Tuấn có cuộc trò chuyện với Chúng ta về nhạc sĩ Trương Quý Hải và những sáng tác của anh.

Trương Quý Hải (trái) và Bùi Thanh Tuấn (phải).
Trương Quý Hải (trái) và Bùi Thanh Tuấn (phải).

– “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”, ca khúc gắn với tên tuổi của anh và nhạc sĩ Trương Quý Hải, đã có tuổi đời 22 năm. Lúc đó, hai người gặp nhau như thế nào?

– Chúng tôi gặp nhau tình cờ vào buổi giao lưu sinh viên giữa hai miền Nam – Bắc diễn ra tại Hội quán sinh viên của trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Lúc đó, đoàn nào có tiết mục gì thì góp vui cái nấy. Tôi là dân Văn nên nghĩ chỉ có làm thơ mới được… lên sân khấu. Tôi bèn lân la làm quen với những người bạn mới, tò mò hỏi họ về Hà Nội và từng người kể tôi nghe. Ngay hôm đó, chỉ trong vòng 15 phút tôi viết liền một mạch bài thơ ngắn bằng các chất liệu góp lại từ lời kể của bạn bè và những hiểu biết ít ỏi về Hà Nội. Tôi lồng ghép vào trong bài thơ một câu chuyện tình lãng mạn hoàn toàn tưởng tượng để gọi tên một Hà Nội mơ hồ mà tôi không dám chắc là nó có giống thủ đô mà tôi chưa bao giờ đến hay không.

Sau khi đọc giao lưu trên sân khấu, nhạc sĩ Trương Quý Hải đến chỗ tôi xin tờ giấy chép bài thơ. Lúc đó tôi chưa biết anh là ai. Ai xin thơ thì tôi thích lắm, thế là tặng luôn. Tối đó mọi người hẹn nhau liên hoan ở nhà nghỉ công đoàn, nơi đoàn Hà Nội trú ngụ. Anh Hải bước vào phòng và tuyên bố vừa sáng tác xong một ca khúc mới lấy câu thơ đầu làm tựa: “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”. Hải tung guitar lên, rải hợp âm chủ mi-thứ và hát. Tôi rất cảm động và sau đó chúng tôi thân nhau.

– Nhiều ý kiến cho rằng “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” là một bài thơ rất hay. Nhưng nếu không có Trương Quý Hải phổ nhạc, đó chỉ là những câu thơ nằm yên trên trang giấy. Anh bình luận sao về ý kiến này?

– Thơ thì phải nằm trên giấy chứ! Chỉ có nhạc mới cất nên âm vang. Câu hỏi này mang tính “khích tướng”, nhưng tôi thích. Nếu không có anh Hải, bài thơ vẫn có đời sống của một bài thơ, tôi nào sợ gì! Ngược lại, nếu không có duyên may gặp gỡ, anh Hải sẽ không có bài nhạc phổ thơ tôi thì vẫn sẽ có những ca khúc rất hay khác (được biết anh Hải là nhạc sĩ rất chịu khó làm lời, ít phổ thơ). Với lại hai anh em chúng tôi không bao giờ tranh luận về điều đó, chỉ cảm thấy hạnh phúc vì hai người đã “ăn ở” và “đẻ” ra được một đứa con chung xinh đẹp. Năm nay nó vừa tròn 22 tuổi rồi.

[footer]

Tâm sự Mộng Cầm

Ngay sau khi đăng bài viết về chuyện tình Mộng Cầm & Hàn Mặc Tử, [dongnhacxua.com] nhận được nhiều phản hồi của quý vị yêu nhạc xưa nói về một bản nhạc khác của nhạc sỹ Trần Thiện Thanh có tựa “Tâm sự Mộng Cầm”. Theo thông tin này, chúng tôi đã tìm ra bản nhạc tưởng chừng đã thất lạc từ rất lâu. Cảm ơn quý ân nhân đã cung cấp thông tin và giới thiệu với bạn yêu nhạc xa gần.

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

tam-su-mong-cam--1--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com tam-su-mong-cam--2--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

GIẢI MÃ “BÍ ẨN” CUỘC TÌNH HÀN MẶC TỬ & MỘNG CẦM
(Nguồn: bài viết của tác giả Lê Văn sâm đăng trên nguoiduatin.vn ngày 27.12.2012)

Trong một lần may mắn được gặp nữ sĩ Mộng Cầm, tác giả bài báo đã được nghe bộc bạch những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm.

Ảnh nữ sỹ Mộng Cầm chụp năm 1990.
Ảnh nữ sỹ Mộng Cầm chụp năm 1990. Ảnh: nguoiduatin.vn

Từng ngâm nga thơ Hàn Mặc Tử, từng nghe chuyện tình của Hàn thi sĩ với Mộng Cầm, rồi từng nghe đi nghe lại ca khúc “Hàn Mặc Tử”của Trần Thiện Thanh, bất ngờ vào mùa hè năm 1997, tôi lại có dịp ngồi cạnh “người đẹp của thi nhân”, nơi một quán cà phê sân vườn, mang tên Mộng Cầm. Quán là một căn nhà lợp tranh, cạnh đại lộ Nguyễn Văn Linh, khu Nam Sài Gòn, xung quanh có nhiều ao bèo thả cá để khách có thể vừa câu cá vừa nhâm nhi cà phê. Chủ quán là đôi vợ chồng bác sỹ Mộng Đào và Phạm Thiên Bê, con gái và con rể của bà Mộng Cầm.

Đây thôn Vĩ Dạ, một vết cứa đâm tim

Người ta chỉ mới được biết về mối tình lãng mạn của Mộng Cầm – Hàn Mặc Tử qua sách báo. Nhưng bên cạnh mối tình đẹp như mơ ấy, còn có một đời thường với rất nhiều bí ẩn. Mộng Cầm- Huỳnh Thị Nghệ, người thiếu nữ trong mộng ngày xưa ấy của Hàn Mặc Tử, trước mặt tôi bây giờ là một cụ bà ở tuổi tám mươi. Tuy vậy, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét kiêu sa. Thốt nhiên bà mở lời: “Vào tuổi này rồi chẳng còn gì để giấu”. Rồi bà kể như từng phân đoạn hồi tưởng, qua hơi thở có khi hụt hẫng, đứt quãng, dường như là những lời sám hối, tiếc thương.

Quê Mộng Cầm ở Phan Thiết, gần lầu Ông Hoàng nhưng thân sinh bà lại ra làm việc tận Nghệ An. Và ngày 17/7/1917, bà được sinh ra ở đó nên mới có tên “cúng cơm” là Huỳnh Thị Nghệ. Thì ra, tên Nghệ là do sinh ở Nghệ An. Sau đó bà được gửi về trọ ở nhà ông cậu ở Phan Thiết học trường Pline Exercices. Mộng Cầm là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu nên bà cũng có “máu thơ văn”. Tên Mộng Cầm xuất hiện từ khi bà làm thơ gửi đăng báo. Qua những vần thơ trên báo, Hàn Mặc Tử đã tìm đến làm quen, bày tỏ tình cảm với bà qua bài Muôn năm sầu thảm, với câu mở đầu “Nghệ hỡi Nghệ”…Bài thơ ấy, bà Mộng Cầm vẫn thuộc nằm lòng từ đó đến nay. Hàn Mặc Tử là tình yêu đầu đời của bà.

Bà nhìn ra bầu trời tím hoàng hôn ngoại ô Sài Gòn hồi tưởng… Một mùa hè, năm xưa, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Phan Thiết thăm Mộng Cầm. Hàn hỏi ở đâu có cảnh đẹp thì đưa anh đi thăm cho biết. Mộng Cầm đã đưa Hàn Mặc Tử lên lầu Ông Hoàng. Đó là một ngọn đồi thấp, nhưng lên đó vào những đêm trăng tỏ, có thể nhìn thấy Mũi Né và thị xã Phan Thiết mờ ảo, lấp lánh đèn hiệu hay đèn ghe chài như những viên kim cương khổng lồ. Nào ngờ, đây lại là lần đi chơi sau cùng của hai người. Hàn Mặc Tử ra Huế, sau đó vào Quy Nhơn, điều trị bệnh phong ở bệnh viện phong Quy Hòa, và mất ở đó .

Tại sao Hàn Mặc Tử lại ra Huế? Bây giờ thì Mộng Cầm nói hết những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm. Đó là Hàn Mặc Tử có mối tình đầu với một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc. Thân sinh của Hoàng Cúc làm quan chức trong Sở Đạc điền ở Quy Nhơn. Sau khi biết Hàn Mặc Tử theo đuổi con gái mình, do không thích văn nhân, thi sĩ nên ông đã tìm cách đưa Hoàng Cúc về Huế. Thế là Hàn Mặc Tử ra Huế tìm và sau đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ này tuyệt hay nhưng Mộng Cầm lại ghét cay, ghét đắng…

Bà trải các câu thơ ra và dằn từng tiếng, khác với các nghệ sĩ ngâm thơ ngọt ngào. Và dằn cho đến câu cuối.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”

Không biết lần này ra Huế, Hàn có tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu như lần trước, hồi cuối năm 1931, khi còn là Phong Trần hay không? Bấy giờ thi sĩ mới 19 tuổi, tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, giữa vòng vây của mật thám Pháp. Do trước đó, từ năm 1930-1931, Hàn đã nổi tiếng với bút hiệu Phong Trần là nhờ lời giới thiệu của cụ Phan. Lúc bấy giờ cụ Phan bị Pháp bắt an trí ở Huế. Cụ lập Mộng Du thi xã với mục đích quy tụ những nhà thơ yêu nước, Hàn Mặc Tử gửi đến thi xã 3 bài thơ yêu nước là Thức khuya, Chùa Hoang và Gái ở chùa (sau in lại trong “Lệ Thanh thi tập”). Mở đầu bài “Thức khuya” có câu: “Non sông bốn mặt ngủ mơ màng/Thức chỉ mình ta dạ chẳng an…” và được cụ Phan rất tán thưởng “…Từ ngày về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế…Ước ao có ngày gặp gỡ”. Cụ đã họa lại và cho đăng báo. Bài họa bài “Thức khuya” mở đầu: “Chợ lợi trường danh tí chẳng màng/Sao ăn không đặng ngủ không an…”

Ngoài Hoàng Cúc và Mộng Cầm ra, Hàn Mặc Tử còn có hai người tình nữa là Mai Đình nữ sĩ và Ngọc Sương, chị gái của thi sĩ Bích Khê. Mối tình của Mai Đình nữ sĩ không sâu đậm, chỉ là “tình văn chương”, còn với Ngọc Sương thì như ngọn gió mát thoảng qua đời Hàn mà thôi (theo Quách Tấn, một người bạn thân thiết của thi sĩ).

“Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu”

Mối tình của Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm chẳng đi đến đâu. Mộng Cầm bộc bạch: Với hai lẽ, một là bà là con nhà phong kiến, cha mẹ luôn cản trở bà lấy một người Công giáo, lại là văn nhân, thi sĩ. Nhưng quan trọng hơn là lúc ấy bà quá thương Hàn Mặc Tử. Theo bà hiểu thì người bị bệnh phong gần đàn bà sẽ rất mau chết. Vì vậy, bà cố tránh để Hàn Mặc Tử mau chóng bình phục, sau đó sẽ liệu lần với cha mẹ. Nhưng tiếc là Hàn không qua khỏi… Bây giờ người đọc thấy những vần thơ hai người viết cho nhau rất thắm thiết, nhưng thật sự cho đến lúc Hàn Mặc Tử mất, giữa Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử không hề có chuyện gần gũi. Thời ấy, mới cầm tay nhau là đã run lắm rồi. Sau này nhớ lại những kỷ niệm với cố nhân, Mộng Cầm có bài thơ “Kỷ niệm Hàn Mặc Tử ở lầu Ông Hoàng”, một bài thơ chưa bao giờ phổ biến, được bà chép tay, nét chữ đã phai màu, trao cho tôi.:

Sương sa trong lúc hoàng hôn

Đường lên dốc đá sáng dần bể xanh

Triều dâng con nước mênh mông

Chuông chùa văng vẳng tiếng lòng xôn xao

Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?

Hồn xưa anh mất cảnh gieo sầu

Mây mù phủ kín vòng bình địa

Căm hờn tháp cũ cuộc bể dâu

Thật cảm động, như một chiều tình cờ được nghe thơ nhạc giao duyên, vì khi bà Mộng Cầm ngâm nga: “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu” thì cô con gái, bác sỹ Mộng Đào mở lớn nhạc bài “Hàn Mặc Tử“.

Sau khi Hàn Mặc Tử mất, Mộng Cầm lập gia đình và sinh được 7 người con. Người bạn đời của bà cũng biết rõ mối quan hệ của bà với Hàn Mặc Tử nhưng vẫn tôn trọng nhà thơ quá cố. Con gái lớn của bà là Mộng Đào, là bác sĩ, đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm trước, Thành phố mới Nam Sài Gòn được khai hoang trên đồng phèn, Cảnh chiều buồn vắng vẻ, khi tiễn chân tôi ra cổng, bà níu tay tôi dặn dò: “Anh coi có bạn bè nhạc sỹ, nhờ phổ bài thơ này ra bài hát dùm tôi”. Ngày 23/7/2007, bà Mộng Cầm qua đời tại số nhà số 300, Trần Hưng Đạo, Phan Thiết. Theo lời trăng trối của bà Mộng Cầm, cô con gái Hồ Mộng Đức đã mai táng bà trên lưng đồi lầu Ông Hoàng. Và lầu Ông Hoàng từ lâu đã đi vào tâm thức bao thế hệ khi nghe những bài hát về mối tình lãng mạn này, như Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm Ca… và cả bài ca vọng cổ Tâm sự Mộng Cầm… Thế mà đến nay tôi vẫn chưa nhờ ai phổ nhạc bài thơ “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?” của bà được.

Lê Văn Sâm

[footer]