Xuân và tuổi trẻ (La Hối – Thế Lữ – Diệp Truyền Hoa)

Tiếp nối ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương, [dongnhacxua.com] xin mời quý vị trở về với dòng nhạc tiền chiến để thưởng thức một trong những bản nhạc xuân hay nhất của nền tân nhạc Việt Nam: ‘Xuân và tuổi trẻ’ với nét nhạc của nhạc sỹ La Hối phần Việt ngữ do thi sỹ Thế Lữ đặt lời.

Xuân và tuổi trẻ (La Hối - Thế Lữ - Diệp Truyền Hoa). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Xuân và tuổi trẻ (La Hối – Thế Lữ – Diệp Truyền Hoa). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

xuan-va-tuoi-tre--1--la-hoi-the-lu--diep-truyen-hoa--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

LA HỐI VỚI XUÂN VÀ TUỔI TRẺ 1
(Nguồn: tác giả Trương Duy Cường đăng trên QuanVan.Net)

Hàng năm khi mùa xuân đến, nhạc phẩm Xuân và Tuổi Trẻ của nhạc sĩ La Hối lại vang lên cùng với tác phẩm bất hủ Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Xuân và Tuổi Trẻ, nhạc của La Hối,… một nhạc sĩ sống ở miền Trung và lời của Thế Lữ, một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, sống ở miền Bắc, không quen biết nhau, không sống gần nhau. Sao có sự kết hợp lạ lùng như vậy? Có nhiều thính giả đã lầm tưởng nhạc sĩ La Hối đã phổ nhạc một bài thơ của thi sĩ Thế Lữ. Nhưng sự thực lại ngược lại.

Nhạc sĩ La Hối tên thật là La Doãn Chánh, sinh năm 1920 tại Faifoo (thành phố Hội An). Ông là người Hoa kiều gốc Quảng Đông (Trung Hoa). Họ La là một đại gia Hoa kiều, đa số lập nghiệp trên đường Rue des Cantonnais (Phố Quảng Đông), sau nầy đổi thành đường Nguyễn Thái Học, như nhà buôn La Thiên Thái, La Thiên Ba, La Thiên Hòa, La Ngọc Anh tại Phố Cổ Hội An và La Hoài đường Gia Hội tại Huế. Gia đình cha mẹ tôi sống bên cạnh các gia đình họ La đó.

Năm 1936-1938, La Hối vào Saigon để học tiếp văn hóa Trung Hoa bậc Cao Trung và đồng thời trau dồi thêm âm nhạc cổ điển tây phương và sáng tác. Ông sử dụng thành thạo guitare, accordéon và piano.

Về lại địa phương, ông thành lập Hội Âm Nhạc Hội An (Société philharmonique de Faifoo) mà ông là hội trưởng sáng lập. Ông tiếp tục hướng dẫn các nhạc sĩ trẻ tại địa phương như Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài, Dương Minh Ninh, Hồ Vân Thiết… trong lãnh vực hòa âm, sáng tác âm nhạc.

Sau nầy, vào thập niên 50, Lê Trọng Nguyễn được nhiều người biết đến qua nhạc phẩm Nắng Chiều, Sao Đêm, Chiều Bên Giáo Đường… Lan Đài với nhạc phẩm Chiều Tưởng Nhớ và Dương Minh Ninh với Gấm Vàng, Đường Chiều… (các nhạc phẩm trên do Tinh Hoa, Huế và Tinh Hoa Miền Nam (Saigon) của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo in ấn và phát hành khắp toàn quốc trước năm 1975.

Theo nhiều người trong gia đình họ La cho biết, khi La Hối đi dạy nhạc, ông đã yêu một cô gái dạy dương cầm. Tình yêu nầy đã thúc đẩy ông sáng tác một số tình khúc để riêng tặng người yêu. Và chỉ có người bạn gái nầy mới giữ đủ nhạc phẩm do La Hối sáng tác. Gia đình họ La chỉ biết và giữ một vài ca khúc của La Hối, trong số nầy có nhạc phẩm Le Printemps et la Jeunesse (đầu đề bằng Pháp ngữ và một người bạn Hoa kiều thi sĩ Diệp Truyền Hoa đặt lời ca bằng Hoa ngữ là Thanh Niên Dữ Xuân Thiên).

Riêng cô gái dạy dương cầm, vì chiến tranh xảy ra, từ sau 1945 đến 1975, nên gia đình họ La không còn nhớ tên và mất liên lạc với cô nầy để xin ghi chép lại các sáng tác âm nhạc của nhạc sĩ La Hối. Vì thế xem như tuyệt bản sau khi La Hối mất sớm, mới ngoài 25 tuổi.

Thập niên 40, quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản với chủ trương Đại Đông Á, đã xâm chiếm Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á khác. La Hối là một thanh niên Trung Hoa yêu nước nên đã tham gia vào phong trào chống phát xít Nhật Bản. Ông là người đứng đầu một nhóm Hoa kiều tại Việt Nam theo Trùng Khánh (phe Thống Chế Tưởng Giới Thạch) trong Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Đây là một đảng bộ lớn ở hải ngoại, hoạt động tại Hội An và khắp Việt Nam. Hoạt động chống Nhật Bản tại địa phương có nhiệm vụ theo dõi tình hình điều quân, chính trị, văn hóa Nhật. Các đồng chí của ông kẽ biểu ngữ, in và phân phát truyền đơn chống Nhật Bản, phá hoại các nơi Nhật Bản đồn trú, phá kho lương thực, đầu độc các con ngựa chiến mà các sĩ quan Nhật Bản cưỡi để thị oai…

Theo một vài cựu đồng chí người Hoa tiết lộ “nhạc sĩ La Hối đã dùng mấy notes nhạc trong phần dạo khúc mở đầu (introduction) của nhạc phẩm Thanh Niên Dữ Xuân Thiên: “là là là là, là là là rê, là là là mí, là là là phá, là là là sól, là là là lá, sól mi đô là, sól mi rề” làm một khẩu hiệu liên lạc công tác…

Hiến binh Nhật Bản đã theo dõi và phát hiện những hoạt động của phong trào chống Nhật nầy.

Và một ngày trong tháng tư năm 1945, La Hối và 9 đồng chí bị Nhật bắt giam vào tháng trước đó, bị Nhật đem ra xử tử tại núi Phước Tường, gần phi trường Đà Nẵng và chôn chung một hố. (Danh sách 10 vị bị Nhật Bản xử chém sáng ngày 1/4/1945 là La Doãn Chánh (La Hối), Lâm Kiến Trung, Thái Văn Lễ, Tạ Phúc Khương, Lương Tinh Tiêu, Vương Thanh Tùng, Trình Duy Huấn, Trịnh Yến Xương, Lâm Bình Hoành và Kim Bính Bồi. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch ban cho 4 chữ Dân Tộc Chính Khí để tuyên dương 10 vị liệt sĩ nầy).

Sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh, ngũ bang Trung Hoa Lý Sự Hội ở Hội An đã cải táng 10 liệt sĩ Trung Hoa nầy tại nghĩa trang Thanh Minh, ngoại ô thành phố Hội An, lập kỷ niệm đài để người dân địa phương, không phân biệt Việt Nam hay Hoa kiều, đến viếng mộ các chiến sĩ kháng Nhật.

La Hối (1920-1945) khi bị xử tử mới có 25 tuổi. Ông đang yêu đời, yêu nước, và đang sáng tác một số tình ca và nhiều nhạc khúc hùng mạnh chống phát xít Nhật.

Năm 1946, đoàn ca vũ Anh Vũ, từ thủ đô Hà Nội đi lưu diễn các tỉnh Trung, Nam Việt Nam. Sau khi trình diễn tại Huế, đoàn trực chỉ Hội An, mặc dù lúc đó Hội An đang bị mưa to gió lớn, ngập lụt dâng cao trên quốc lộ 1 từ Đà Nẵng vào Hội An.

Đoàn Anh Vũ được sự giúp đỡ tận tình của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và một số thanh niên tại Hội An, nên đoàn văn nghệ vẫn đến được Hội An để trình diễn vở Tục Lụy của nhà văn Khái Hưng do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước viết nhạc. Ông Võ Đức Diên là trưởng đoàn và trong đoàn có thi sĩ Thế Lữ (và vợ, một kịch sĩ có tài), nhạc sĩ Văn Chung, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và một số ca kịch sĩ nữa tháp tùng.

Khi đến thành phố Hội An, các nhạc sĩ đồng hành với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát muốn liên lạc với nhạc sĩ La Hối. Đến nơi mới biết La Hối không còn nữa, trước đó vài tháng. Thi sĩ Thế Lữ xin phép gia đình họ La để đặt lời ca cho nhạc phẩm Le Printemps et la Jeunesse, có lời Hoa là Thanh Niên Dữ Xuân Thiên, thành lời ca tiếng Việt là Xuân và Tuổi Trẻ. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát soạn hòa âm, nhạc sĩ Văn Chung soạn vũ điệu, Thế Lữ đạo diễn.

Thế là vũ khúc Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối với lời ca tiếng Việt do đạo diễn kiêm thi sĩ Thế Lữ được cất cao lần đầu tiên tại nhà hát Phan Hương trên đường Minh Hương, thị xã Hội An. Sau nầy, cũng trên khu đất nầy, hý viện Phi Anh với 1.200 chỗ ngồi, là rạp hát hiện đại của thập niên 50 được xây cất thay thế nhà hát cũ và tên đường được đổi thành đường Phan Châu Trinh.

Các nhạc sĩ, kịch sĩ, thi sĩ trong đoàn ca vũ kịch Anh Vũ đồng hành đến thăm nhạc sĩ La Hối, có thể là cựu đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng ngoài Bắc, hoặc là cảm tình viên với Việt Nam Quốc Dân Đảng (nhưng trong thời kỳ Việt Minh mới cướp chính quyền thì họ phải giấu kín đảng tịch cũ) cốt ý đến thăm một đồng chí mà từ lâu họ đã nghe tiếng hoặc ái mộ cũng nên. Chỉ có các vị đó biết và nay họ đã qua bên kia thế giới, đem theo bí mật không bật mí được khi họ sống dưới chế độ độc đảng cộng sản từ lúc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ nhất (1945), thứ hai (1946)!

Tuy nhiên, duyên tri ngộ ngắn ngủi nầy cũng để lại cho thính giả yêu âm nhạc Việt Nam được một giai thoại quý giá và một lời ca của nhạc khúc xuân bất hủ hơn 60 năm trôi qua.

Nhờ lời ca viết bằng tiếng Việt rất hay của thi sĩ Thế Lữ, từ đó Xuân và Tuổi Trẻ ra khỏi thành phố cổ nhỏ bé Hội An đã chu du khắp nơi trên thế giới mỗi khi mùa xuân trở về với cộng đồng tỵ nạn Việt Nam.

Thập niên 1940, khi tôi còn nhỏ, sinh hoạt trong đoàn thể hướng đạo Việt Nam, tôi thích âm nhạc, nên thường đi nghe các buổi hòa nhạc của hội Âm Nhạc Hội An và bản Le Printemps et la Jeunesse vẫn là nhạc phẩm được hòa tấu để mở màn cho các buổi hòa nhạc hoặc nhạc ca kịch tại địa phương.

Ngày nay ở hải ngoại, các hội Ái Hữu Quảng Nam Đà Nẵng ở mọi nơi vẫn lấy bài Xuân và Tuổi Trẻ làm nhạc phẩm chào mừng đồng hương mỗi khi có dịp hội ngộ.

Nữ ca sĩ Hồng Hạnh (gốc Hội An) trong một CD mới phát hành cũng đã hát nhạc phẩm Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối, lời Thế Lữ với tất cả đam mê, tuyệt vời. (CD Hồng Hạnh 2: Em và Quê Hương ra mắt thính giả tại hí viện Le Petit Trianon tại San Jose ngày 14/1/2006).

Một điều đáng tiếc là nhạc sĩ La Hối, cha đẻ của nhạc khúc lại không được nghe nhạc phẩm của ông hát bằng lời ca tiếng Việt rất du dương của thi sĩ Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ, một trong những thính giả mến mộ tài năng của ông và cũng có thể là một đồng chí (hoặc cảm tình viên) của hoạt động yêu nước của nhà cách mạng La Hối chống phát xít Nhật Bản.

[footer]

Hoa trắng thôi cài trên áo tím (Kiên Giang – Huỳnh Anh)

Tiếp nối dòng nhạc Huỳnh Anh, [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến quý vị nhạc phẩm ‘Hoa trắng thôi cài trên áo tím’, phổ từ bài thơ cùng tên của thi sỹ Kiên Giang.

hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--0--kien-giang--huynh-anh
Hoa trắng thôi cài trên áo tím (Huỳnh Anh – Kiên Giang). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--1--kien-giang--huynh-anh hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--2--kien-giang--huynh-anh hoa-trang-thoi-cai-tren-ao-tim--3--kien-giang--huynh-anh

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ VÀ NHẠC: HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên Thanh Niên 14/11/2011)

Nhà thơ Kiên Giang - Ảnh: Đào Trung Phụng
Nhà thơ Kiên Giang – Ảnh: Đào Trung Phụng

Hơn nửa thế kỷ trước, bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím của nhà thơ Kiên Giang ra đời (1958) đã làm xôn xao dư luận một thời. Bài thơ còn được biết đến nhiều hơn khi được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc. 

Kiên Giang là nhà thơ, soạn giả cải lương (tác giả các vở tuồng Áo cưới trước cổng chùa, Sơn nữ Phà Ca…), nhà báo – chứng nhân còn sót lại của sự kiện “Ngày ký giả đi ăn mày” (xảy ra vào năm 1974, báo giới miền Nam xuống đường với nón lá, bị, gậy của dân “cái bang” để chống đối chính quyền Thiệu ra sắc luật đàn áp báo chí)… Người viết chơi thân với ông đã gần hai mươi năm nhưng muốn gặp ông thật khó bởi ông luôn dịch chuyển (rất giống với ông bạn thân cùng lứa, cùng làng là nhà văn Sơn Nam).

Năm nay 84 tuổi, mái tóc đã gội tuyết sương đến bạc trắng nhưng nếu có ai hỏi về thời niên thiếu, về Sơn Nam, về Nguyễn Bính (người thầy dạy Kiên Giang làm thơ khi ông mới 17 tuổi) và nhất là về người con gái trong bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím là ông kể một mạch bằng một giọng bùi ngùi, không hề đứt đoạn, làm như những chuyện đó đã thấm vào máu thịt của ông…

“Thuở ấy anh hiền và nhát quá …”

17 tuổi, anh học trò Trương Khương Trinh (tên thật của Kiên Giang) rời vùng quê Rạch Giá lên Cần Thơ học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) ở Trường trung học tư thục Nam Hưng. Vốn là người có hoa tay: vẽ vời và viết chữ rất đẹp (đến bây giờ chữ của ông vẫn rất lả lướt) nên ông được các thầy cô giáo cho thực hiện một tờ báo (chép tay vào cuốn vở học trò) lấy tên là Ngày xanh. Tờ báo này là đối trọng, giao lưu với tờ Thắm của Trường trung học Ba Sắc, cũng nằm trên địa bàn. Cứ vào chủ nhật mỗi tuần, các cô cậu “nhà báo – học trò” lại quây quần trong một vườn xoài xanh um bóng mát để thực hiện tờ báo. Kiên Giang biên tập bài vở và trình bày (vẽ, trang trí…), còn cô bạn Nguyễn Thị Nhiều thì chép bài vở (có lẽ chữ cô này đẹp hơn chữ của Kiên Giang!).

Tuy mang cái tên rất dân dã nhưng Nhiều rất đẹp với mái tóc dài ôm xõa bờ vai, thỉnh thoảng vờn bay trong gió. Mái tóc ấy, khuôn mặt ấy đã khiến tâm hồn non trẻ nhưng rất lãng mạn của chàng trai sau này trở thành nhà thơ… tơ vương. Gia đình nàng theo đạo Thiên Chúa nên mỗi sáng chủ nhật nàng thường đi lễ nhà thờ Cần Thơ. Kiên Giang không theo đạo nhưng sáng chủ nhật nào cũng “rình” trước cổng nhà thờ để được “tháp tùng” nàng trên đường đi lễ về. “Yêu nhau” chỉ có vậy: ngoài những cái liếc mắt và những nụ cười thẹn thùng, e ấp thì hai người chẳng còn thứ gì để “trao đổi” nữa cả. Tuy thế, cả hai đều cảm nhận được những tình cảm sâu kín mà họ dành cho nhau. Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, kéo dài suốt 9 năm (1945-1954), việc học hành bị gián đoạn, trường lớp tan tác… Kiên Giang và bạn bè thân thiết (Nguyễn Bính, Sơn Nam…) vào Khu 8 tham gia kháng chiến, và rồi ông lập gia đình trong thời gian này.

Bài thơ và thủ bút của nhà thơ Kiên Giang tặng người viết
Bài thơ và thủ bút của nhà thơ Kiên Giang tặng người viết

“Để nghe khe khẽ lời em nguyện”

Sau này, nhiều lần Kiên Giang tâm sự với người viết: “Điều xót xa (sau này mới biết) là trong những tháng ngày loạn lạc đó, Nhiều vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Năm 1955, nàng quyết gặp mặt tôi một lần rồi mới lấy chồng. Tình cảm cứ ám ảnh tôi khôn nguôi. Tôi đưa hình ảnh và tâm sự của hai đứa vào bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, làm tại Bến Tre năm 1958. Ở đoạn kết có những câu: “Ba năm sau, chiếc xe hoa cũ/Chở áo tím về giữa áo quan/Chuông đạo ngân vang hồi tiễn biệt/Khi anh ngồi kết vòng hoa tang…”, tôi đã “cho” người mình thầm yêu phải chết đi, để mối tình kia còn nguyên vẹn là của riêng mình. Tuy nhiên, một thời gian sau tôi có dịp gặp lại cố nhân ở Sóc Trăng (lúc này nàng đã có chồng). Sau cuộc gặp gỡ đó, không hiểu sao tôi lại muốn mình (người bạn trai trong bài thơ) chết để bảo vệ quê hương, để không còn vương vấn mối tình thuở học trò. Tôi đã sửa lại đoạn kết như thế ở Hàng Xanh (Gia Định), nhưng hầu như bạn đọc chỉ thích giữ nguyên tác, nhất là khi nó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc thì bài thơ lại càng nổi tiếng, lan tỏa. Có lần tôi thú thực với bà xã về cái ấn tượng “sắc hoa trắng – màu áo tím”. Từ đó không có màu tím trong tủ áo nhà tôi nữa…”.

Trong thơ là thế nhưng sự thật ngoài đời chẳng có ai chết cả. Năm 1977 họ lại có dịp gặp nhau. 33 năm đã trôi qua kể từ “Thuở ấy anh hiền và nhát quá/Nép mình bên gác thánh lầu chuông/Để nghe khe khẽ lời em nguyện/Thơ thẩn chờ em trước thánh đường…”, bây giờ gặp lại, hai mái đầu đã bạc. Cả hai cố tránh không nhắc nhớ về cái thời cùng học dưới mái trường Nam Hưng, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn trân trọng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.

Kiên Giang kể lại, đầu năm 1999 Hãng phim truyền hình TP.HCM (TFS) thực hiện một bộ phim tài liệu về ông mang tên Chiếc giỏ đời người (Kiên Giang đi đâu cũng kè kè một chiếc giỏ, mặt ngoài vẽ chi chít chữ – NV), trong kịch bản có một cảnh quay tại Cần Thơ. Khi ông và ê kíp làm phim đến nhà “người xưa” mời bà Nhiều ra quay cảnh ở nhà thờ chính tòa thì thấy ngôi nhà đóng cửa, lạnh ngắt. Người hàng xóm cho biết bà Nhiều đã qua đời năm 1998. Ông thật xót xa… Hôm sau ông trở lại, cô con gái của bà Nhiều kể rằng lúc bà mất, tang gia có gửi thiệp báo tin cho ông nhưng tiếc là ông đã không nhận được để tiễn biệt người xưa lần cuối thực sự chứ không phải tiễn biệt như trong thơ. Rồi ông cùng người con gái của bà ra nghĩa trang viếng mộ. “Người xưa” bây giờ chỉ còn là di ảnh trên bia mộ, nhưng người con gái đứng bên ông thì lại giống cô Nhiều ngày trước lạ lùng…

Cũng cần nói thêm, năm 2002 người viết đã có giới thiệu (và đăng) bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím trên Báo Thanh Niên. Hôm đó, các sạp báo ở Sài Gòn không còn tờ Thanh Niên nào sót lại, rất nhiều người (có cả những anh chạy xe ôm, xích lô…) đã đến tận tòa soạn để hỏi mua. Ở Cần Thơ cũng “cháy báo”, không còn đủ số lượng cung cấp cho bạn đọc (hồi đó ở Cần Thơ Báo Thanh Niên chưa được in cùng lúc với nhiều chỗ như bây giờ), tòa soạn ở TP.HCM phải in thêm, đưa xuống tặng bạn đọc. Kể như thế để thấy rằng bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím được công chúng miền Nam yêu thích như thế nào.

Hà Đình Nguyên

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM: MỘT BÀI THƠ, HAI ĐOẠN KẾT
(Nguồn: CauLacBoTinhNgheSi.net)

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM của thi sĩ Kiên Giang là một bài thơ rất quen thuộc với người Việt Nam và đã được phổ nhạc; gần đây nhất là bài Chuyện Tình Hoa Trắng do ca sĩ Như Quỳnh trình bày. Gọi là một bài thơ nhưng thật sự có đến hai bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím hay đúng hơn, một bài thơ với hai đoạn kết hoàn toàn trái ngược nhau. Cả hai bài đều hiện hữu song song và cùng nổi tiếng, tuy ít có người để ý đến sự việc bất ngờ này. Ngày nay, xem phim trong các dĩa DVD ta thường thấy có thêm phần “Alternate Ending”, một kết cục khác của phim mà vì lý do nào đó nhà đạo diễn đã phải bỏ đi, không sử dụng khi đưa cuốn phim ra phát hành chính thức.

 Nghi vấn chính của bài viết là tại sao ông Kiên Giang đã làm như vậy và trên một khía cạnh, đã đi trước các đạo diễn Hollywood bao nhiêu năm trời. Nhiều người vẫn thắc mắc và gần đây, một nhóm bạn trong chương trình Cây Mùa Xuân đã gặp gỡ và ủy lạo các nghệ sĩ cổ nhạc nghèo khó… Trong chương trình đó, một người trong nhóm ở Việt Nam đã gặp ông Kiên Giang hỏi về nghi vấn này và được bác cho biết như sau:

… Hồi đó, có một anh chàng học sinh nọ, tên Trinh, quê ở tận miền Rạch Giá lên trọ học tại Sài Gòn, học cùng lớp với cô nữ sinh tên là Nguyễn Thị Thúy Nhiều, người ở Sóc Trăng. Thuở đó, chàng là học sinh khá giỏi về Văn nhưng lại yếu về môn Toán, tình bạn của họ rất trong sáng, có xen lẫn tình yêu thơ mộng, những khi chàng bí Toán thì hay nhìn sang để “copier” nàng. Lúc là sinh viên, chàng là cây bút của một tờ báo, còn nàng, tuy gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thể làm gì thêm. Thế là chàng dùng tiền nhuận bút chia sẻ cho nàng. Tình yêu, tình bạn thơ mộng đó kéo dài suốt quãng đời sinh viên của hai người tại đất Sài Gòn. Hai người còn có lời hứa sống chết có nhau.

Sau khi chia tay tại Sài Gòn, chàng ở lại làm nhà văn, nhà báo, soạn giả… Nàng về quê đi dạy học và đợi chờ ngày sum họp. Thời gian thấm thoát trôi qua, hoàn cảnh đổi thay nên chàng đã thất hứa, đi lấy vợ… Được tin, nàng buồn khổ vô cùng và sau đó rất lâu nàng mới chịu lấy chồng. Nghịch cảnh chăng (?) hay vì nàng quyết định chọn mà chồng của nàng cũng tên Trinh.

Một thời gian sau, anh chàng Trinh thất hứa, nay là trưởng toán của một đoàn nghệ thuật lớn, lưu diễn và gặp lại nàng. Chàng có đến thăm cô Thúy Nhiều và đã viết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím thứ nhất để gọi là “tạ lỗi” vì đã thất hứa trong tình yêu. Trong bài này, người con gái mất đi để lại trong lòng người trai một nỗi buồn khôn nguôi như lòng của anh Trinh sinh viên với mối tình cũ. Ngoài ra chàng còn gởi hai vé hát mời vợ chồng cô Thúy Nhiều đi xem. Tuy nhiên, người chồng của cô rất ghen nên hai người đã không đến xem buổi trình diễn của đoàn hát của chàng sinh viên xưa.

Vì hận lòng hay hận đời, Trinh đã sửa lại đoạn kết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím. Lần này Trinh cho chàng trai trong bài thơ bị chết và người con gái suốt đời ôm mối hận tình, khóc người yêu cũ… để trả thù việc vợ chồng cô đã từ chối lời mời xem hát của anh. Đến đây chắc các bạn cũng đã biết anh chàng Trinh sinh viên kia chính là ông Kiên Giang (tên thật là Trương Khương Trinh, bút hiệu khác Hà Huy Hà, sinh ngày 17-2-1929 tại Rạch Giá).

Nhà thơ Kiên Giang công bố ảnh người yêu xóm đạo. Ảnh: cand.com.vn
Nhà thơ Kiên Giang công bố ảnh người yêu xóm đạo. Ảnh: cand.com.vn

Còn cô Nguyễn Thị Thúy Nhiều đã mất. Những người con của cô đều rất thành danh trong nghề nghiệp và cuộc sống, có người là giáo sư. Riêng về người chồng của cô Thúy Nhiều, ông này là người rất ghen nhưng lại có vợ lẽ. Ông vẫn còn sống với người vợ sau. Thời gian sau này, lúc cô Thúy Nhiều còn sống, ông chồng vì ân hận mình phụ bạc vợ, đã có đến nhà thờ đi bằng đầu gối để xin lỗi vợ mình.

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
(Tâm tình của người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo – Bến Tre, 14-11-1957)

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh

Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường

Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẻ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhnhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

***

Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng

***

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường

Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ

Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu

***

Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Nhưng khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường

Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!!!

Bài 2:

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
(Gia Định, 28-05-1958)

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh

Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần Chúa Nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường

Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ tthẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

***

Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ vật ban đầu

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng

***

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường

Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù

Nhưng rồi người bạn cùng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi

***

Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc… tiễn người ngàn thu
Từ đây, tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa!!!

[footer]

Vĩnh biệt nhạc sỹ Huỳnh Anh (1932 – 2013)

Thứ sáu, ngày 13/12/2013, nền tân nhạc Việt Nam lại chịu thêm một mất mát lớn khi chứng kiến sự ra đi mãi mãi của một trong những nhạc sỹ có dấu ấn khó phai mờ: nhạc sỹ Huỳnh Anh. Vậy là thêm một nhạc sỹ lão thành đi về miền cực lạc, cùng với Phạm Duy (01/2013), Văn Giảng (05/2013), Hoàng Hà (09/2013).

Nhạc sỹ Huỳnh Anh trong Paris By Night 74
Nhạc sỹ Huỳnh Anh trong Paris By Night 74

[dongnhacxua.com] xin chia buồn cùng gia quyến và cầu nguyện cho linh hồn ông mau về chốn vĩnh hằng!

Nhân dịp này chúng tôi xin gởi đến quý vị yêu nhạc sáng tác đầu tay của nhạc sỹ Huỳnh Anh: bản ‘Em gắng chờ’. Cũng giống như hầu hết các sáng tác cuối thập niên 1950 của Nguyễn Văn Đông hay Lam Phương, bản ‘Em gắng chờ’ phảng phất sự lãng mạn và giai điệu nhẹ nhàng đặc trưng của dòng nhạc tiền chiến. Nhân đây cũng cần nói thêm là nhạc sỹ Huỳnh Anh sinh ra trong một gia đình có truyền thống cổ nhạc (thân phụ là danh cầm Sáu Tửng) và bản thân ông biết chơi hầu hết các loại nhạc cụ, đặc biệt là bộ trống. Chính những yếu tố này, cùng với những năm tháng chơi nhạc cho các vũ trường đã tạo nên một Huỳnh Anh sáng tác rất đa dạng về giai điệu: thanh thoát đầy tính nghệ thuật trong ‘Em gắng chờ’, tango lả lướt trong ‘Kiếp cầm ca’, bolero dìu dặt trong ‘Mưa rừng’, ‘Lạnh trọn đêm mưa’ hay blues giàu cảm xúc trong ‘Thuở ấy có em’.

Em gắng chờ (Huỳnh Anh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Em gắng chờ (Huỳnh Anh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

em-gang-cho--1--huynh-anh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com em-gang-cho--2--huynh-anh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

[footer]

Cô hái mơ

‘Cô hái mơ’ là một bài thơ của thi sĩ Nguyễn Bính và được hai nhạc sỹ Phạm Duy và Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc. Có một điều lý thú mà [dongnhacxua.com] muốn chia sẻ với người yêu nhạc: ‘Cô hái mơ’ là ‘đứa con tinh thần’ đầu tiên của cả nhà thơ lẫn hai nhà nhạc sỹ:

* Theo Wikipedia, bài thơ ‘Cô hái mơ’ là sáng tác đầu tiên được đăng trên báo của thi sĩ giang hồ Nguyễn Bính (1918 – 1966). Theo hiểu biết của chúng tôi thì có lẽ bài thơ được sáng tác  vào những năm 1935 – 1940.

* Còn đối với ‘cây đại thụ’ Phạm Duy (1921 – 2013) thì bản nhạc phổ thơ này là ‘anh cả của một gia đình có gần 800 anh chị em’. Tâm sự của nhà nhạc sỹ khi quyết định về Việt Nam anh hưởng tuổi già: “Tôi đã phổ nhạc bài thơ này vào năm 1942. Đó là bản nhạc đầu tay của tôi cho nên tôi yêu nó lắm. Trong bài thơ phổ nhạc, có câu : Nhà ta ở dưới gốc cây dương, cách động Hương Sơn nửa dặm đường… cho nên 64 năm sau khi sáng tác bài hát, tôi phải mò về Chùa Hương để tìm cô hái mơ, khi tôi có cơ hội trở về Việt Nam vào năm 2003.” (Nguồn: PhamDuy2010.com)

* Cũng theo Wikipedia, Hoàng Thanh Tâm (1960) đã bắt đầu chập chững viết những note nhạc đầu tiên vào lúc 13 tuổi tại Sài Gòn, phổ nhạc thi phẩm “Cô Hái Mơ” và đã hoàn chỉnh nhạc phẩm này tại Canberra, Úc vào năm 1987, sau khi ra mắt album đầu tay “Tình Khúc Hoàng Thanh Tâm” với chủ đề “Lời Tình Buồn” tại Hoa Kỳ năm 1986.

‘CÔ HÁI MƠ’ DO PHẠM DUY PHỔ NHẠC

Cô hái mơ (Phạm Duy - Nguyễn Bính). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

 

Cô hái mơ (Phạm Duy – Nguyễn Bính). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
co-hai-mo--1--nguyen-binh--pham-duy--amnhacmiennam--dongnhacxua.com
co-hai-mo--2--nguyen-binh--pham-duy--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

‘CÔ HÁI MƠ’ DO HOÀNG THANH TÂM PHỔ NHẠC

NGUYỄN BÍNH, THI SỸ GIANG HỒ: CÔ HÁI MƠ
(Nguồn: tác giả Trần Đình Thu đăng trên ThanhNien.com.vn )

Thi sỹ Nguyễn Bính
Thi sỹ Nguyễn Bính

Cô hái mơ là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính được Phạm Duy phổ nhạc rất sớm. Bài thơ có lẽ được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1939 đến 1940. Ý kiến một số tác giả cho rằng đây là bài thơ đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính có thể là không chính xác. Bởi bài thơ này được đăng trong Tiểu thuyết thứ năm đến tận số 14, trong khi đó ngay từ số đầu tiên Nguyễn Bính đã có thơ đăng ở tờ báo này rồi.

 Cô hái mơ lấy bối cảnh ở chùa Hương. Nguyễn Bính đã nhiều lần đi chùa Hương, vậy ông sáng tác bài thơ này vào lúc nào? Theo tác giả Ngọc Giao thì ông thai nghén bài thơ này trong lần đi thăm chùa Hương vào năm 1939 cùng với nhóm bạn văn nghệ thành phố Nam Định, trong đó có Ngọc Giao. Cả bọn thuê một chiếc thuyền lớn, khởi hành từ Phủ Lý vào Bến Đục. Trên thuyền, ngoài bạn văn nghệ ra còn có một đào hát ca trù và một kép đờn lớn tuổi. Thức nhắm thì mua hẳn một con dê sống để lên thuyền làm thịt. Ngoài rượu thịt ra, theo đề nghị của Nguyễn Bính, cả bọn còn mang theo bàn đèn để vui cùng nàng tiên nâu.

 Đến chùa Hương, Nguyễn Bính tách hẳn mọi người ra, lội vào rừng mơ cho đến chiều tối mới về quán trọ. Ngọc Giao cho biết trong bữa cơm tối hôm ấy Nguyễn Bính uống rượu nhiều hơn, miệng luôn lẩm nhẩm và có lúc rút sổ tay ra ghi vội vài câu. Về sau mới biết ông bắt đầu thai nghén bài thơ Cô hái mơ. Điều khiến Ngọc Giao lấy làm lạ là Nguyễn Bính thường làm thơ rất dễ dàng, chưa bao giờ vò đầu bứt tai với một thi phẩm dù ngắn dù dài, thế nhưng với bài thơ này ông lại có vẻ vất vả lắm.

 Vì sao lại như thế?

 Ta hãy đọc lại bài thơ Cô hái mơ để xem có điều gì lạ ở trong đó không. 

Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ 

Ấn tượng ban đầu là bốn câu thơ thật hay, thật trong trẻo. Thế nhưng ta cảm thấy có điều gì đó khang khác. Đọc kỹ một chút ta mới thấy rằng, dường như là nó kiểu cách quá. Những câu thơ này khác nhiều so với những câu tả cảnh mộc mạc chân chất mà ta quen nghe ở Nguyễn Bính như là “Hội làng mở giữa mùa thu/Giời cao gió cả giăng như ban ngày” hay là “Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi”… Ta thấy cái câu thơ Khí trời lặng lẽ và trong trẻo mới thật xa lạ với ông làm sao. Nó như là thơ của ai ấy. Câu thơ này mà đặt bên cạnh những câu thơ tả cảnh sau đây cũng của ông thì thật là một trời một vực: 

Suốt giời không một điểm sao
Suốt giời mực ở nơi nào loang ra
Lửa đò chong cái giăng hoa
Mõ sông đùng đục canh gà le te
(Lửa đò) 

Thật ra, Nguyễn Bính có khá nhiều bài thơ mà trong đó ông như muốn thoát khỏi giếng nước ao làng của mình như vậy rồi chứ không chỉ riêng trong Cô hái mơ. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính có nhiều lúc không nhà quê chút nào. Hoài Thanh đã dẫn ra bốn câu thơ sau đây của Nguyễn Bính để chứng minh: 

Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong
(Xuân về) 

Nhà phê bình của chúng ta cảm thấy khó chịu về điều này và tiếc cho Nguyễn Bính. Ông viết tiếp trong Thi nhân Việt Nam: “Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng vì có những câu ấy mà người ta khó nhận thấy cái hay của những câu khác có tính cách ca dao” và “Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật”. 

Nhà phê bình nói quá đúng nhưng may mà Cô hái mơ lại là một bài thơ hay. Hơn thế nữa nó là một bài thơ xuất sắc. Nhưng bài thơ này, nếu chẳng may thất lạc mà có người mới sưu tầm được, chắc không ai xếp vào thơ Nguyễn Bính mà sẽ xếp nhầm qua cho một tác giả khác. 

Ta hãy đọc tiếp khổ thơ thứ hai và ba: 

Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa
Mà ánh chiều hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta? 

Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương 

Càng đọc càng thấy nét đẹp duyên dáng thướt tha của bài thơ nhưng đồng thời lại thấy xa dần một Nguyễn Bính chân quê. Cái hình ảnh “suối nước trong tuôn róc rách” và “hoa bên suối ngát đưa hương” là hai hình ảnh đã “hương đồng gió nội bay đi rất nhiều”. Vì sao lại như vậy? 

Cho đến lúc này, có lẽ tất thảy chúng ta đều công nhận những lời thơ chân chất mộc mạc của Nguyễn Bính chính là những kết tinh của hồn dân tộc, xứng đáng được tôn vinh. Thế nhưng vào thời kỳ nó vừa xuất hiện, không phải ai cũng đồng ý với những đánh giá như vậy. Đây đó vẫn có nhiều ý kiến ngược lại. Chẳng hạn như tác giả Thượng Sĩ. Người này chê là Nguyễn Bính làm hò vè. Vì vậy có thể Nguyễn Bính bị một áp lực tâm lý, ảnh hưởng đến quan niệm sáng tác của mình, để mà từ đó ông cố gắng cách tân thơ mình chăng? 

Tuy nhiên dù sao những bài thơ ấy cũng không hoàn toàn bị Tây hóa. Có lẽ Nguyễn Bính vẫn không muốn đi quá xa rặng tre làng dấu yêu của mình, hoặc là cái chất nhà quê đã thấm vào máu rồi nên ông không thể là một Xuân Diệu hoặc Huy Cận được. Vì vậy mà xen vào những câu thơ thật mới vẫn có những câu quê mùa. Chẳng hạn trong bài Cô hái mơ vẫn có những câu mộc mạc lẫn lộn vào đấy, dù ông cố vò đầu bứt tai để làm cho bằng được những câu thơ thật Tây: 

Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa 

Chửa về ư là lối nói người xứ quê của ông mà Nguyễn Bính vẫn quen dùng lâu nay. 

Cô hái mơ là một thi phẩm rất thành công của Nguyễn Bính nhưng là một thi phẩm cách tân, chất dân dã quê mùa còn lại quá ít. Không biết ta nên đánh giá thế nào về điều này. Có nên phê bình mạnh mẽ như Hoài Thanh hay không? Đến đây ta nhớ lại lời kể của Ngọc Giao và mới hiểu vì sao Nguyễn Bính lại quá khó khăn khi sáng tác bài thơ này đến vậy.

[footer]

Ngôi sao ban chiều (Đinh Tiến Hậu)

Sau hiệp định Geneva 1954, đất nước chúng ta bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc với hai thể chế chính trị khác nhau. Có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời là trong suốt 75 năm hình thành và phát triển của nền tân nhạc Việt Nam thì giai đoạn 20 năm từ 1954 – 1975 là thời kỳ cực thịnh của dòng nhạc Việt, xét về số lượng nhạc sỹ, ca sỹ cũng như số lượng và chất lượng của các tác phẩm, mà đại đa số là xuất phát từ miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, bên cạnh cảnh ‘trăm hoa đua nở’ ở miền Nam ngày đó, chúng ta vẫn tìm được nhiều ‘bông hoa đẹp’ trong vườn hoa âm nhạc ở miền Bắc trong giai đoạn này.

Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu một trong số đó: bản ‘Ngôi sao ban chiều’ của nhạc sỹ Đinh Tiến Hậu.

 

Ngôi sao ban chiều (Đinh Tiến Hậu). Ảnh: NgoiSaoBanChieu.blogspot.com
Ngôi sao ban chiều (Đinh Tiến Hậu). Ảnh: NgoiSaoBanChieu.blogspot.com

NGÔI SAO BAN CHIỀU: SỰ THẬT VỀ MỘT BÀI HÁT NGA
(Nguồn: tác giả Trần Can đăng trên DotChuoiNon.com ngày 21/10/2011 )

Thuở đất nước thống nhất (1975), người dân hai miền Nam Bắc háo hức tìm hiểu về nhau sao bao năm chia cắt. Tìm hiểu về âm nhạc cũng là một cách để hiểu biết văn hóa. Người sống ở miền Nam như mình thuở đó nghe những bài “Cô gái vót chông”, “Tiếng đàn Ta Lư” thấy rất… kinh ngạc vì lối hát cao vút và véo von nghe chẳng khác gì tiếng…Tàu :D

Thậm chí lúc đầu mình còn không nghe được lời hát nhưng nghe mãi thì cũng…quen tai, nhạc miền Bắc chủ yếu phục vụ chiến tranh nên giai điệu rất hào hùng (mà sau này ta hay gọi là Nhạc Đỏ).

Nhạc miền Nam bị xếp vào loại Nhạc Vàng và bị cấm hát vì tình cảm… ủy mị, làm người nghe mê muội, mất …ý chí phấn đấu :D

Vậy mà mình nhớ năm đó khoảng 1977, lúc chơi ở nhà cô bạn thì gặp hai anh bộ đội, hai anh chàng chơi Guitar và hát một bài hát được giới thiệu là Nhạc Nga: “Ngôi sao ban chiều”. Bài hát có giai điệu đẹp, êm đềm và lời hát cũng khá tình cảm, tha thiết.

“Màn chiều dần buông xuống, gió ngàn vi vu
Lấp ló đầu hiên, ngôi sao ban chiều
Gợi lòng ta thương nhớ, tới người yêu ở phương trời xa
Em thân yêu nơi nao có nhớ tới chăng, đôi ta năm xưa, chung lời nguyện ước
Bây lâu con tim ta vẫn nhớ tới em, như ngôi sao hôm, đêm ngày không mờ
vì lòng ta mãi mãi vẫn còn khắc ghi, bóng hình dáng em…”

Sau đó mình cũng nghe nhiều người hát bài này và đều được giới thiệu là nhạc Nga.

Nhưng thật bát ngờ, tác giả bài hát này lại là một người…Việt, dân Hà Nội chính hiệu con nai vàng :D

Nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu sinh năm 1944 tại Hải Phòng, yêu âm nhạc nhưng không thể thi vào trường Âm Nhạc Việt Nam chỉ vì lý lích của ông bị phê: Có người nhà di cư vào Nam. Sáng tác bài hát “Ngôi sao ban chiều” năm 1964, ông đã phải giả vờ cho bài hát của mình là…nhạc Nga, chấp nhận là một nhạc sĩ vô danh để thanh niên miền Bắc thuở ấy  có nhạc trữ tình hát lên mà không bị cấm đoán hay ..kiểm điểm.

Ông hiện vẫn còn sống ở Phố Bạch Đằng, Hà Nội. Mình có số điện thoại, bạn nào cần gọi để kiểm chứng, xin hãy liên hệ nhé.

Bổ sung của Vũ Ngọc Tiến (ngày 30/10/2011) cho bài viết của Trần Can:

Cảm ơn anh Trần Can đã cho biết thông tin rất thú vị về tác giả bài hát. Do ở Hà Nội nên lần theo thông tin đó, ngày 29/10 vừa qua chúng tôi đã ghé thăm người nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu tại nhà riêng của ông ở ngõ 738 Bạch Đằng. Người nhạc sĩ nhỏ bé gày gò nhưng cởi mở, hồn hậu và tràn đầy năng lượng. Đây là lời hát tôi gõ lại từ bản nhạc do chính người nhạc sĩ đáng kính ký tặng (ông bảo lời có nhiều dị bản quá!).

Màn chiều dần buông xuống, gió ngàn vi vu, lấp ló đầu hiên ngôi sao ban chiều.
Gợi lòng ta xao xuyến nhớ người yêu nơi phương trời xa.
Em thân yêu nơi đâu, có nhớ tới chăng, đôi ta năm xưa chung lời hẹn ước?
Bấy lâu con tim ta vẫn nhớ tới em, như ngôi sao hôm bao ngày không mờ.
Vì lòng ta mãi mãi vẫn còn yêu em không bao giờ phai.

Người mà tôi yêu mãi, nay ở chốn nao, tháng năm dần trôi, tôi vẫn mong chờ.
Giờ này em ở đâu, hỡi người yêu, ta mong chờ em.
Ôi không gian bao la, hãy nói cho ta, em yêu phương xa có còn chờ nữa?
Nơi xa xôi nghe chăng, tiếng hát nhắn em, không gian mang theo bao lời ân tình.
Vì lòng ta mãi mãi vẫn còn yêu em không bao giờ phai.

Ảnh chụp nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu tại nhà riêng, 29/10/2011. Ảnh: Vũ Ngọc Tiến
Ảnh chụp nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu tại nhà riêng, 29/10/2011. Ảnh: Vũ Ngọc Tiến

SAU NỬA THẾ KỶ TÌM ĐƯỢC TÁC GIẢ CA KHÚC ‘NGÔI SAO BAN CHIỀU’
(Nguồn: nhà báo, nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha đăng trên báo Lao Động ngày 02/11/2013)

Ngôi sao ban chiều (Đinh Tiến Hậu). Ảnh: LaoDong.com.vn
Ngôi sao ban chiều (Đinh Tiến Hậu). Ảnh: LaoDong.com.vn

“Ngôi sao ban chiều” là một ca khúc mà tất cả các bạn trẻ thời chiến tranh chống Mỹ ở miền Bắc đều rất yêu quý.

Tôi là một trong số đó. Tôi đã từng hát “Ngôi sao ban chiều” trong những hoàng hôn trung du Phú Thọ cho người tình đầu nghe. Nàng nghe và nhìn từ góc đồi cọ chúng tôi ngồi, nhìn lên bầu trời đã lấp lánh sao Hôm. 

Nghe mãi, nàng còn đề nghị tôi phải có “Ngôi sao ban chiều” của tôi tặng nàng. Và tôi đã viết ca khúc “Chiều về” với những lời ca: “Mắt em là bầu trời – đọng ánh sao đẹp tuyệt vời – sưởi ấm trong lòng tôi – mãi khi chiều xuống lay động sáng ngời”. Khi vào Quảng Trị, mùa hè 1972, tôi đã hát “Ngôi sao ban chiều” cho những người đồng đội nghe để vơi đi những tiếng gầm rú máy bay, tiếng bom nổ, tiếng pháo bầy. Lúc ấy, tôi cứ ngỡ “Ngôi sao ban chiều” là một ca khúc Nga. Nhưng tôi đã lầm. Sau chiến tranh, nhiều người nói qua tôi rằng, “Ngôi sao ban chiều” là của một tác giả Việt Nam.

Nhạc sỹ Đinh Tiến Hậu. Ảnh: LaoDong.com.vn
Nhạc sỹ Đinh Tiến Hậu. Ảnh: LaoDong.com.vn

Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Văn Bằng – cũng là lính Quảng Trị như tôi – báo tin: “Em đã gặp tác giả “Ngôi sao ban chiều” rồi. Anh ấy cũng muốn gặp anh”. Rồi một chiều, Bằng gọi: “Anh đến quán này ngay, tác giả “Ngôi sao ban chiều” đang chờ anh”. Tôi mừng quá, tới ngay. Đến quán, trước mặt tôi là một người nhỏ thó chừng “thất thập cổ lai hy”. Tôi đưa tay bắt “Chào anh. Nửa thế kỷ mới gặp tác giả ca khúc mà tôi yêu thích”. Người đàn ông bắt tay tôi và cười: “Tôi là Đinh Tiến Hậu. Tác giả “Ngôi sao ban chiều” đây. Rất vui được gặp anh”. Và Đinh Tiến Hậu kể, câu chuyện lùi về nửa thế kỷ trước, những ngày kề chiến tranh.

Đinh Tiến Hậu là người ở ngoại ô Hà Nội. Do hoàn cảnh gia đình, phải xuống Hải Phòng ở cùng họ hàng thời cắp sách. Anh học trường Hoàng Văn Thụ (vốn là trường Trí Tri do bố tôi xây dựng nên thời Hải Phòng bị tạm chiếm). Ở trường vào tuổi thanh xuân, Đinh Tiến Hậu đã thầm yêu một người bạn học. “Ngôi sao ban chiều” được viết ra để dành tặng cô ấy. Có tác phẩm của người yêu viết tặng, cô gái đã nhờ một thầy guitar Hải Phòng tập cho mình hát.

Người thầy chắc cũng có cảm tình với cô gái nên chép lại “Ngôi sao ban chiều” cho cô, còn thì cầm bản gốc. Người chị của cô gái cũng thích ca khúc, bèn chép lại, mang lên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nơi mình đang học. Từ đấy, “Ngôi sao ban chiều” bắt đầu được phổ biến trong sinh viên, học sinh Hà Nội. Song, do lưu truyền một ca khúc trữ tình lúc ấy rất khó, mọi người đều ghi vào đó là một ca khúc Nga, như trường hợp “Đêm chia tay” của Hải Thoại, hay “Giã từ” – một đoạn trong ca khúc của Hoàng Trọng ở miền Nam lan truyền ra. 

Với Đinh Tiến Hậu, anh đã dùng tác phẩm của mình gửi để dự thi vào Nhạc viện Hà Nội. Anh được chọn qua giấy báo trúng tuyển cùng các anh Minh Khang, Thanh Phúc… Nhưng giấy báo yêu cầu phải có chứng nhận của địa phương về nhân thân. Anh mang giấy báo về quê thì được phê rằng “Có người nhà ở miền Nam”. Lúc ấy, với lời phê này tức là không được nhận học. Đó là mùa thu 1964. Vậy là ước mơ học Nhạc viện Hà Nội của Đinh Tiến Hậu tan thành mây khói. Từ đó, anh bước vào một cuộc dấn thân khác. 

Trên bước đường dấn thân, đã bao lần anh được nghe những người khác thể hiện “Ngôi sao ban chiều” dưới ”mũ” ca khúc Nga. Anh nghe mà tự hào về mình, nhưng không thổ lộ với ai. Vì sao “Ngôi sao ban chiều” lại lan truyền trong thanh niên, sinh viên thời ấy, vì đó là một ca khúc tình yêu hay. Nhưng sao họ lại tin đó là ca khúc Nga, vì nó ảnh hưởng giai điệu Nga khá rõ. Thời ấy, chuyện một ca khúc Việt Nam ảnh hưởng Nga hay Châu Âu là chuyện bình thường. Ảnh hưởng đó còn dư âm đến bây giờ. 

Ngay ca khúc “Chiều về” của tôi tặng người yêu, cũng là ảnh hưởng nặng nề “Mặt trời của tôi” của Ý. “Ngôi sao ban chiều” được thực hiện bằng tiết nhịp boston (3/4). Nó được viết bằng điệu thức la thứ hòa thanh (điệu khúc la thứ có nốt sol thăng). 

Nó được mở đầu bằng chùm nốt nằm trong điệu thức la thứ, rồi nối tiếp tiết nhịp qua rê thứ, mi thứ ở câu đầu: Màn chiều dần buông xuống/ Gió ngàn vi vu/ Lấp ló đầu hiên/ Ngôi sao ban chiều.

Câu thứ hai là một mô phỏng lùi và kết ở chủ âm: Gợi lòng ta xao xuyến/ Nhớ người yêu/ Nơi phương trời xa.

Ở đoạn sau là cuộc di dịch của những nốt mí đồng âm, sau đó là rê đồng âm để rồi lại trôi lên nốt mí: Em thân yêu nơi đâu/ Có nhớ tới chăng/ Đôi ta năm xưa/ Chung lời hẹn ước.

Cuộc di dịch được nhắc lại: Bấy lâu con tim ta/ Vẫn nhớ tới em/ Như ngôi sao Hôm/ Đêm ngày mong chờ.

Câu sau của đoạn đầu đã được dùng để kết bài: Vì lòng ta mãi mãi/ Vẫn còn nhớ em/ Không bao giờ phai.

Cứ thế “Ngôi sao ban chiều” được lan truyền trong đời sống chiến tranh cả đến những nơi ác liệt nhất là mặt trận Quảng Trị mùa hè 1972. Trong cuốn sách viết về những người lính sinh viên của Đại học Bách khoa thời ấy, những người biên soạn đã trân trọng đưa “Ngôi sao ban chiều” vào trong phần những ca khúc ấn tượng nhất đời lính ngày ấy cùng một ca khúc Nga thật sự là “Bài ca tuổi trẻ sôi nổi”.

Suốt nửa thế kỷ qua, bao người cứ đi tìm tác giả “Ngôi sao ban chiều”, còn tác giả thì lại đi tìm cô gái – người mà mình dành tặng ca khúc đầu đời – ca khúc mối tình đầu. Có lúc Đinh Tiến Hậu đã thổ lộ với các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Nguyễn Lưu. Và Nguyễn Lưu đã từng viết về “Ngôi sao ban chiều” ở tờ Đầu Tư. Song có lẽ sự lan tỏa văn nghệ ở một tờ báo như tờ Đầu Tư không mấy mạnh mẽ, nên vẫn ít người biết “Ngôi sao ban chiều” là sáng tác của Đinh Tiến Hậu. Còn Đinh Tiến Hậu thì lại cứ mải miết đi tìm cô gái ngày xưa. 

Cuối cùng, qua bao nhiêu tình cờ, Đinh Tiến Hậu đã có thể nói chuyện qua điện thoại. Kỳ lạ nhất là sau nửa thế kỷ, hai người đều ở Hà Nội. Nhưng nói qua điện thoại mà nhờ sự kết nối của người chồng thì nói được là bao, mặc dù người chồng cũng nhận thấy đây là một câu chuyện hay. Người ấy – giờ đã là người đàn bà có tuổi – nói: “Lúc ấy, anh quá nhát”. Cái sự nhát ấy đã chỉ còn để lại âm hưởng trong một ca khúc tình yêu tuyệt vời mà chẳng mang lại được gì trong đời sống thực. Vậy là chẳng thể thành đôi. Bà hẹn sẽ có lúc gặp mặt. Nhưng lúc nào, thì chính Đinh Tiến Hậu đang còn chờ đợi khi cả “chàng” và “nàng” đã ở tuổi “thất thập”.

Cũng gần đây, trong một tuyển tập ca khúc nước ngoài do Nhà xuất bản Âm nhạc ấn hành – do nhạc sĩ Đào Ngọc Dung tuyển chọn, “Ngôi sao ban chiều” đã được đưa vào tuyển tập với tên tác giả là P.I.Tchaikovsky. Đinh Tiến Hậu bàng hoàng. Ca khúc của mình mà được coi là ca khúc của P.I.Tchaikovsky thì phúc cho mình quá. 

Tuy nhiên, anh vẫn tìm gặp nhạc sĩ Đào Ngọc Dung để trình bày về sáng tác của mình. Đào Ngọc Dung nghe ra và đã ghi lời xin lỗi tác giả về sự nhầm lẫn rất hay này. Song Đào Ngọc Dung không phải không có lý khi nhầm lẫn. “Ngôi sao ban chiều” đã bị ảnh hưởng vô thức bởi ca khúc “Cô gái miền đồng cỏ” của P.I.Tchaikovsky. 

Dù sao, đến nay “Ngôi sao ban chiều” vẫn được nhiều thế hệ hát. May sao, quyền tác giả của Đinh Tiến Hậu lại được Trung tâm Bảo vệ bản quyền tác giả âm nhạc Việt Nam do nhạc sĩ Phó Đức Phương (người vào Nhạc viện Âm nhạc cùng năm với Đinh Tiến Hậu nhận giấy báo) xác nhận. Và tiền bản quyền “Ngôi sao ban chiều” vẫn được chuyển đều cho Đinh Tiến Hậu.

Điều mà Đinh Tiến Hậu kỳ vọng ở tôi là – qua bài viết này – “Ngôi sao ban chiều” chính thức được đời sống âm nhạc rộng rãi của Việt Nam công nhận là của anh. Một đời người làm âm nhạc, chỉ cần có được một “Ngôi sao ban chiều” thấm vào nhân gian như Đinh Tiến Hậu đã viết ra, tưởng là dễ, nhưng đâu có dễ. Bởi thế, tôi cũng như mọi người rất trân trọng anh, dù thời gian đã trôi qua nửa thế kỷ là quá muộn. Muộn nhưng còn làm được thì cũng chẳng có gì phải phiền muộn. Tôi tin là thế. Còn câu chuyện Đinh Tiến Hậu sẽ gặp “nguồn cảm hứng” cho “Ngôi sao ban chiều” của mình như thế nào, có lẽ lại là ở một bài viết khác. 

Sau khi không vào Học viện Âm nhạc được, Đinh Tiến Hậu đành vào làm việc tại Nhà máy cơ khí Hà Nội cho đến khi về hưu. Ở nhà máy, Đinh Tiến Hậu đã viết hàng chục ca khúc về nhà máy của mình. Tuy về hưu, Đinh Tiến Hậu vẫn tiếp tục niềm đam mê viết ca khúc. Ngồi nói chuyện với tôi, anh khoe một ca khúc viết về Hà Nội mang tên “Em có về Hà Nội”. Anh Hậu bảo, năm 1970 – tức là sau 6 năm viết ca khúc “Ngôi sao ban chiều” và vương vấn mãi mối tình đầu – Đinh Tiến Hậu mới xây dựng gia đình.

[footer]

Akai: Hoài niệm một thời

Tiếp nối bài viết về chiếc máy cassette, vốn dĩ cũng đã xa lạ với thế hệ 8X, 9X, hôm nay [dongnhacxua.com] xin đăng lại một bài viết về một máy nghe nhạc có lịch sử thậm chí còn xưa hơn: máy hát băng cối mà người miền Nam hay gọi là máy Akai.

Xem thêm:
“Tôi là Lâm Hào, vẫn còn sống đây!”
Cassette: Hoài niệm một thời
Mai này có còn băng cassette?
Phương Chánh Hùng: Người đam mê băng đĩa nhạc xưa
Akai & máy hát đĩa kim: thú chơi nhạc xưa tốn kém

TÍN ĐỒ AKAI
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Đình đăng trên DoanhNhanSaigon.vn)

Máy nghe nhạc Magnetophone dùng băng magnetic (quen gọi là băng cối) có rất nhiều thương hiệu nhưng được dân chơi định danh chung là máy Akai. Akai là một dòng máy hát cổ lỗ sĩ tưởng chỉ để bán ve chai trước trào lưu các dòng máy nghe nhạc hi-end công nghệ hiện đại, nhưng vẫn được giới sưu tầm Việt Nam săn lùng và đưa về thời hoàng kim của nó.
 
 
Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn
Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn

Phải đến những năm 2000, phong trào chơi nhạc xưa, săn lùng máy Akai mới bắt đầu quay trở lại với một ít người tiên phong trong thú chơi hội đủ các độ khó và phức tạp của nghề sưu tầm. 

“Nghĩa Akai”

“Ngày nào mà không loay hoay với băng đĩa, máy hát Akai, tự nhiên thấy trong người thiếu thiếu một cái gì đó” – Nghĩa Akai tâm sự ngắn gọn về niềm đam mê bất tận của mình với thú chơi mà anh theo đuổi từ hơn 10 năm nay.

Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn
Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn

Nghĩa Akai đang sở hữu bộ sưu tập Akai đồ sộ về chủng loại, số lượng và cũng đồng thời là chủ nhân của bốn quán cà phê nghe nhạc xưa. Chính vì thế mà dân sưu tầm gán luôn biệt danh “Akai” cho Nghĩa như khẳng định niềm đam mê bất tận của anh với thú chơi này. 

Nghĩa kể: “Tôi mê nhạc xưa từ năm 1982. Khi ấy, muốn kiếm quán cà phê nghe nhạc khó khăn lắm, sau đó vướng bận chuyện học hành, đây đó khắp nơi, làm đủ nghề, về lại Sài Gòn, mãi đến năm 2003, tôi mới có đủ điều kiện tập trung sưu tầm máy Akai. Khi ấy nguồn máy còn nhiều, chợ Nhật Tảo là điểm đến quen thuộc vì nơi này hay bán máy cho các đoàn làm phim mua làm đạo cụ. Ở Lê Công Kiều cũng có bán nhưng người mua để trưng bày hơn là sử dụng. Nhìn chung, giới chơi Akai lúc đó ít lắm vì băng đĩa rất hiếm”.

 Trước khi chuyển sang sưu tầm máy Akai và nhạc xưa, Nghĩa đã từng là một tay sưu tầm có hạng các đồ xưa cũ của những năm 1960 trở về trước, cả những dòng xe cổ, từ hai bánh đến bốn bánh. Khi bắt đầu tập trung cho Akai, mọi đam mê khác dần nhường chỗ cho thú vui này. Từ Huế vào Nam, hễ nghe nơi nào có máy Akai là Nghĩa tìm đến, đơn giản chỉ vì: “Nghe nhạc từ máy Akai nó gợi lại thời trẻ tuổi, hơn nữa khi có đĩa CD, nghe Akai tôi thấy âm thanh trung thực và liêu trai hơn, nên càng nghe càng nghiền”.

 

Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn
Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn

Có những lần gặp Nghĩa thấy hai con mắt thâm quầng, hỏi ra mới biết anh thức trắng đêm chỉ để nghe đi nghe lại một cuốn băng mới sưu tầm với những bài nhạc xưa quý hiếm.Khắp nhà Nghĩa, máy Akai xếp từ chân tường đến đụng trần. Chủ nhân suốt ngày loay hoay chỉnh sửa, rã máy này, ráp máy kia.

 Nghĩa kể: “Lúc đầu chưa kinh nghiệm, coi máy không kỹ, mua về bị máy hành đến nơi đến chốn, rồi phải tự mày mò, lục tìm thông tin trên mạng, gặp gỡ những thợ sửa Akai trước đây để học hỏi thêm. Ở Việt Nam hết máy để tìm thì lên eBay đấu giá, nhờ bạn bè, người thân ở nước ngoài xách máy về”.

Nghĩa còn có một kho nhạc đồ sộ, từ nhạc xưa của Việt Nam đến các thể loại nhạc nước ngoài. Tuy Nghĩa không dám khẳng định là đầy đủ trọn bộ, nhưng giới chơi Akai, hễ ai thiếu thứ gì, người đầu tiên họ nghĩ đến là Nghĩa, và hầu hết những yêu cầu đều được đáp ứng.

 Cả những ca sĩ của Sài Gòn xưa như Lệ Thu, Giao Linh, Phương Dung…, đến các nhạc sĩ tên tuổi ngày nay cũng tìm đến Nghĩa để xin tư liệu là các bản nhạc mà Nghĩa sưu tầm do chính họ trình bày mà không lưu giữ được. 

Chơi Akai dễ mà khó

Những người yêu thích nhạc xưa, thích sưu tầm máy Akai trước đây hầu hết ở lứa tuổi từ 35-60, bởi Akai từng là một thời kỷ niệm của họ. Những năm gần đây, người trẻ mê Akai ngày càng nhiều. 

Với khả năng nghiên cứu, tìm tư liệu trên mạng, các diễn đàn chơi Akai trong và ngoài nước, cùng trí nhớ tốt, những người trẻ đang dần làm sống lại thế giới nghe ngạc bằng máy Akai. Do nguồn tài chính hạn chế nên trong giới yêu nhạc xưa qua máy Akai đa phần tập trung sưu tầm nhạc, chưa chú trọng nhiều đến âm thanh và nguồn máy.

Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn
Ảnh: DoanhNhanSaigon.vn

Những ca sĩ của dòng nhạc hiện đại như rapper Tiến Đạt cũng là một tín đồ của Akai, sở hữu một chiếc Studer dùng để thu âm với 24 đường tiếng, là hàng độc của thị trường Akai Việt Nam. 

Giới chơi Akai riêng ở Sài Gòn nay đã có vài điểm đến quen thuộc để gặp gỡ, giao lưu và trao đổi máy móc, chia sẻ đam mê. Việc mua bán máy Akai trên thị trường cũng ngày càng dễ dàng hơn, nhất là việc chọn mua trên mạng từ các nước sản xuất dòng máy này như Nhật, Đức, Mỹ, với các thương hiệu Akai, Revox, Ampex, Studer, Teac, Sony… giá đủ cấp độ, từ đôi ba triệu cho đến năm bảy nghìn USD tùy theo giá trị và chất lượng của từng đời máy. Cái dễ của việc sưu tầm máy Akai là vậy. 

Akai hư hỏng, sửa ở đâu?

Máy Akai dễ hư nhất là đầu từ, nhưng có thể thay thế nhờ giới sưu tầm, những quán cà phê như Nhạc Xưa, Con Sóc ở đầu đường Bà Huyện Thanh Quan, Nghĩa Akai cuối đường Pasteur… Việc chỉnh sửa, thay đổi hoặc mua máy mới cũng dễ dàng, bởi ở các điểm cà phê Akai của Sài Gòn đều có anh em trong nghề chuyên cung cấp dịch vụ này, hoặc giới thiệu, trao đổi những dòng máy Akai cho người chơi.

Nhưng cái khó nhất trong thú chơi Akai, theo Nghĩa, là nguồn băng. Đây là mảng quan trọng nhất, bởi có máy xịn mà băng dở thì cũng bằng không. 

Nhạc Việt Nam những năm 1950 đa phần là đĩa cải lương, rất ít tân nhạc, đến thập niên 1960-70 thì dòng nhạc nước ngoài nhiều hơn, nguồn nhạc này cũng dễ tìm vì có thể sưu tầm từ các nước châu Âu và Mỹ, hoặc qua những Việt kiều có cùng đam mê sưu tầm đem về trao đổi. 
 
Chuyện tìm được một băng nhạc ưng ý có khi mất cả vài năm, mua đổ đống cả trăm cuốn băng may ra chỉ lựa được một hai cuốn có chất lượng tốt. Nhưng nghề chơi là vậy. Nghĩa Akai từng khẳng định: “Nếu đã đam mê rồi thì kiểu gì cuối cùng cũng tìm ra được món ưng ý để mua”.
Mỗi đời máy Akai lại mang một tính năng riêng, cho ra một âm thanh riêng biệt. Dòng máy phổ biến kiểu gia đình là dòng Akai M, với âm thanh mono, đến dòng M5- M11 là âm thanh stereo, M4-M8 được người yêu nhạc xưa chuộng bởi xài bóng đèn, đem lại âm thanh sạch, mộc, trong và tách chậm tiếng, nghe bản nhạc cùng một thời lượng nhưng có cảm giác nhả tiếng chậm hơn.

 

Bộ dạng với băng từ loằng ngoằng, hai bánh cối to đùng, nút bấm, đèn đóm, đồng hồ loạn xạ…, quả thật nhìn máy hát Akai có vẻ khó sử dụng ngay cả lúc cho băng vào máy. Nhưng khi tiếng nhạc cất lên, âm thanh mộc mạc, phô diễn chất giọng thật của ca sĩ thì những giai điệu ấy làm xốn xang lòng người, nhất là người luôn sống với thời quá vãng. Những quán cà phê của Sài Gòn thập niên 1980 như Thái Sơn – Đồng Khởi, Châu Thạnh – Lý Chính Thắng, Hương – Lê Thị Riêng… từng là một thời để nhớ của những tín đồ mê nhạc xưa phát ra từ chiếc máy Akai cũ kỹ. 

Những người chơi Akai kỳ cựu khuyên rằng, bắt đầu chơi Akai, nên chọn những dòng máy phổ thông, vừa túi tiền, sau mới phát huy dần kỹ năng và sở thích để nâng cấp các dòng máy phù hợp với nhu cầu. Băng là hàng đầu, sau đến cặp loa, amply, rồi tới máy. Chọn được bộ Akai đồng bộ là tốt nhất, nhưng với trên 100 đời máy của các nhãn hiệu và chủng loại thì công việc này không mấy đơn giản, đòi hỏi phải có lượng kiến thức đáng kể cùng việc tiêu tốn khá nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. 

Các diễn đàn về âm thanh trên mạng như VNAV, hoặc có thể tra cứu “AKAI” trên mạng cũng sẽ tìm được nhiều thông tin phong phú về các đời máy và các hội nhóm sưu tầm Akai.

Các điểm cà phê Akai cũng là nơi trao đổi băng nhạc, người chơi có thể tìm đến các địa chỉ này để tìm nghe, trao đổi, chép lại những bản nhạc xưa yêu thích.

 NGUYỄN ĐÌNH

[footer]

Văn Cao (1923-1995): Khoảng lặng đời người

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhạc sỹ Văn Cao (15/11/1923 – 10/07/1995), cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam, [dongnhacxua.com] xin được phép đăng lại một bài viết cho thấy một góc nhìn khác về những ‘khoảng lặng’ trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà nhạc sỹ. Qua bài viết này, xin được đại diện cho hàng triệu người yêu nhạc thế hệ sau, [dongnhacxua.com] kính chúc linh hồn Nhạc Sỹ vui hưởng hạnh phúc tràn đầy nơi chốn ‘Thiên Thai’, như trong một sáng tác bất hủ khác của ông!

Buồn tàn thu (Văn Cao). Ảnh: VietStamp.net
Buồn tàn thu (Văn Cao). Ảnh: VietStamp.net

buon-tan-thu--1--van-cao--vietstamp.net--dongnhacxua.com

CỐ NHẠC SỸ VĂN CAO: KHOẢNG LẶNG ĐỜI NGƯỜI
(Nguồn: XaHoi.com.vn)

Cố nhạc sĩ Văn Cao là một bậc kỳ tài trong nhiều lĩnh vực nhưng ông được biết đến nhiều nhất ở vai trò của một nhạc sĩ. Vẻ đẹp bảng lảng, thoát tục, giai điệu uyển chuyển của Buồn tàn thu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ,… đã làm say mê và cuốn hút bao người yêu nhạc. Cuộc đời nhạc sĩ Văn Cao có nhiều thăng trầm gắn liền với những biến thiên của lịch sử và sự khắc nghiệt trước cái nhìn của thời cuộc. Viết về ông, có lẽ cần cả một cuốn sách với cái nhìn thấu đáo. Bởi, đó là một cuộc đời lớn, cuộc đời của một thiên tài. Bài viết này chỉ là một nét phác họa về người nghệ sỹ tài hoa…

Chân dung Văn Cao. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.
Chân dung Văn Cao. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.

Vẻ đẹp tiên thiên trong tình ca

Đến giữa thập niên 30, nền tân nhạc Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc. Những cái tên như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Hoàng Quý,… đã tạo nên một diện mạo mới cho tân nhạc và gây ảnh hưởng lớn đến tinh thần thưởng ngoạn âm nhạc của giới trí thức lúc bấy giờ.

Trong dòng chảy đó, cuối năm 1939, Buồn tàn thu – ca khúc đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao ra đời. Năm đó ông vừa tròn 17 tuổi. Đầu năm 1940, Buồn tàn thu được chàng ca sĩ mê xê dịch Phạm Duy (nhạc sĩ Phạm Duy sau này) “gieo buồn đi khắp chốn” và tạo nên một hiệu ứng trong giới yêu nhạc thời ấy. Dù còn phảng phất sự ảnh hưởng của Lê Thương và Đặng Thế Phong nhưng Buồn tàn thu, với lời ca đầy chất thơ, tứ nhạc phong phú, nét nhạc thanh thoát đã hứa hẹn một tài năng. Quả vậy, sau đó ít lâu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ, Bến xuân, Thu cô liêu của Văn Cao qua tiếng hát Phạm Duy đã thổi một làn gió mát vào lòng người yêu nhạc, ngày ấy và cả bây giờ.

Nhạc sĩ Văn Cao tại nhà, tháng 7/1992. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha
Nhạc sĩ Văn Cao tại nhà, tháng 7/1992. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha

Ngay từ thời còn đi học, tài năng âm nhạc của Văn Cao đã sớm được bộc lộ. Văn Cao họ Nguyễn, bạn bè vẫn thường gọi ông bằng cái tên thân thuộc – anh Văn. Ông cất tiếng khóc chào đời vào ngày 15/11/1923 tại bến Bính, bên dòng sông Cấm, Hải Phòng. Cha (có tài liệu ghi là anh) của ông làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, ông sống cùng tiếng ồn ào của cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên. Ông học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph và được học nhạc sơ lược ở đây. Về sau, ông có học thêm nhạc lý ở lớp Tạ Phước nhưng lúc mới bắt đầu soạn nhạc, ông tự học và… bắt chước nhạc ngoại quốc! Sau này, bình nhạc Văn Cao, nhiều nhà chuyên môn cho rằng ông còn vài điểm kém về nhạc lý, nhạc điệu nhưng hết thảy đều công nhận ông thực sự là một bậc kỳ tài.

Cũng cần “Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đi qua đời tôi). Cố nhạc sĩ Phạm Duy, trong các bài viết sau này cũng nhiều lần nhắc đến tài năng của nhạc sĩ Văn Cao bằng sự kính trọng hết mực. Với giá trị hiển nhiên, nhạc Văn Cao đã vượt thoát qua cửa ải được trấn giữ lâu ngày bởi những đàn anh đi trước và đặt nền móng cho những thế hệ đi sau.

Tinh hoa phát tiết

Tài hoa của Văn Cao còn phát động sang nhiều lĩnh vực khác, nói như nhà văn Vũ Bằng thì, cái gì Văn Cao cũng biết, từ đàn ca, hát xướng cho đến vẽ vời. Trong đó, bên cạnh âm nhạc thì đáng chú ý hơn hết thảy là thơ ca và hội họa. Theo họa sĩ Tạ Tỵ, Văn Cao tuy chỉ học có hai năm ở trường Mỹ thuật Đông Dương với tư cách là sinh viên dự thính, nhưng lại có một tài họa kỳ lạ, hứa hẹn rất nhiều. Bức Cuộc vũ của những người tự sát theo trường phái lập thể được ông trưng bày trong “Cuộc triển lãm độc nhất” (Salon unique) hồi 1943 cùng hai bức Cây đàn đỏ và Đường cấm trong triển lãm tự do tại Liên khu ba vào năm 1949 đến giờ vẫn được nhiều họa sĩ nhắc đến. Văn Cao còn phát hành tuyển tập nhạc do ông tự tay trình bày bìa bằng những bức tranh avant garde rất độc đáo mà lúc đó chưa ai nghĩ ra cách như vậy. Tiếc là, qua nhiều dâu bể, những tác phẩm này chỉ còn lại trong ký ức của bè bạn ông.

Văn Cao, trong ký ức của bạn bè, rất tài hoa mà cũng quá đỗi tài tử. Sinh thời, ông mê rượu và thuốc lào. Một lần, nhà thơ Phùng Quán đang ngồi quán uống trà thì thấy Văn Cao cùng một người bạn liêu xiêu từ quán rượu bước ra. Văn Cao hỏi mượn Phùng Quán năm đồng, Phùng Quán vét sạch túi đưa hết cho ông ba đồng. Lát sau thì thấy bà Băng (vợ nhạc sĩ Văn Cao) hớt hãi đi tìm ông. Thì ra, ông đã để người khách từ Hà Giang xuống nhờ vẽ cái nhãn chè với thù lao 50 đồng và 10 gói chè loại I chờ dài cổ! Hôm sau, Phùng Quán hỏi, Văn Cao lắc đầu: “Mình cần tiền nhưng cũng vô cùng chán tiền!” Con người tài hoa, trong hoàn cảnh túng thiếu, thà vay mượn để thỏa cái sở thích của mình chứ không chấp nhận đem tài năng ra bán buôn, đổi chác !

Nhạc sĩ Văn Cao (thứ 2, từ phải qua) và bè bạn. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha
Nhạc sĩ Văn Cao (thứ 2, từ phải qua) và bè bạn. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha

Năm 1944, Văn Cao gia nhập Cách mạng và được giao soạn một bài hát nhân ngày kháng Nhật. Tháng 11 năm 1944, Tiến quân ca được hoàn thành nhưng mãi đến ngày 17/8/1945, nó mới thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình. Trong buổi mít-tinh của công chức tại Nhà hát lớn Hà Nội, Tiến quân ca được Phạm Duy “cướp micro” hát lần đầu tiên trước quần chúng. Sau 19/8, tên tuổi Văn Cao nổi như cồn. Đầu năm 1946, trong kỳ họp Quốc hội khóa đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội đã quyết định chọn Tiến quân ca làm Quốc ca của nước ta. Tiếp theo Tiến quân ca, nhạc sĩ Văn Cao hầu như chỉ viết những bản nhạc hùng ca Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Sông Lô, Tiến về Hà Nội,… duy có Ngày mùa và Làng tôi (1947) mang đậm âm hưởng dân ca.

Theo Vũ Bằng, khi Văn Cao nổi tiếng về nhạc, người ta mới giở lại những bài thơ của Văn Cao được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ Bảy cùng vài tờ báo khác. Đến lúc đó người ta mới thấy thơ Văn Cao hay cũng như nhạc của ông. Vậy là thơ Văn Cao được đưa ra mổ xẻ và ca ngợi ầm lên, Văn Cao thành ra một thứ “sản phẩm trác tuyệt của những năm bốn mươi”! Theo thời gian, thơ Văn Cao vẫn có chỗ đứng riêng, vì giá trị thực của nó chứ không lóe lên chỉ vì sự tung hô nhất thời với những bài thơ đậm chất thời sự như Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 46, Những người trên cửa Biển cùng nhiều bài thơ khác được in trong tập Lá, xuất bản năm 1988.

Một khoảng lặng…

Sau 1954, nhạc sĩ Văn Cao hầu như không viết nhạc nữa (hiếm hoi có Mùa xuân đầu tiên được ông viết vào năm 1976). Nguyên nhân sâu xa của việc này là do ông cảm thấy ám ảnh sau việc bắn Đỗ Đức Phin – tay mật thám của Nhật vào năm 1945 tại Hải Phòng. “Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.”

Khi xảy ra vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm vào năm 1958, Văn Cao cũng như nhiều văn nghệ sỹ có liên quan bị đẩy vào bóng tối. Bản Tiến quân ca, vì thế cũng chịu nhiều thăng trầm như người viết ra nó. Tuy nhiên, với giá trị tất yếu, Tiến quân ca vẫn là Quốc ca của nước ta cho đến ngày hôm nay cũng như vị trí vững chắc của nhạc sĩ Văn Cao trong lòng người yêu nhạc. Năm 1983, lần đầu tiên sau nhiều năm, những nhạc phẩm của nhạc sĩ Văn Cao được hát trở lại. Năm năm sau, cái án Nhân văn được dở bỏ. Ba mươi năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, đủ dằng dặc để thui chột mọi sự sáng tạo, đủ khủng khiếp để gò ép một tinh thần. Vết xước xưa khó lành nhưng ít nhất cũng có những thứ được trả về đúng với giá trị vốn có của nó.

Nhạc sĩ và người vợ tảo tần – bà Nghiêm Thúy Băng. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.
Nhạc sĩ và người vợ tảo tần – bà Nghiêm Thúy Băng. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.

Ngày 10/7/1995, nhạc sĩ Văn Cao ôm giấc mơ đời người về với cõi thiên thai…

Viết về ông, với cái nhìn của một người trẻ lớn lên trong sự bùng nổ của rất nhiều trào lưu âm nhạc, tôi chợt nhớ đến một câu thơ trong bài Hoàng hạc lâu của thi sĩ Thôi Hiệu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. Con người ấy – với sự vĩ đại của một thiên tài, như nhà báo Nguyễn Thụy Kha nhận xét “Văn Cao là trời cho” và một nhân cách đáng trọng – cũng như một loài chim quý, ra đi không bao giờ trở lại và cũng không có sự lặp lại, mang theo bao sự vấn vương, ngưỡng mộ và đồng vọng của hậu thế.

[footer]

Cassette: Hoài niệm một thời

Tuổi thơ của chúng tôi gắn liền với chiếc máy cassette rè rè mà ba tôi cẩn thận giữ lại như một kỷ vật thời tham gia quân đội miền Nam Việt Nam. Khi ấy, đầu những năm 1980, là quãng  thời gian khó khăn về mọi mặt, từ viên kẹo, hộp sữa, ký thịt heo cho đến đời sống tinh thần. Đĩa nhựa thì không còn được sản xuất và dần thay thế bằng băng cassette. Thuở đó, giống như nhiều làng quê Việt Nam khác, mảnh đất Tuy Hòa miền Trung quê tôi đời sống vật chất  tuy thiếu thốn nhưng tình làng nghĩa xóm thì tràn đầy.

Đã hơn 30 năm nhưng chúng tôi vẫn còn nhớ như in mỗi đêm cúp điện (lúc đó buổi tối vẫn chưa có điện thường xuyên như bây giờ), ba tôi và mấy bác lớn tuổi tập trung lại, uống trà, ngắm hoa và mở cassette nghe đọc truyện Tàu như ‘Tam Quốc Chí’, ‘Thủy Hử’; còn lũ trẻ chúng tôi tụ tập xung quanh lắng nghe từng câu chữ, mê hoặc giọng đọc truyền cảm và liêu trai của xướng ngôn viên.

Rồi cũng có khi anh chị chúng tôi mượn được của bạn bè một băng cassette cũ của Duy Khánh hay Chế Linh thâu âm trước 1975, và nhất là cuốn ‘Sơn ca 7 – Khánh Lý & Trịnh Công Sơn’. Tôi còn nhớ lúc đó vừa nghe vừa phải trực trước cái máy để xem có bị rối băng hay không. Nếu có thì phải tháo ra, cẩn thận kéo cuộn băng từ để đừng làm nó đứt hay bị dập. Rồi vui nhất là đi hái lá mít để lấy mủ mà dán cho nó ‘lành lặn’ trở lại. Xong, nghe lại thấy vui ghê!

Mới đó mà đã hơn nửa đời người! Qua bài viết này [dongnhacxua.com] xin tri ân ba mẹ, anh chị, bạn bè và cả những chiếc máy và băng cassette cổ lỗ sỉ đã làm phong phú cho tuổi thơ của cả một thế hệ chúng tôi.

Máy cassette. Ảnh: muare.vn
Máy cassette. Ảnh: muare.vn

CASSETTE 50 TUỔI
(Nguồn: tác giả N.M đăng trên báo Thể Thao & Văn Hóa)

(Thethaovanhoa.vn) – Ở thời buổi bây giờ, để giới thiệu cho một đứa trẻ lên 8 hiểu thế nào là băng cassette thì chỉ còn cách search google trên iPad. Nhưng với những thế hệ trưởng thành từ những năm 80 trở về trước, cassette luôn là một thế giới. Hôm 13/9 vừa qua, thế giới đã long trọng kỉ niệm 50 năm ngày cassette ra đời.

Gọi “long trọng” cho khí thế chứ thật ra sự kiện lớn nhất là một ngày hội mang tên Cassette store day được tổ chức không xôm tụ lắm ở Úc, còn thì vẫn chỉ là những hoài niệm trên báo, hoặc đâu đó trên Facebook. Dư chấn của nó là những tiếng thở dài. 

Ngày 13/9/1963, hãng Philips long trọng tuyên bố với thế giới rằng một sản phẩm mới tinh ra đời để thay thế cho những chiếc băng cối cồng kềnh, vừa dễ cầm, dễ mang theo và chất lượng thu thanh vẫn được đảm bảo. Họ gọi đó là cassette. 

Băng cassette. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Băng cassette. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

Cassette là một thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu âm thanh trên 2 mặt. Cuộn băng từ trường này rộng 3,81 mm, còn độ dài của cuộn băng tùy thuộc vào thời gian có thể chạy của cả băng, như có nhiều chuẩn thông dụng C60 (30 phút âm thanh mỗi mặt), C90 (45 phút mỗi mặt)… So với một chiếc đĩa than bị khống chế nhiều về thời gian thì việc nghe được 90 phút âm nhạc từ cassette là một khác biệt lớn. Chưa kể cassette tiện lợi, nhỏ gọn và giá thành rẻ hơn. 

Từ năm 1965, những băng nhạc cassette thông dụng bắt đầu được bán ra thị trường, lúc đầu chỉ có thể phát bằng chất lượng âm thanh mono nhưng từ năm 1966 đã có băng cassette stereo. Cho đến năm 1988, riêng hãng Philips, đã bán được khoảng 3 tỷ cuộn băng cassette chưa kể những hãng sản xuất nổi tiếng khác như TDK, Maxell, hay Nakamichi…

Dale Wiggins, trưởng bộ phận nghiên cứu của hãng Philips tại Mỹ cho rằng cassette ra đời là nhu cầu thiết yếu để đơn giản hóa việc nghe nhạc, đặc biệt là từ băng cối, một công nghệ  khá cồng kềnh. “Với cassette, bạn chỉ cần đưa nó vào hộc băng và nhấn play, tất cả còn sẽ là tự động”. Sau cassette là sự ra đời của CD, DVD và bây giờ là nhạc số. 

“Nhưng âm thanh của cassette vẫn mang một màu sắc riêng, cho dù không thật sự hay bằng đĩa nhựa nhưng chất âm analog của nó vẫn hơn đứt công nghệ số ngày nay”, Patrick Butler, một tay mê cassette chính hiệu, đã “gào” lên như thế trên tờ tạp chí dành cho dân chơi âm thanh, Stereophile.

Nhưng không phải ai cũng là Butler, âm nhạc vẫn là âm nhạc dù nghe qua bất kỳ hình thức gì và số đông vẫn nghe theo cách của xu hướng tân thời. “Đúng là tôi rất buồn bã, cả một thời kỳ, nhiều thế hệ đã lớn lên bằng băng cassette và giờ đây tất cả chỉ còn là ký ức”, Scott Seward, một người phê bình âm nhạc ở Massachusetts, phát biểu. “Nhưng cassette không bị diệt vong, tôi vẫn thấy những nhóm nhạc indie phát hành cassette vì đơn giản giá thành chúng chỉ là 1 USD so với 18 USD của đĩa nhựa hay 10 USD của CD. Ở Trung Đông hay những vùng thôn quê tại châu Á những chiếc băng cassette vẫn được nghe thường xuyên. Tất nhiên thế giới vẫn phát triển nhưng cassette sẽ không bao giờ chết, giống như đĩa than vậy. Sự hoài cổ và giá thành rẻ sẽ giúp chúng tiếp tục tồn tại”, Seward nói thêm. 

Một chuyên gia của hãng Maxell khẳng định dù có nghe đi nghe lại hàng trăm lần nhưng chất lượng cassette của Maxell ngày xưa vẫn ổn định. “Tất nhiên là băng sẽ nhão nhưng nếu bạn chỉ để nghe và không thâu đi thâu lại nhiều lần thì chất lượng của chúng vẫn rất tuyệt hảo”. Độc giả của nhiều tờ báo lớn đã nói rằng họ luôn nhớ cảm giác dùng bút chì cho vào bánh răng quay để gỡ rối băng cassette là một trải nghiệm chẳng bao giờ quên.

Ở Việt Nam những chiếc băng cassette cũ sau một thời gian nằm kho, giờ cũng khá có giá trị trên thị trường, đặc biệt là những cuộn băng gốc nước ngoài hoặc những băng cassette ở miền Nam trước đây. Đi theo nó là cả một thị trường máy cassette cũng nhộn nhịp không kém.

Liệu cassette có trở lại thời hoàng kim của mình hay chỉ là một thú chơi hoài niệm? Điều này rất khó trả lời. Tờ Wftv cho rằng thay vì trả lời việc bạn cần phải làm là hãy đem chiếc máy casette vốn để quá lâu trong nhà kho ra lau thật sạch, đừng quên chùi đầu từ và chọn lại một cuồn băng ngày xưa từng rất thích ra nghe. Hãy nghe lại và rủ những người trẻ nghe cùng. Câu trả lời sẽ nằm ở quyết định sau đó của bạn.

N.M 
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

[footer]

Không bao giờ quên anh: Hoàng Trang (1938-2011)

Khi nghe tên nhạc sỹ Hoàng Trang chắc nhiều người hãy còn thấy xa lạ. Thế nhưng khi nghe ai đó ngân nga ‘Tôi viết lên đây với tất cả chân thành của lòng tôi trao anh …’ (câu đầu của bản ‘Không bao giờ quên anh’)  thì hầu hết những ai yêu thích nhạc xưa sẽ cảm thấy rất quen thuộc. Tác giả của bản này không ai khác là nhạc sỹ Hoàng Trang.  

Nghệ danh Hoàng Trang có nghĩa là hoa trang vàng. Những ai sống ở miền Nam hẳn không xa lạ với hoa trang, một loài hoa mộc mạc, gân gũi nhưng nhìn rất thanh cao. Theo lời tâm sự của nhạc sỹ thì do lúc nhỏ ông sống ở quê nội là vùng Chợ Mới (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang) có rất nhiều hoa trang vàng nên hình ảnh này đã in sâu vào tâm thức của ông.

Một điểm khá lý thú mà chúng tôi vẫn chưa có lời giải đáp: hầu hết các nhạc sỹ là nam và khi viết là nói lên tâm sự của mình, tức của “anh” hay “chàng”; thế nhưng trong bản ‘Không bao giờ quên anh’ thì nhạc sỹ Hoàng Trang lại viết lên tâm sự của người con gái!

Nhạc sỹ Hoàng Trang mất năm 2011 tại Sài Gòn. Qua bài viết này, cho phép [dongnhacxua.com] gởi lời tri ân đến người nhạc sẽ đã để lại cho đời nhiều giai điệu đẹp. Chúc linh hồn ông an nghĩ miền cực lạc và chắc chắn là các thế hệ sau sẽ “không bao giờ quên anh”.

Không bao giờ quên anh (Hoàng Trang). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Không bao giờ quên anh (Hoàng Trang). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

khong-bao-gio-quen-anh--1--hoang-trang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com khong-bao-gio-quen-anh--2--hoang-trang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com khong-bao-gio-quen-anh--3--hoang-trang--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Nhạc sỹ Hoàng Trang. Ảnh: NhacSiNgocSon.com Tôi không ngờ dây là tấm ảnh sau cùng tôi được chụp cho anh ( cố nhạc sĩ Hoàng Trang ) trong chuyến đi Hà Nội với nhiều anh chị em ca nhạc sĩ Sài gòn ...            Ảnh chụp tại BÁI TỬ LONG ( VỊNH HẠ LONG ) (nhạc sĩ - nhiếp ảnh Ngọc Sơn)
Nhạc sỹ Hoàng Trang. Ảnh: NhacSiNgocSon.com
Tôi không ngờ dây là tấm ảnh sau cùng tôi được chụp cho anh ( cố nhạc sĩ Hoàng Trang ) trong chuyến đi Hà Nội với nhiều anh chị em ca nhạc sĩ Sài gòn … Ảnh chụp tại BÁI TỬ LONG ( VỊNH HẠ LONG )
(nhạc sĩ – nhiếp ảnh Ngọc Sơn)

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ HOÀNG TRANG
(Nguồn: Wikipedia)

Tiểu sử

Nhạc sĩ Hoàng Trang tên thật là Trần Văn Phát, sinh năm 1938 tại xã Thanh Tân (tỉnh Bến Tre). Nghệ danh Hoàng Trang (hoa trang vàng) là do lúc nhỏ ông sống ở quê nội nơi chợ Mới (Gò Công Đông, Tiền Giang), hình ảnh hoa trang vàng đã đi vào tâm thức nên sau này ông đã lấy hoa trang vàng đặt làm nghệ danh. Ông còn có các nghệ danh khác như: Triết Giang, Trần Nguyên Thụy, Thiên Tường, Hồng Đạt. Ông cùng thế hệ với các nhạc sĩ như Mặc Thế NhânThanh SơnTrần Thiện Thanh,Trúc PhươngAnh Việt Thu …[1]

Năm 1965, nhạc sĩ Hoàng Trang lập gia đình với con gái thứ hai của ông Tám Oanh chủ hãng đĩa Sóng Nhạc Asia. Đến nay, ông đã có 4 người con, 3 trai 1 gái (một trai đầu đã mất). Hiện ngụ tại số 37, đường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 và vẫn đều đặn sáng tác dù đã 70 tuổi.

Do lâm trọng bệnh, ông đã qua đời ngày 18 tháng 8, 2011 tại tư gia ở Sài Gòn và được an táng tại nghĩa trang công viên Bình Dương.

Sự nghiệp sáng tác

Tài năng âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trang là do ông mày mò, kiên nhẫn tự học, không kinh qua trường lớp hoặc người thầy nào. Sự nghiệp sáng tác của ông có khoảng 100 ca khúc, được viết từ năm 1963 với bài Nửa Đêm Đợi Chờ cho đến sau năm 1975, trong đó một số bài được công chúng đặc biệt yêu thích như Không Bao Giờ Quên Anh(1964), Kể Chuyện Trong Đêm (1966), Ước Nguyện Đầu Xuân (1967), Nếu Đời Không Có AnhTâm Sự Với Anh,…

Ông sáng tác Không Bao Giờ Quên Anh năm 26 tuổi, viết trong tâm trạng của người đang yêu, đồng thời đúc kết kinh nghiệm từ những cuộc tình tan vỡ, lỡ làng nhưng đẹp và lãng mạn… từ những người khác. Tình khúc Không Bao Giờ Quên Anh vừa ra đời đã được Hãng đĩa Việt Nam mua, ca sĩ đầu tiên thể hiện là Phương Dung, sau đó đến ca sĩ Hương Lan rồi Giao Linh.

[footer]

Tạ ơn (Trịnh Công Sơn): Tạ ơn Người, tạ ơn Đời

Cuộc sống càng ngày càng hiện đại, con người càng ngày tạo dựng ra nhiều của cải cho xã hội, nhiều phương tiện để đời sống được nâng cao hơn. Đó là điều rất đáng hoan nghênh! Thế nhưng mặt trái của nó là con người càng lúc càng bận rộn và tận dụng tối đa thời gian để hưởng thụ, đến nỗi chúng ta không còn thời gian để lắng đọng tâm hồn, để nghe được những giai điệu thiết tha của cuộc sống, để thấy những mảnh đời tả tơi cần sẻ chia và nhất là để “tạ ơn Người, tạ ơn Đời” đã cho ta “tình sáng ngời như sao xuống từ Trời”. Trong tâm tình đó, hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu nhạc phẩm “Tạ ơn” của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, sáng tác năm 1964.

Tạ ơn (Trịnh Công Sơn). Ảnh: tcs-home.org
Tạ ơn (Trịnh Công Sơn). Ảnh: tcs-home.org

ta-on--2--trinh-cong-son--tcs-home.org--dongnhacxua.com

TẢM MẠN VỀ BÁI HÁT “TẠ ƠN” CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hoàng đăng trên AmNhac.fm )

Nguyễn Hoàng
30.9.2011

Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh. Ảnh: AmNhac.fm
Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh. Ảnh: AmNhac.fm

Mấy hôm nay trời Huế chuyển mùa và cũng bị ảnh hưởng các cơn bão xa. Dọc theo các con đường Lê Lợi, Hùng Vương,… những cây muối loang lổ màu đỏ của đám lá già giữa vùng lá xanh; những cây điệp (lim sét) thì lá đổi màu “bỗng vàng, bỗng xanh” rồi “lá úa rơi mù” làm cho ca từ của một số bài hát của họ Trịnh quay về trong ký ức.

Bẵng khá nhiều năm sau khi bước qua thời tuổi trẻ, tôi không nghe nhạc Trịnh (cũng như một số nhạc phẩm khác ở miền nam do không có phương tiện nghe nhìn). Mãi cho đến lúc sắm được một máy cassette player mono hiệu Philips, tôi bắt đầu săn lùng nhạc để nghe. Chuyện ấy đã diễn ra cách đây gần một phần tư thế kỷ.

Không phải như thời nay, các thiết bị nghe nhìn, lưu trữ vô cùng phong phú. Ngày ấy, ở một tỉnh nhỏ không có nhiều tiệm thu băng nhạc, số băng cũ lưu lại không nhiều, các băng nhạc hải ngoại chưa được phép mang về nên tìm được, nghe lại được bài gì đôi lúc là nhờ sự chịu khó của mình cũng như tình cờ mà có được.

Các bản nhạc phổ biến của họ Trịnh tôi được nghe lại từ băng Sơn Ca 7 với Tình nhớ, Tình sầu, Nắng thủy tinh, Hạ trắng,…. Riêng bài Tạ ơn của Trịnh thì nghe từ một băng tổng hợp các bài hát của nhiều nhạc sĩ. Tôi không rõ ấy là băng gốc hay ngươi ta đã sao chép, ghép nối từ những băng khác nhau.

Tạ ơn” không phải là bài tôi thích nhất hoặc thường nghe nhưng về sau đôi lúc tình cờ thoáng nghe, giọng ca Khánh Ly đưa tôi vào một tâm trạng “sắc sắc không không”, khó diễn đạt thành lời. Trạng thái “tâm viên, ý mã” ấy cứ lang thang, trộn lẫn chuyện xưa, chuyện nay chuyện hư, chuyện thực trong chốc lát thư giãn nào đó.

Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, ta ơn ai đã đưa em về chốn này, tôi xây mãi cuộc vui.
Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi còn thấy những ngày ngồi mơ ước cùng người.

Bản nhạc được viết theo cung La trưởng, phối trí kiểu A-B-A, giai điệu nhẹ nhàng, chầm chậm, không có kỹ thuật phức tạp. Chỉ cần dùng các dây số 2 đến số 5 trên cây đàn guitar là đủ để chơi trọn vẹn bản nhạc cho nên hầu như giọng ai cũng hát được nhưng để hát hay, có hồn và chọn đúng cách hòa âm phối khí cho phù hợp thì có vẻ rất khó vì thấy không có nhiều ca sĩ hát. Ngoài ra tôi không thỏa mãn với phần nhạc đệm hiện nay so với lần tôi đã nghe.

Có thể TCS viết ca khúc này dành cho một người tình nhỏ đã đi qua trong cuộc đời của ông ấy với những gì còn đọng lại là nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng nào cấm ai liên tưởng đến “em” cũng là một công việc, một “sự nghiệp” một vật thân thương nào đó trong một chặng đời của mình. Công việc ấy đôi lúc là niềm vui, hứng khởi, có khi là nhàm chán nhưng là một thực thể tồn tại và gắn bó với mình nên khi đi qua rồi, lòng vẫn đọng chút nuối tiếc mơ hồ và tư thế thì chưa sẵn sàng chờ đón cái mới đến.

Nếu đoạn đầu như là lời nói xã giao, đưa đẩy lịch sự khi người ta giã từ hay ngoảnh mặt làm ngơ thì sang đoạn giữa, nhạc điệu và ca từ chuyển đổi sang độc thoại một cách thâm trầm, sâu lắng:

Ôi mênh mông tháng ngày tháng vắng em,
Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh.
Em ra đi như thoáng gió thầm,
để lại đây thành phố không hồn.
Qua con sông nhớ người đã xa,
Thành phố vẫn nắng vàng, vẫn mưa.
Cây sang Thu lá úa rơi mù,
Chuyện ngày xưa heo hút trong mơ.

Là lời của một người đối diện với nỗi cô đơn, hồi tưởng những vui buồn, những điều đã chiêm nghiệm, đã trải qua. Không oán trách, không chua xót ngậm ngùi mà chỉ là thoáng chút bơ vơ nhưng cũng không mong sự tái hợp. Những gì đến thì phải đến, đi thì đi, dòng đời là một chuỗi sự kiện ngẫu nhiên và tất định nối tiếp nhau.

Khi “em” đã rời xa, để lại đây những con đường, những giòng sông, hàng cây, có nắng vàng, có mưa rơi. Tất cả đều trở thành ký ức, giấc mơ như nước tuôn từ suối nguồn ra biển cả; muốn trở về lại ngày xưa ấy thì chỉ còn cách hóa kiếp bốc hơi biến thành cơn mưa rào mà thôi.

Khi nghe/hát bài này, ta cảm một nỗi niềm cô đơn dâng lên, cô đơn nhưng không tuyệt vọng, không buồn tủi vì nó là quy luật. Thì thầm với “em”, với người “tình xa” chỉ nhằm giải tỏa ẩn ức của những khoảng khắc cuộc đời trong lúc đồng hành với “kiếp sống lẻ loi”.

Rồi tỉnh táo lại, lời cám ơn sau cùng càng lịch sự và khách sáo nhiều hơn và cũng hiện thực hơn:

Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, ta ơn ai đã cho tôi còn những ngày quên kiếp sống lẻ loi.

Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, ta ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời như sao xuống từ trời.
…..
Những lúc “thu mình” lại, tôi nghe bài này với giọng Khánh Ly ở một khoảng cách xa xa, thoang thoảng mới thật là thấm.