Tiếp nối bài viết về nhạc phẩm bất hủ “Còn chút gì để nhớ“, hôm nay [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu một bài viết của tác giả Nguyễn Quang Tuệ – ghi theo lời kể của ông N.H – đăng trên báo Gia Lai Online, số Xuân Quý Tỵ 2013
Pleiku. Mùa mưa. Khoảng năm 1970. Trước một chút, tôi bị bắt quân dịch, rồi làm lính kiểng. Lo lót để được ở lại thị xã, công việc chủ yếu của tôi là… chơi nhạc. Pleiku hồi ấy được mệnh danh là thị xã của lính, thị xã của binh khí, xe pháo. Lính tráng có lúc nhiều gấp ba lần dân Pleiku.
Nhưng công bằng mà nói, Pleiku cũng là nơi có rất nhiều quán xá, câu lạc bộ gắn liền với âm nhạc. Tôi còn nhớ, hồi đó một số quán cà phê ở Pleiku vẫn thường tổ chức những đêm thơ, nhạc một cách khá bài bản, ví như quán Văn, Tay Trái,… Pleiku ngày ấy cũng còn là nơi lui tới khá thường xuyên của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, một số người trong đó, còn sống và sáng tác cho đến tận bây giờ.
Còn một chút gì để nhớ (Vũ Hữu Định). Nguyễn Quang Tuệ thiết kế.
Ngoài hai mươi tuổi, tôi cùng vài ba anh em thân quen đồng trang lứa khác chơi nhạc cho khá nhiều nơi trong thị xã. Thu nhập kể ra cũng không đến nỗi nào nhưng quan trọng là vào thời điểm ấy, tính mạng mình được an toàn hơn là phải ra mặt trận. Một hôm, khoảng hơn 20 giờ, sau khi chơi nhạc, chúng tôi đang sửa soạn rời câu lạc bộ Đại Hàn (Korea Club)-nằm trên đường Hùng Vương (đường Hoàng Diệu cũ, chỗ sát tường rào Nhà Văn hóa Lao động, gần đối diện với cổng Trường THPT Chuyên Hùng Vương bây giờ) để trở về nhà thì có một tốp người đi vào. Sở dĩ hàng đêm chúng tôi phải về sớm là vì, hồi đó, chừng 22 giờ hoặc trước 22 giờ một chút, Pleiku đã phát lệnh giới nghiêm, cấm người dân ra khỏi nhà.
Tôi nhìn thấy trong nhóm đang đi vào ấy có mấy người tôi biết mặt, biết tên từ trước, số còn lại thì sau lần gặp gỡ ấy, tôi mới biết họ. Đó là nhạc sĩ Phạm Duy, nhà thơ Kim Tuấn (tức Nguyễn Phước Vĩnh Khuê (1938-2003), quê Hà Tĩnh, hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, tác giả các lời thơ được phổ nhạc nổi tiếng như Những bước chân âm thầm, Anh cho em mùa xuân, đồng thời là thầy dạy tiếng Anh của anh em tôi ở Pleiku), đại úy quân cảnh Nguyễn Vinh Hiển (nhà văn Hoàng Khởi Phong, tác giả của tiểu thuyết Người trăm năm cũ, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, 2009).
Cùng đi với những văn nghệ sĩ ấy còn có một vài người khác nữa. Nhưng cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không sao quên được một người đã gây cho tôi những ấn tượng mạnh trong buổi tối hôm ấy. Người ấy trẻ, trạc tuổi tôi, mặc một tấm áo màu xám, sau lưng có dòng chữ LCĐB in đậm.
Thấy chúng tôi đứng dậy toan về, nhạc sĩ Phạm Duy nói: Ở nguyên đó đi, có việc cần đấy. Chúng tôi miễn cưỡng chờ, dù trong lòng ai chắc cũng đã nóng như lửa đốt, vì giờ giới nghiêm đã tới rồi. Dường như biết sự lo lắng của mấy anh em nhạc công, ông Phạm Duy lại bảo: Lát có xe đưa về. Cứ yên tâm. Đến nước này thì chúng tôi cũng đành yên tâm vậy, vả lại có ông sĩ quan quân cảnh ở đây, chắc chúng tôi sẽ không bị làm phiền vì về nhà lúc đã quá giờ quy định.
Nhạc sĩ Phạm Duy kéo ghế ngồi xuống, mấy người đi cùng lặng lẽ tản ra xung quanh. Ông lấy trong túi cái áo màu đen đang mặc ra một tờ giấy và một cây bút rồi bắt đầu kẻ các dòng nhạc rất nhanh. Một lát sau, thấy chúng tôi đã đứng, ngồi sẵn sàng bên các nhạc cụ quen thuộc của mình, ông hất hàm bảo: Đô trưởng, boston nhé. Và thế là ông cầm tờ giấy hát trước, mấy anh em tôi đệm theo sau. Ngoài trời lúc ấy có mưa nhưng không nặng hạt lắm.
Giọng Phạm Duy lúc bổng khi trầm khá cuốn hút. Ông dứt lời, mọi người vỗ tay chúc mừng. Tôi nhớ, hình như Phạm Duy hát xong có đặt tờ giấy xuống bàn, gạch sửa chút ít gì đó, hát lại một vài câu rồi mới gấp nó lại bỏ vào túi áo thì phải. Riêng người đặc biệt của tôi đêm ấy thì không nói gì, anh lặng lẽ ngồi đó cho đến khi chúng tôi được một chiếc xe Jeep đưa về tận nhà, mà không bị ai xét hỏi dọc đường. Lúc ấy, tôi đã biết: Anh là Vũ Hữu Định, một người lính phản đối chiến tranh nên bị đày lên mặt trận cao nguyên nguy hiểm trong màu áo LCĐB (lao công đào binh).
Nhiều chục năm đã trôi qua, bài thơ Còn một chút gì để nhớ của Vũ Hữu Định sau khi được Phạm Duy chắp cánh, có thể nói đã trở nên bất tử, suốt từ sau những năm 1970 của thế kỷ trước đến nay. Tôi rất thích khi có người viết rằng Vũ Hữu Định (và cả Phạm Duy nữa) đã đội vương miện cho thành phố này-Phố núi Pleiku. Tôi biết Vũ Hữu Định từ dạo ấy. Nhưng cũng phải nói thật, ban đầu, tức cái đêm hôm đó, tôi quý anh không phải vì thơ, mà chính là vì thấy… lạ quá, nể phục trong lòng quá.
Trong đầu tôi bao năm vẫn cứ mãi loanh quanh một câu hỏi: Tại sao những văn nghệ sĩ nổi tiếng như thế lại cất công đi tìm anh, chơi với anh, coi anh như bạn bè thân thiết, trong khi anh đang là lao công đào binh, một người đã phải đứng trước tòa án binh lãnh án, bị đày ra phục dịch tại mặt trận, nơi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào? Sau này tôi mới hiểu, đằng sau thân hình thấp nhỏ kia, bên trong tấm áo xám ấy là cả một tâm hồn lớn của một tài năng. Và, những người lớn đã vì tài năng mà quý nhau, đến với nhau, bất kể thân phận cụ thể…
Rất nhiều năm sau, khi tập thơ của Vũ Hữu Định được Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành, internet đã phổ biến rộng rãi và nhất là khi nhạc sĩ Phạm Duy trở về Việt Nam định cư, thường tổ chức các đêm diễn lớn, tôi đã đọc thêm được ở đâu đó những thông tin về bài thơ Còn một chút gì để nhớ. Rằng nó đã được viết hồi năm 1970, từng được đăng trên tạp chí Khởi hành… Nhạc sĩ Phạm Duy trong một lần lên Pleiku tìm cảm hứng sáng tác, đã gặp Vũ Hữu Định và như ông từng viết thì: Vũ Hữu Định chính là một thi sĩ đích thực. Giống nhiều người khác, khi phổ thơ, vẫn thường thêm vào hay bớt đi một vài câu chữ của nguyên bản, nhưng riêng với Còn một chút gì để nhớ thì Phạm Duy “kính trọng hoàn toàn bố cục (structure) cũng như vận tiết (prosodie) của thi phẩm”-như ông thừa nhận.
Có thể, sau cái lần tự tay viết những nốt nhạc đầu tiên cho tác phẩm của mình tại Pleiku ấy, nhạc sĩ Phạm Duy còn chỉnh sửa thêm nữa trước khi công bố để bài hát trở nên nổi tiếng. Nhưng với tôi, đó là một kỷ niệm khó quên, dù vào thời điểm ấy, tôi chưa hoàn toàn ý thức được vấn đề, vì bài hát chưa được ai biết, ngoài tác giả, vài bạn bè của ông, trong đó có Vũ Hữu Định và chúng tôi-những người chơi nhạc tình cờ được Phạm Duy nhờ vả chút ít trước giờ giới nghiêm, thời mà Pleiku còn như là… trại lính.
Pleiku từ một thị xã bé nhỏ, nay đã được mở rộng, khác xưa rất nhiều. Tôi đã ở đây suốt từ thời ấu thơ, cho đến lúc về già, chứng kiến biết bao thay đổi. May mắn thay, dù cuộc sống có biến động thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn được làm công việc mà mình yêu thích, đó là chơi nhạc và dạy nhạc. Trong cơ man âm thanh vang lên mỗi ngày ấy, tôi và rất nhiều những bạn trẻ yêu nhạc, vẫn dành những tình cảm trìu mến cho thành phố này. Chúng tôi đã yêu quý, gắn bó với Phố núi Pleiku, một phần vì âm nhạc, trong đó có tác phẩm của Phạm Duy-Vũ Hữu Định-Còn một chút gì để nhớ.
(Tiếp nối dòng hồi tưởng về nhạc sỹ Y Vân, [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến quý vị yêu nhạc xưa một bài viết có giá trị của một người bạn – nhà báo, nhà văn, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn – đăng trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng) Trong những nhạc sĩ quá cố mỗi ngày vẫn khơi dậy thương yêu cho chúng ta từ các ca khúc của họ, Y Vân là một trường hợp khiến tôi chú ý. Khi đời sống văn hóa cởi mở hơn, đủ để sự vùi lấp được lấp lánh lại và đủ để sự thiệt thòi được an ủi lại, thì nhạc sĩ Y Vân không còn trên đời mà nói về bao nhiêu góc khuất riêng tư.
1. Đôi lần tôi định phác thảo chân dung ông bằng chút chữ nghĩa khiêm tốn của mình, nhưng cứ day dứt suy nghĩ: cái lý lịch đáng tin cậy nhất và bền vững nhất của nhạc sĩ chính là những giai điệu thăng hoa từ tâm hồn, chứ không phải bất kỳ một lời hoa mỹ nào. Không thể nói khác hơn, giá trị ca khúc sẽ trực tiếp chứng minh nhạc sĩ ấy đã đến, đã trân trọng và đã ngoảnh lại tiếc nhớ cuộc sống này ra sao. Thế nhưng, đến một ngày gặp gỡ những người thân của nhạc sĩ Y Vân và được ngồi trong căn nhà nhỏ mà ông đã lặng lẽ sáng tạo đến giây phút cuối cùng trên cõi nhân gian, tôi quyết định viết về ông, dẫu dài dẫu ngắn hoặc dẫu sớm dẫu muộn cũng tỏ bày dăm ba niềm mến mộ của khán giả hôm nay dành cho tác giả nhiều ca khúc nức danh như “Lòng mẹ”, “Sài Gòn”, “60 năm cuộc đời”…
2. Xin nhắc lại, với di sản âm nhạc của nhạc sĩ Y Vân, ông không cần ai bênh vực cho mình trước sự bôi xóa nghiệt ngã của thời gian. Và cái lý lịch của Y Vân không chỉ đơn giản rằng: tên thật Trần Tấn Hậu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, mất năm 1992 tại TP HCM. Lý lịch của Y Vân cần được hình dung bằng những tác phẩm của Y Vân. Tôi đến tư gia của ông không phải để dò hỏi tin tức mà để cảm nhận không gian đã chở che và nâng đỡ nhiều ca khúc ký tên Y Vân xuất hiện.
Y Vân qua nét vẽ của con trai trưởng. Ảnh: cand.com.vn
Trên bức tường ngay phòng khách trang trọng treo bức tranh chân dung Y Vân do người con trai trưởng của ông vẽ bằng chất liệu sơn dầu. Đó là một bức tranh chân dung chứa đựng nhiều rung động thẩm mỹ. Nhìn vào đấy có thể thấy một Y Vân tóc gợn sóng phiêu lãng, vầng trán gồ nghị lực, và đặc biệt là đôi mắt sắc u uẩn buồn. Dù người vẽ thêm vào nhiều nốt nhạc quanh khuôn mặt khắc khổ của ông, thậm chí khói thuốc bay vòng lên từ vành môi ông cũng biến thành khóa sol, vẫn không thể nào khỏa lấp được nét buồn cứ thăm thẳm trào ra đôi mắt. Cứ như cả tuổi thơ khốn khó của một cậu bé mồ côi cha, xuôi ngược cùng mẹ nuôi hai em trong một ngõ nhỏ ở phố Khâm Thiên – Hà Nội, đều dồn vào đôi mắt ấy. Y Vân qua nét vẽ của con trai trưởng. Cứ như cả chuỗi ngày mê mải cùng các ban nhạc vất vả ở các phòng trà kiếm tiền cơm vợ áo con đều dồn vào đôi mắt ấy. Cứ như cả chuỗi khuya khoắt lầm lũi ôm cây đàn guitare ký xướng từng nốt nhạc lên trang bản thảo nhọc nhằn, đều dồn vào đôi mắt ấy. Lạc trong đôi mắt Y Vân, tôi bỗng mường tượng bài hát “Buồn” xa vắng tri âm của ông: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say”.
3. Bà Trần Thị Minh Lâm, người gắn bó với quãng đời sau của nhạc sĩ Y Vân, lần giở những bản nhạc của ông được gìn giữ cẩn thận bằng vẻ mặt hồi tưởng rưng rưng. Từ khi ông khuất bóng, bà sống dưới ngôi nhà này giữa ngổn ngang kỷ niệm. Gần 20 năm đã trôi qua, nhưng ngôi nhà vẫn bày biện như thời ông còn tại thế. Với bà, hình ảnh ông không hề xa xôi hay cách biệt, có thể ông vừa ra ngõ mua một bao thuốc lá, có thể ông vừa đến phòng thu để hòa âm một ca khúc mới, và cũng có thể ông vừa đi thực tế sáng tác ở đâu đó.
Bà Trần Thị Minh Lâm giở lại di cảo của chồng. Ảnh: cand.com.vn
Bà Trần Thị Minh Lâm chính thức đến với nhạc sĩ Y Vân do… vợ trước của nhạc sĩ Y Vân trực tiếp đi hỏi cưới. Bên chiếc máy may nhỏ, mỗi ngày bà tận tụy từng mũi kim đường chỉ để làm điểm tựa cho ca khúc của Y Vân tiếp tục bay cùng năm tháng. Bà rạch tòi: “Y Vân viết khoảng 200 ca khúc, tui đã đi đăng ký bản quyền 136 bài. Mong ước lớn nhứt của tui là có thể in một tuyển tập ca khúc Y Vân thật đầy đủ!”. Trong ký ức của bà vẫn còn nguyên tấm lưng gầy gò của nhạc sĩ Y Vân bên ngọn đèn đêm âm thầm viết nhạc. Hơn ai hết, bà hiểu ông viết ca khúc và viết nhạc phim giữa cái xóm lao động nghèo trên đường Trần Huy Liệu, quận 3, TP HCM không chỉ bằng đam mê mà còn bằng trách nhiệm của một người chồng, người cha. Bà sinh cho nhạc sĩ Y Vân bốn người con, và đối xử thân tình với bốn người con của vợ trước một cách êm ấm. Cả bà và người vợ trước đều xác định rất rõ, họ đứng sau một người đàn ông tài hoa và lận đận. Họ cảm thông sâu sắc rằng, đôi mắt buồn của Y Vân những thời khắc lủi thủi cùng bóng tối có thể giúp người yêu nhạc ngày mai được rộn ràng theo giai điệu “Đêm đô thị”, được đắm đuối theo tiết tấu “Những bước chân âm thầm”, được xao xuyến theo khúc thức “Ảo ảnh”… Và họ cũng mở lòng chấp nhận cả những phút giây trái tim liêu xiêu của ông lúc thoáng gặp mỹ nhân nào đó lướt qua, vì khoảnh khắc ấy được chuyển thành sáng tạo run rẩy, dẫu là “Thúy đã đi rồi” hoài niệm hay dẫu là “Kim” nơi nào ngậm ngùi: “Cớ sao buồn vậy Kim? Cớ sao sầu vậy Kim? Ai thương em hơn anh mà tìm?”.
4. Ngày 28/11/1992, nhạc sĩ Y Vân vẫy chào cõi người khi vừa bước vào tuổi 60, đúng như ông tiên liệu “Em ơi, có bao nhiêu. Sáu mươi năm cuộc đời”. Tác phẩm cuối cùng của ông là ca khúc “Từ xa nghìn trùng” viết cho bộ phim “Người về từ nghìn trùng” của đạo diễn Lưu Bạch Đàn. “Từ xa nghìn trùng” viết theo điệu slow, tất nhiên Y Vân không thể theo dõi sức lan tỏa của ca khúc ấy, nhưng ca sĩ Phương Thảo thể hiện và những diễn viên tham gia bộ phim “Người về từ nghìn trùng” như Việt Trinh, Lê Tuấn Anh, Y Phụng, Nguyễn Huỳnh đều lấy tâm trạng gửi gắm trong lời hát “sao anh quay đi để em lạnh lùng” để làm cột mốc nhớ thương ông! Ngày tiễn Y Vân về một chốn mơ màng khác, tôi không biết có bao nhiêu nước mắt bẽ bàng. Tuy nhiên, tôi dám chắc, không có những giọt nước mắt nào xót xa bằng nước mắt “lá vàng khóc lá xanh” ở người mẹ ruột của nhạc sĩ Y Vân. Người mẹ ấy chính là nguồn cảm hứng dạt dào để nhạc sĩ Y Vân tuổi đôi mươi đã viết nên ca khúc “Lòng mẹ” ngọt ngào đến tận hôm nay và mai sau: “Lòng mẹ chan chứa trên bao xóm làng gần xa. Lòng mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để nghe”. Có nhiều giai thoại khác nhau về sự ra đời của ca khúc “Lòng mẹ”, nhưng chỉ có một điều mà ai cũng có thể nhận ra mỗi lần lời hát vang lên, đó là sự hiếu thảo của nhạc sĩ Y Vân. Sau khi để tang cho con trai được 10 tháng, người mẹ ruột của Y Vân chia biệt dương gian trong nỗi niềm thắm thiết: “Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ. Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ”.
5. Bên cạnh “Sáu mươi năm cuộc đời” và “Lòng mẹ”, một ca khúc nữa của nhạc sĩ Y Vân được trình diễn với tần số dày đặc là “Sài Gòn”. Theo tài liệu mà tôi có được, bản nhạc “Sài Gòn” được in lần đầu tiên vào tháng 8/1965. Với điệu chachacha, ca khúc “Sài Gòn” phô diễn sức sống của một thành phố phương Nam nhộn nhịp và hào phóng: “Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai. Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay”. Nhiều lần nghe ca sĩ trong nước cũng như nhiều ban nhạc nước ngoài hát lại “Sài Gòn”, tôi luôn từ sự trầm trồ chuyển sang sự ngạc nhiên. Phong cách âm nhạc của Y Vân thật khó nắm bắt, vì nơi ông cộng hưởng nhiều thẩm mỹ không gần nhau, đối lập nhau. Y Vân có thể thành công với điệu bolero, rumba nhưng cũng có thể thành công với điệu twist, rock. Vì vậy, nếu tổ chức một đêm nhạc Y Vân, hoàn toàn có thể dàn dựng hàng chục bài hát mang màu sắc khác nhau lôi cuốn khán giả từ đầu đến cuối! Và tôi tin, cũng đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ hân hạnh công bố những ca khúc mà nhạc sĩ Y Vân đã sáng tác với tên thật Trần Tấn Hậu vào thập niên 80 của thế kỷ trước như: “Người con gái Việt Nam” phổ thơ Tố Hữu, “Người em sầu mộng” phổ thơ Lưu Trọng Lư, “Thề non nước” phổ thơ Tản Đà, “Một lần cuối” phổ thơ Nguyễn Bính…
Thưở sinh thời, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn từng rung động trước nhiều người con gái. Tuy nhiên câu chuyện với hai chị em ruột là Ngô Thị Bích Diễm (tức nhân vật trong bài ‘Diễm xưa’) và cô em Ngô Vũ Dao Ánh có lẽ là một giai thoại khó quên với giới yêu nhạc.
Có một câu chuyện vui về 2 chữ trong bài ‘Diễm xưa’: thay vì phải hát ‘nhỡ mai‘, rất nhiều người đã hát là “nhớ mãi’, mặc dù cái sai này khó phát hiện do cao độ của 2 nốt này làm ‘nhỡ mai’ rất giống ‘nhớ mãi’!
Diễm Xưa (Trịnh Công Sơn). Ảnh: hoangthaimusic.com
LỜI KỂ CỦA NGUYỄN ĐẮC XUÂN VỀ ‘DIỄM XƯA’ (Nguồn: Wikipedia)
Khoảng năm 1962, gia đình Trịnh Công Sơn gặp khó khăn kinh tế, gian phố lớn ở đường Phan Bội Châu (Ngã Giữa) phải sang cho người khác và qua thuê một căn hộ ở tầng một dãy lầu mới xây ở đầu cầu Phủ Cam (Nhà số 11/3 Nguyễn Trường Tộ, hiện nay là nhà của anh chị Hoàng Phủ Ngọc Tường – Lâm Thị Mỹ Dạ).
Hằng ngày Trịnh Công Sơn đứng trên lầu ngắm các cô nữ sinh đi qua cầu Phủ Cam, đi dọc theo đường Nguyễn Trường Tộ đến trường Đồng Khánh. Trong đám xuân xanh ấy có cô Ngô Thị Bích Diễm – con gái thầy Ngô Đốc Kh.- người Hà Nội, dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Bích Diễm giống bố, người dong dõng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng. Con người của Diễm rất hợp với cái tên Diễm và cũng thích hợp với tâm hồn bén nhạy của Trịnh Công Sơn.
Anh yêu Diễm mê mệt. Những ngày không thấy Diễm đi qua anh đau khổ vô cùng. Anh trông thấy con đường trước nhà “dài hun hút cho mắt thêm sâu”. Nhưng anh cũng biết gặp Diễm để nói lên nỗi đau ấy không phải là chuyện dễ.Thầy Ngô Đốc Kh. – thân sinh của Diễm, là một ông giáo rất nghiêm. Ông không thể chấp nhận một anh chàng chưa có bằng Đại học, tóc dài, cằm lún phún râu chuyện trò với các cô con gái đài các của ông. May sao lúc ấy họa sĩ Đinh Cường thuê nhà ở gần nhà Diễm để làm xưởng vẽ. Hai bạn canh chừng những khi thầy giáo có giờ dạy, mà Diễm đang ngồi ở nhà học bài thì hai bạn liền “liều” mình qua thăm. Những lần liều đầy mình ấy, có khi Diễm tiếp, có khi Diễm để cho người nhà tiếp và cũng có khi đang có bố ở nhà, Diễm tránh để cho khách ngồi chơi xơi nước rồi tự ý ra về. Khác với Ph.Th. (em ruột của ca sĩ Hà Thanh), Diễm biết Trịnh Công Sơn yêu mình và trái tim cô nhiều khi cũng rung động. Nhưng lúc ấy Diễm không thể vượt qua được sự nghiêm khắc của gia đình để nói cho tác giả Ướt Mi biết điều đó.Trịnh Công Sơn trút hết nỗi lòng yêu Diễm vào bài Diễm Xưa như sau nầy Sơn đã kể lại nhiều lần.
Có một điều lúc ấy Sơn không để ý: Những lúc Trịnh Công Sơn đến nhà Diễm, thì Dao A. – em gái của Diễm còn là một cô bé, nhỏ hơn Diễm đến bốn năm tuổi, chạy loăng quăng theo chị. Không ngờ chỉ mấy năm sau Dao A. trở thành một thiếu nữ xinh đẹp với khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương khác thường. Với cái cầu đã bắc từ hồi yêu Bích Diễm, nay Bích Diễm đã vào học Đại học ở Sài Gòn, tâm hồn của Sơn qua cây cầu cũ, nói như Đinh Cường “Sơn lại da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của Dao A. để rồi thất vọng, để rồi…”.
Khác với những lần yêu trước, thất vọng về Dao A., Trịnh Công Sơn không bắt nhạc của anh phải mang cái gánh thất tình của anh. Không ngờ hai mươi năm sau, trải qua bao nhiêu dâu bể, từ bên Mỹ, Dao A. trở về Việt Nam tìm Trịnh Công Sơn. Không rõ Dao A. nói gì với Sơn, và còn gì nữa không, mà anh đã rất hài lòng với thực tại “Hai mươi năm xin trả nợ dài, Trả nợ một đời em đã phụ tôi” (Xin Trả Nợ Người). Trong hai mươi năm ấy, Dao A. đã có gia đình, đã hiểu rõ cuộc đời, nên “hết phụ” tình Trịnh Công Sơn. Như Đinh Cường đã viết: “Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao A. về thăm, suốt tuần sáng nào A. cũng đến ngồi trên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà.” Trịnh Công Sơn yêu Dao A. phải trải qua hai mươi năm mới “nhận” được lời đáp. Tuy đã quá muộn, nhưng trên cõi đời nầy có mấy ai được yêu và được nhận có một khoảng cách dài lâu đến thế đâu!
LỜI KỂ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN VỀ ‘DIỄM XƯA’ (Nguồn: Wikipedia)
Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến Trường Đại học Văn khoa ở Huế. Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng, ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá.
Mùa mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhạt nhòa trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt… Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường. Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ. Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên.
Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực. Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thiêu hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình. Đó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa.
Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh. Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoang lạc của giấc mơ.
Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn. Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi. Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là “Diễm của những ngày xưa”.
Bà Ngô Bích Diễm trong đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại Trung tâm Liễu quán, Huế. Ảnh: X. HỒNG
Trở về Huế để làm từ thiện, thăm lại bạn bè và được sống trong hoài niệm, cô nữ sinh Trường Đồng Khánh – người con gái tạo cảm hứng cho nhạc sĩ họ Trịnh sáng tác ca khúc Diễm xưa – Ngô Bích Diễm đã hồi tưởng về ngày xưa
. Phóng viên: Chị và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quen nhau trong hoàn cảnh nào?
– Bà Ngô Bích Diễm: Sơn quen tôi qua họa sĩ Đinh Cường. Hai người là bạn thân của nhau. Ngày đó, anh Cường thuê nhà trọ ngay trong con hẻm nhà tôi. Có vài lần qua nhà tôi chơi, anh Sơn rủ Đinh Cường đi cùng. Nhà anh Sơn ở không xa nhà tôi.
Anh Sơn ở số 11/3, đường Nguyễn Trường Tộ, tôi ở nhà 46 (cũ) đường Phan Chu Trinh. Từ nhà anh Sơn đi qua cầu Phủ Cam, rẽ tay phải đi bộ vài phút là đến nhà tôi. Sơn hay đến nhà tôi chơi. Lúc ấy, nhà tôi có cây dạ lan hương, hoa nở rất thơm.
Anh Sơn rất thích mùi hoa này. Lúc nào đến chơi cũng nhận xét về mùi thơm của hoa. Có lần tôi đã tặng anh một nhành hoa. Sau đó, tôi nghe các em gái của anh nói lại là cành hoa tôi tặng đã làm chấn động tình cảm của anh.
. Vậy có phải Diễm xưa là tình yêu say mê của Trịnh Công Sơn dành cho chị?
– Tình cảm của Sơn dành cho tôi quá đẹp nên lúc nào tôi cũng trong trạng thái mơ hồ. Tôi không dám nhận mình là người con gái trong nhạc phẩm Diễm xưa. Nhưng đó là một mối tình rất đẹp của chúng tôi ngày ấy.
. Chị nghĩ về Trịnh Công Sơn thế nào?
– Anh Sơn như một dòng sông…
. Nghe nói do gia đình chị, cụ thể là ông cụ thân sinh đang là giáo viên Trường Quốc học Huế, không muốn chị thành thân với một nghệ sĩ?
(Diễm xúc động, một lúc sau mới nói).
– Tôi sinh ra ở Hà Nội. Năm 1952, gia đình tôi vào Huế nên tôi lớn lên ở Huế trưởng thành ở Sài Gòn. Nhưng đi bất cứ đâu, thậm chí sau này khi tôi đã định cư ở Mỹ, vẫn có nhiều người gặp tôi lần đầu đều hỏi tôi có phải là người Huế không? Vì phong cách, dáng dấp của tôi rất giống người Huế. Có lẽ đó là một trong những điều làm Sơn quý mến tôi. Với tôi, Huế luôn khép kín, bí ẩn, dù đi bất cứ đâu, suốt cả cuộc đời, Huế vẫn luôn ở trong tim tôi.
. Một mối tình thật đẹp, nhưng vì sao hai người không cùng nhau đi hết cuộc đời?
– Năm 1963, lúc 20 tuổi, tôi vào Sài Gòn học đại học, còn Sơn sau đó cũng vào học Trường Sư phạm Quy Nhơn. Sau đó tôi du học ở Mỹ nên không có điều kiện gặp lại anh.
. Dịch giả Bửu Ý, bạn thân của Trịnh Công Sơn nói rằng ông mới đếm sơ sơ thì Sơn đã có 23 người đẹp đi qua đời ông. Tất cả đều nói giọng Bắc như chị. Người nào Sơn cũng yêu say mê nhưng vẫn tìm hình bóng của Diễm qua từng người một, Diễm vẫn là niềm cảm hứng để Sơn dâng tặng cho đời những tình ca bất hủ. Chị nghĩ sao về điều này?
– (Nói trong cảm xúc dâng tràn, bà Diễm cười nhưng đôi hàng mi hoen ướt). Hình bóng anh Sơn đã bao trùm lên suốt cuộc đời tôi. Thế là quá đủ rồi!
Xin ghi chú nguồn DòngNhạcXưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!
Đối với nhiều quý vị yêu nhạc xưa thì cái tên ‘nhạc sỹ Thăng Long’ có thể hãy còn xa lạ. Tuy nhiên riêng với những ai sinh ra và lớn lên trước năm 1975 ở miền Nam thì nhạc phẩm ‘Quen nhau trên đường về’ qua giọng ca của ca sỹ Minh Hiếu dưới đây sẽ gợi lại nhiều hoài niệm về dòng nhạc quen thuộc một thời. Đó chính là sáng tác nổi tiếng nhất của nhạc sỹ Thăng Long mà [dongnhacxua.com] muốn giới thiệu hôm nay.
Nhạc sỹ Thăng Long tên thật là Nguyễn Văn Thành. Ông sinh năm 1936 ở Hải Dương. Ông mồ côi mẹ ngay khi vừa chào đời và đến năm 15 tuổi thì ông lại mồ côi cha. Một mình lang bạt giang hồ. Cuộc đời đưa đẩy ông vào Sài Gòn với công việc mưu sinh bằng cây đàn guitar cùng một nghệ sỹ mù. Ông sáng tác ‘Quen nhau trên đường về’ cuối thập niên 1960 trong một lần lang thang ra chợ Bến Thành. Ngày ấy ga xe lửa ở chợ Bến Thành vẫn còn hoạt động (khác với ga Hoà Hưng). Ông tình cờ nhìn thấy một cô gái và một chàng trai (có lẽ là một quân nhân) ở bến ga. Cô gái với mái tóc dài làm nhạc sỹ liên tưởng đến một người con gái miền sông Hương núi Ngự. Rồi ngay lúc đo ông nghe văng vẳng đâu đó tiếng kèn của một đám ma vang lên một giai điệu buồn: tàng tang táng … Thế là cảm xúc và giai điệu ập đến với để ông cho ra đời ‘Quen nhau trên đường về’.
Ảnh bìa nhạc: QuanNhacVang.com
Sau năm 1975, số phận đẩy đưa nhà nhạc sỹ của chúng ta phải cơ cực để mưu sinh kiếm sống. Ông trôi dạt về tận Sóc Trăng và sống một cuộc đời đạm bạc, khó nghèo như trong một đoạn video clip về ông trong Paris By Night 91, thực hiện cuối năm 2007 đầu năm 2008.
Ông mất vào ngày 30/03/2008 tại Sóc Trăng. [dongnhacxua.com] xin mượn bài viết này như một lời tri ân với nhạc sỹ Thăng Long, ‘người nhạc sỹ giang hồ’ đã cống hiến cho đời nhiều giai điệu đẹp. Cầu chúc linh hồn ông mau về chốn vĩnh hằng!
Hôm qua DòngNhạcXưa tình cờ đọc một bài báo đăng trên tờ Lao Động viết về cuộc đời đầy nỗi truân chuyên của cô Cẩm Nhung, kỹ nữ nổi tiếng một thời của Sài Gòn xưa. Phần cuối bài viết, tác giả có nhắc đến bản nhạc ‘Bài hát cho người kỹ nữ’ của nhạc sỹ Nhật Ngân sáng tác chung với Duy Trung là cảm tác từ cảnh đời éo le của Cẩm Nhung. Thực hư chuyện này ra sao chúng tôi không có tư liệu? Rồi nhạc sỹ Duy Trung là ai? Cho đến giờ chúng tôi cũng không có bất kỳ thông tin gì. Nhạc sỹ Nhật Ngân cũng đã an giấc ngàn thu, bà Cẩm Nhung cũng vừa rời chốn gian trần.
Trên tinh thần gợi nhớ lại Sài Gòn hoa lệ một thời, nhắc nhớ đến dòng nhạc của Nhật Ngân và cầu mong linh hồn bà Cẩm Nhung mau siêu thoát, DòngNhạcXưa trân trọng giới thiệu nhạc phẩm ‘Bài hát cho người kỹ nữ’ (còn được biết qua tên khác ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ hay ‘Tình kỹ nữ’).
BÀI BÁO ‘NỬA THẾ KỶ TỪ VỤ ĐÁNH GHEN RÙNG RỢN NHẤT SÀI GÒN’ (Nguồn: LaoDong.com.vn)
Cách đây đúng nửa thế kỷ, vào giữa năm 1963, tại Sài Gòn đã xảy ra một vụ đánh ghen được coi là rùng rợn nhất thành phố này. Đây cũng là lần đầu tiên ”Hoạn Thư” ở Sài Gòn biết sử dụng axít đậm đặc để thanh toán tình địch.
Nạn nhân là cô vũ nữ nổi tiếng nhất Sài Gòn lúc ấy tên là Cẩm Nhung, người được mệnh danh là “nữ hoàng vũ trường”. Người thủ ác là một mệnh phụ phu nhân, vợ của một trung tá Sài Gòn. Vụ tạt axit rùng rợn này đã biến cô vũ nữ giàu có, đẹp lộng lẫy thành cô gái mù lòa xấu xí, phải đi ăn mày. Khi còn là vũ nữ, Cẩm Nhung nổi tiếng nhất Sài Gòn, lúc đi ăn mày cô càng “nổi tiếng” hơn, khi luôn đeo trước ngực bức ảnh mình chụp với người tình trung tá thời trên đỉnh cao danh vọng.
Bà lão mù lòa từng là vũ nữ
Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo. Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa… Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung lừng danh của nửa thế kỷ trước.
Trước ngày miền Nam giải phóng, người ăn mày mù lòa Cẩm Nhung với cây gậy dò đường và tấm ảnh chụp chung với người tình treo trước ngực, lê bước khắp nẻo Sài Gòn để xin lòng thương hại của mọi người. Về sau do bị săn đuổi, bà xuống ăn xin ở bến phà Mỹ Thuận trên đường về miền Tây. Sau ngày miền Nam giải phóng, người ta còn thấy bà ngồi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận một thời gian. Từ khoảng năm 1978, không ai thấy người ăn mày đeo tấm ảnh trước ngực đâu nữa.
Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo. Người ta nhận ra bà bởi khuôn mặt gớm ghiếc và đôi mắt mù lòa, hậu quả của vụ tạt axít năm xưa. Và nay, người ăn mày đặc biệt đã vĩnh viễn từ giả cõi trần, chính thức khép lại một kiếp hồng nhan đa truân, sau đúng nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn năm nào.
Nữ hoàng vũ trường
Vũ nữ Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cô phải rời xa Hà Nội để theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống chưa ổn định, cha của Cẩm Nhung lâm bệnh rồi mất, bỏ lại 3 người phụ nữ: mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng, chuyên bưng bê món ăn cho khách. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.
Cẩm Nhung có khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng đặc thù của con gái xứ Bắc. Tạo hóa ban thêm cho cô đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ. Đặc biệt đôi chân điệu nghệ của cô trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn đã làm bao khách làng chơi phải ngẩn ngơ. Lúc ấy Sài Gòn có hàng trăm vũ trường, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà Cẩm Nhung càng có giá, được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Cô được dân chơi Sài Gòn phong là “Nữ hoàng vũ trường”.
Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, quận 1). Tại đây, cô đã trở thành người tình của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Cô vũ nữ 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường đã bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Sự già dặn, từng trải, tiêu tiền như nước của gã, cùng với cái lon trung tá rất oai thời ấy đã làm cô vũ nữ sành điệu chấp nhận sa vòng tay bảo bọc của ông ta.
Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ, chủ yếu là vũ khí và đô-la để xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh. Đó là cơ hội vàng để “Thức công binh” tham nhũng, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái.
Vợ trung tá Trần Ngọc Thức tên thật là Lâm Thị Nguyệt, có biệt danh là Năm Rađô – một biệt danh giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Rado của Thụy Sỹ mới nhập cảng vào Sài Gòn. Bà Năm Rađô không lạ gì thói trăng hoa của chồng, nhưng lần này biết chồng say mê cô vũ nữ trẻ đẹp quên cả gia đình, bà như phát điên vì ghen. Bà đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà.
Vụ đánh ghen ghê rợn
Theo thú nhận của Cẩm Nhung với báo chí Sài Gòn sau khi xảy ra vụ đánh ghen ghê rợn, khi làm người tình của trung tá Thức, cô nghĩ rằng mình có thể trở thành vợ bé của ông ta, một việc khá bình thường trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô đâu biết rằng, trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn, thì ở khu gia binh Cô Bắc cách đó không xa có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn.
Bà Năm Rađô đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà Năm Rađô tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà, Thức công binh sẽ trở về với vợ con.
Khoảng 22 giờ đêm ngày 17.7.1963, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Hàng ngày cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước, để cô đến vũ trường trước 23 giờ, nhảy nhót quay cuồng cho đến 3 – 4 giờ sáng. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10 mét, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô. Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.
Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến Bệnh viện Đô Thành (Bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do Bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay).
Những người bạn vũ nữ của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy thế lực của “Thức công binh” và bà Năm Rađô rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Bà cố vấn vốn tính bốc đồng đã làm lớn vụ việc, làm cho cả Sài Gòn như sôi lên vì vụ đánh ghen này.
Sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng axít đến nỗi mù lòa, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, ở Sài Gòn bỗng nổi lên phong trào đánh ghen bằng axít. Suốt thời gian dài sau đó, người ta hay dọa những kẻ “giật chồng người khác” câu “muốn 1 ca axít lắm hả?”.
Trên thực tế, sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị nạn, chỉ trong năm 1964 đã có hàng chục ca thanh toán nhau bằng axít được đưa đến các bệnh viện Sài Gòn, hầu hết là do đánh ghen. Dù vậy, các thế hệ sau đều thua cú ra tay dữ dội của bà Năm Rađô. Vụ tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung mở màn cho “phong trào” đánh ghen bằng axít ở Sài Gòn, cũng là vụ đánh ghen tàn bạo nhất được ghi nhận ở đất Sài thành cho đến ngày nay.
Khi vụ tạt axít xảy ra, bà Trần Lệ Xuân đang ở nước ngoài, nhưng cũng biết được vụ việc qua báo chí. Một tuần lễ sau bà về tới Sài Gòn, việc đầu tiên là bà chỉ đạo Nha An ninh phải vào cuộc, xử thật nặng những kẻ gây ra tội ác.
Đích thân Trần Lệ Xuân cũng tới thăm Cẩm Nhung, rồi thu xếp đưa cô đi nước ngoài chữa trị, nhưng tất cả đều vô ích, không gì có thể cứu vớt cuộc đời cô vũ nữ. Cả Sài Gòn hồi hộp theo dõi
Không chỉ ra lệnh bắt xử những kẻ tạt axít, bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động tất cả các vũ trường, vì theo bà đó là nguồn gốc của ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác.
Bà ra lệnh cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải kỷ luật, hạ cấp hoặc loại khỏi quân đội. Sài Gòn vốn sôi động về đêm, những ngày sau đó trở nên đìu hiu khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn.
Các tướng tá Sài Gòn thì khỏi phải nói, chạy lo đủ kiểu để không bị phát hiện là có vợ nhỏ. Sau giờ làm việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ thì sự nghiệp nhà binh coi như đổ sông đổ biển.
Con đường công danh, sự nghiệp của Thức “công binh” cũng bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng, ông bị buộc phải giải ngũ, trở về làm dân. Một phiên tòa xét xử vụ tạt axít đã được gấp rút mở sau đó gần 3 tháng. Bà Năm Ra đô và tên du đãng tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, một tên đồng bọn khác bị phạt 15 năm tù. Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị kháng cáo, thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ với cái chết của 2 anh em nhà họ Ngô, bà Lệ Xuân phải sống lưu vong.
Chính trường Sài Gòn sau cái chết của anh em nhà họ Ngô đã rối ren suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung. Không thấy nền “đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu đưa ra xét xử. Sau đó vợ chồng Thức “công binh” đã chia tay nhau, người chồng về quê sống ẩn dật, còn bà Năm Ra đô thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.
Lại nói về Cẩm Nhung, ca axít đậm đặc đã phá hủy toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay, chỉ có thể cứu được mạng sống của Cẩm Nhung, còn đôi mắt, khuôn mặt thì không thể cứu chữa.
Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật. Sau đó, vợ chồng bà Trần Lệ Xuân đã chỉ đạo cho Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản thu xếp đón Cẩm Nhung qua Nhật Bản chữa trị thương tật.
Một ngày cuối tháng 9.1963, Cẩm Nhung được đưa lên máy bay sang Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bản cũng phải chịu thua, không thể phục hồi dung nhan và đôi mắt cô vũ nữ. Hai tháng sau, Cẩm Nhung trở về nước, lúc Sài Gòn đã đổi chủ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bảo bọc trọn đời” cho Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong ở nước ngoài.
Trả thù đời
Từ đỉnh cao danh vọng bỗng chốc rơi xuống tận cùng địa ngục, Cẩm Nhung trong đau khổ tuyệt vọng, đã lao vào đập phá, uống rượu, hút thuốc… Để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng của bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì. Thế nhưng, với khuôn mặt cháy xám, thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, không có người đàn ông tỉnh táo nào đủ can đảm làm tình nhân của cô.
Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè. Mẹ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964.
Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời, tài sản sau mấy năm kiếm được trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan, giờ cô tha hồ đập phá. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng… Cuối cùng, Cẩm Nhung bán nốt căn nhà với giá gần 200 lượng vàng để có tiền tiêu xài, cô và bà vú Sọ phải thuê nhà ở trọ.
Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần, ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời. Còn lại một mình không nơi nương tựa, không nghề nghiệp, đôi mắt mù lòa, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn biết đi ăn mày.
Ban đầu, Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào dịp tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, tay chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường. Ban đầu người ta kéo tới xem Cẩm Nhung rất đông, cho tiền cô cũng nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập, đập phá.
Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ, càng ít cho tiền. Không thể ngồi xin một chỗ, Cẩm Nhung cầm gậy dò đường đi xin dọc theo đại lộ Lê Lợi, đường Tự Do, những lối đi một thời in dấu chân cô từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực trung tâm Sài Gòn, đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng, trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.
Ngày ấy, khi đã mù lòa, xấu xí, phải ra đường ăn xin kiếm sống, Cẩm Nhung nhờ người quen phóng to tấm ảnh cô chụp với người tình trung tá công binh Trần Ngọc Thức để đeo trước ngực, vừa để thiên hạ xót thương mà bố thí, vừa để “trả thù đời” đối với kẻ đã tệ bạc bỏ mặc cô đau đớn, bệnh tật, nghèo khó mà không một lời hỏi han, thăm viếng. Ban đầu, sau khi Cẩm Nhung mang tấm ảnh mình và tay trung tá rất đẹp đôi trước ngực, mấy ngày sau có người lạ tới năn nỉ cô đừng trương tấm hình ấy ra nữa, bù lại họ cho cô số tiền kha khá.
Cẩm Nhung không chịu, họ cũng giật đại tấm ảnh, xong để lại trong ca ăn xin của cô một số tiền. Không chịu thua, Cẩm Nhung lại nhờ người thân phóng tấm ảnh khác để đeo, và lại bị họ giật. Sau đó, không chỉ bị giật hình ảnh, mà cô còn bị đánh đập gây thương tích, chỉ vì chuyện ôm tấm hình chụp chung với người tình cũ đi ăn xin khắp Sài Gòn.
Không sống được ở Sài Gòn, Cẩm Nhung âm thầm tìm ra bến xe Miền Tây để lên xe đò về bến phà Mỹ Thuận kiếm sống, vẫn với cái cách ngồi bên lề đường ăn xin, ngực treo tấm ảnh năm nào.
Tại đây, cô cũng bị người lạ giật tấm ảnh. Không chỉ vậy, ai đó đã nhân lúc cô đi ăn xin đã lẻn vào chỗ ở trọ, lục tung đồ đạc của cô, lấy đi tất cả hình ảnh cô chụp chung với người tình trung tá công binh. Kể từ đó, Cẩm Nhung không còn ảnh chụp chung với Thức công binh, cô lấy tấm ảnh chân dung của riêng mình treo trước ngực để đi ăn xin, người đi đường cảm thương phận bạc của cô vũ nữ mà bố thí cho ít tiền giúp cô sống qua ngày trong mù lòa, cô độc.
Sau ngày miền Nam giải phóng, Cẩm Nhung tiếp tục ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận. Nhưng sau đó chính quyền cách mạng dẹp nạn ăn xin để ổn định trật tự xã hội, Cẩm Nhung được đưa vào trung tâm nuôi người tàn tật. Không chịu được cuộc sống gò bó trong trung tâm, người phụ nữ mù đã lén bỏ trốn về Sài Gòn tiếp tục ăn xin.
Rồi cô lại bị “thu gom”, rồi lại trốn về tận Hà Tiên. Tại đây, Cẩm Nhung lúc thì đi ăn xin quanh quẩn các ngôi chùa, khi địa phương có chiến dịch “thu gom” người ăn xin, cô xin tá túc nhà chùa để được chén cơm, manh áo, vừa quét dọn sân chùa để khuây khỏa nỗi buồn trong cuộc đời bạc bẽo hơn vôi của cô. Kể từ đó, dù tá túc trong nhà chùa hay ăn xin đó đây, Cẩm Nhung không còn đeo tấm hình “nữ hoàng vũ trường” của mình trước ngực nữa.
Trong những năm tháng Cẩm Nhung sau khi bị nạn lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn, cũng là lúc ở Sài Gòn xuất hiện bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ”. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:
Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi Loài người vô tình giẫm nát thân em Loài người vô tình giày xéo thân em Loài người vô tình giết chết đời em…
Với hầu hết những ai yêu dòng nhạc Trịnh thì không ai mà không biết ‘Một cõi đi về’. Thế nhưng có một chi tiết trong ca từ của bài hát mà DòngNhạcXưa nghĩ là nhiều người sẽ hiểu không đúng. Đó là ‘con tinh yêu thương vô tình chợt gọi’. Rất nhiều ca sỹ khi hát đã sửa thành ‘con tim yêu thương …’ cho dễ hiểu và hợp lý hơn.
Thật ra, theo một bài viết của ca sỹ Thái Hòa, một ca sỹ tài tử đã dày công nghiên cứu nhạc Trịnh thì: (nguồn: Talawas.org)
“Trong tất cả các tập sách đã in bài “Một cõi đi về”, tác giả đều cho in rất rõ chữ “con tinh yêu thương”. Và trong rất nhiều lần họp mặt bạn bè ở Việt Nam và cả ở Paris, Pháp, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đều có hơn một lần giải thích cái hay, cái chất Huế độc đáo trong từ “con tinh” này. Chính Thái Hoà là một người trẻ hát nhạc Trịnh, vào năm 1996 khi về nước lần đầu tiên thăm ông cũng đã được nghe chính Trịnh Công Sơn giảng giải: Các cô gái nhỏ, xinh đẹp và nghịch ngợm ở Huế thường hay bị gia đình, người thân mắng yêu là “đồ yêu tinh”, và cái “con yêu tinh” nhỏ nhắn đó đã đi vào văn học như thế qua dòng nhạc Trịnh trong bài hát “Một cõi đi về” mà ông yêu thích nhất.”
Châu Kỳ || 11/05/2013 | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]
Theo lời kể của bà Kha Thị Đàng, vợ của nhạc sỹ Châu Kỳ thì bản ‘Giọt lệ đài trang’ được nhạc sỹ Châu Kỳ sáng tác năm 1957. Cảm hứng chính để nhà nhạc sỹ tài hoa của chúng ta làm nên một nhạc phẩm bất hủ là một cô tiểu thư ‘cành vàng lá ngọc’ có tên Công Tằng Tôn Nữ Kim Anh – con của một ông quan ở Huế, ngày trước khinh miệt ông là xướng ca vô loài, không để ý tới dù ông rất yêu cô. Chiến tranh loạn lạc, người chồng Pháp của cô bỏ về nước, cô vào Sài Gòn gặp ông tại đường Nguyễn Trãi với bộ dạng đói khát. Ông còn 200 đồng trong túi đã lấy đưa cho cô và về nhà sáng tác ca khúc Giọt lệ đài trang.
Thế nhưng có một huyền thoại nữa cũng gắn với sáng tác này, đó là một cô gái con nhà danh giá tại Nha Trang đã yêu ông. Cô tên Đặng Thị Sum, sau một đêm xem ông hát đã đem lòng yêu ông, nhưng ông không hay biết. Đêm đó cô định khăn gói trốn nhà theo ông, nhưng bị cha mẹ cấm cản và nhốt trong nhà kho. Cô buồn gia đình đã lấy giấm thanh pha với á phiện uống tự tử. Mười năm sau, khi chúng tôi có dịp trở ra Nha Trang, người cha của cô Sum đã dẫn chúng tôi viếng mộ cô. Trong ca khúc Giọt lệ đài trang có câu: “Em nhớ xưa rồi em khóc, tôi thoáng buồn thương giọt lệ đài trang”. Một ca khúc có đến hai cuộc tình, một người đã ra đi và một người sống nghèo khổ. Đối với nhà tôi tất cả đều là những kỷ niệm đau thương, khi viết thành ca khúc đó là nỗi niềm chung của những ai đang yêu hãy biết quý trọng tình yêu.
Cứ mỗi độ Giáng Sinh về, giai điệu quen thuộc của bản ‘Bài thánh ca buồn’ của Nguyễn Vũ lại vang lên qua giọng ca rất có chiều sâu của Elvis Phương. Và cứ mỗi lần nghe ‘Bài thánh ca buồn’ thì chúng tôi lại thắc mắc tại sao ‘bài thánh ca’ mà lại ‘buồn’!? Bởi lẽ, đã là Thánh ca thì không có bài nào buồn cả vì đó là những lời ca đem lại nhiều hồng ân Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại, nhất là những bài Thánh ca mùa Noel. Thế rồi DongNhacXua.com chúng tôi hân hạnh được nghe tâm sự của chính tác giả, nhạc sỹ Nguyễn Vũ, trong một dịp ‘trà dư tửu hậu’ vào mùa Giáng Sinh năm 2004 khi ông trải lòng mình với chuyên mục Văn Nghệ của báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh. Thì ra, ‘bài thánh ca’ mà Nguyễn Vũ nói đến chính là bản ‘Đêm Thánh Vô Cùng’ bất hủ và ‘buồn’ là vì ‘Đêm Thánh Vô Cùng’ gắn với một kỷ niệm buồn và đẹp của tác giả với người bạn gái đầu đời!
Nhạc sỹ Nguyễn Vũ.
ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ NGUYỄN VŨ Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh. Ông sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời niên thiếu ông sống ở Đà Lạt. Chú ruột dạy vĩ cầm và bạn của bố ông cũng là nhạc sĩ, vì thế từ nhỏ Nguyễn Vũ đã hát cho Ban thiếu nhi Đài Phát thanh Đà Lạt. Năm 12 tuổi, cậu bé Khanh nhận được giải nhất đơn ca thiếu nhi của đài là một cây đàn mandolin – như là một định mệnh – cậu bé đã gắn bó với âm nhạc suốt gần nửa thế kỷ và trở thành nhạc sĩ Nguyễn Vũ sau này.
TÂM SỰ CỦA NHẠC SỸ NGUYỄN VŨ VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ‘BÀI THÁNH CA BUỒN’ “Thuở ấy tôi là một cậu bé 14 tuổi, ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con gà (Đà Lạt), sở dĩ tôi “chịu khó” đi lễ bởi vì phát hiện ra một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc xõa vai mềm bềnh bồng trong gió cao nguyên. Ngày lại qua ngày suốt hơn ba tháng trời tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” cô ấy, kẻ trước người sau đi về mỗi bận trên 3 km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi không dám thốt. “Lòng thành” của tôi chỉ được hưởng một “ân huệ” cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi…
Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng sinh, tan lễ ra thì trời đổ mưa, “đối tượng” của tôi nép vội vào mái hiên trú mưa, tôi cũng… trú tạm bên cạnh, hai người chỉ cách nhau độ một gang tay. Hòa lẫn trong tiếng mưa là giai điệu quen thuộc của bản Thánh ca Đêm Thánh vô cùng (Silent night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy: Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời, se chữ đồng, đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ…. Th. đưa tay hứng lấy những giọt nước mưa và khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát Th. sao mà buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy hết… sợ quê, khẽ đưa tay vuốt nhẹ lên… những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo ấm của Th., bất chợt Th. quay sang tôi nhoẻn miệng cười: “Cảm ơn nghen!”. Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ như “một nửa hồn tôi mất”.
Ba ngày sau gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống, thế là hết. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó mỗi khi chợt nghe bài Thánh ca Đêm Thánh vô cùng lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của “người ấy”. Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại Đêm Thánh vô cùng từ chiếc máy đĩa bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi”.
LỜI BÀI HÁT (SÁNG TÁC 1972, HÃNG ĐĨA SƠN CA GHI ÂM LẦN ĐẦU TIÊN) Bài thánh ca đó còn nhớ không em Noel năm nào chúng mình có nhau Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt Áo trắng em bay như cánh thiên thần Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân
Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang Xin cho đôi mình suốt đời có nhau Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa Khẽ hát theo câu đêm thánh vô cùng Ôi giọng hát em mênh mang buồn…
Rồi mùa giá buốt cũng qua mau Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu Rồi một chiều áo trắng thay màu Em qua cầu xác pháo bay sau
Lời nguyện mình Chúa có nghe không Sao bây giờ mình hoài xa vắng Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu
Rồi những đêm thánh đường đón Noel Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi …
Nhạc phẩm ‘Đôi mắt người Sơn Tây’ với giai điệu chậm buồn đầy bi tráng và ca từ đầy chất thơ có lẽ không mấy xa lạ với nhiều người yêu nhạc xưa. Thế nhưng Sơn Tây ở đâu và nguồn cảm hứng nào khiến nhạc sỹ Phạm Đình Chương cho ra đời nhạc phẩm bất hủ này là điều mà có khi chúng ta ít được biết.
Địa danh Sơn Tây ngày nay không còn nữa. Thế nhưng, theo những gì mà wikipedia cung cấp thì có thể tạm hiểu Sơn Tây ngày xưa là một phần của Hà Nội ngày nay.
Sơn Tây là một tỉnh cũ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam.
Sơn Tây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ (năm 1831), dưới thời vua Minh Mạng), gồm phần lớn địa bàn các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, phía bắc tỉnh Phú Thọ, một phần tỉnh Tuyên Quang và thành phố Hà Nội ngày nay. Vốn trước đó là trấn Sơn Tây, tục gọi là trấn Tây hay trấn Đoài (Đoài nghĩa là Tây).
Tỉnh lị: thị xã Sơn Tây. Tỉnh Sơn Tây thường được gọi là xứ Đoài
ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
Nhạc sỹ Phạm Đình Chương (1929-1991) sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống văn nghệ ở Hà Nội. Những năm cuối đệ nhị thế chiến, để tránh khói lửa chiến tranh nhiều học sinh đã theo gia đình rời Hà Nội về sống tại các vùng quê. Quê ngoại Sơn Tây của Phạm Đình Chương với ngọn núi Ba Vì nhìn xuống cánh đồng Bương Cấn, với sông Đáy “chậm nguồn qua Phủ Quốc” đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng chàng thiếu niên Phạm Đình Chương. Để rồi sau đó, trong những năm tháng tha hương ở đất Sài Gòn, trong một niềm thương nhớ vô hạn về một vùng quê thanh bình, về những ngày tháng êm đềm đã qua, nhạc sỹ đã rung cảm trước 2 bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” và “Đôi bờ” của nhà thơ Quang Dũng để cho ra đời một trong những nhạc phẩm đẹp và bi tráng nhất về tình cố hương.
Sinh ra và lớn lên ở một miền biển gần Nha Trang nên chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn với thành phố này. Từ lúc biết nghêu ngao bản ‘Nha Trang Ngày Về’ của nhạc sỹ Phạm Duy, dường như những lần đến và đi Nha Trang mang lại cho chúng tôi nhiều cảm xúc hơn!
Xin hân hạnh chia sẻ với bạn yêu nhạc một bài viết khá hay về ‘Nha Trang Ngày Về’ trên trang iloveNgocLan.com. Nhân đây cũng xin nói thêm một chi tiết thú vị là ca sỹ quá cố Ngọc Lan là một đứa con của thành phố biển Nha Trang.
Phi trường Cam Ranh hiện ra hanh hao trong một màu ánh bạc. Tìm lại biển trời Nha Trang, nước mắt tôi buồn vui chợt trào.
Tôi yêu Nha Trang, luôn tìm về Nha Trang mỗi khi có thể, cũng chỉ vì từ lâu, tôi đã quá mê bài hát “Nha Trang ngày về” của NS Phạm Duy – một câu chuyện tình buồn dang dỡ. Thành phố này tự bao giờ, đã ngấm vào máu thịt tôi như là quê hương ruột thịt. Nơi đó, đã ghi dấu một mối tình tan vỡ. Nơi đó, tôi có người bạn “bản xứ” hồn hậu mến khách. Và cũng từ nơi đó, một tiếng hát thần sầu mà tôi luôn mang theo bên mình trong những chuyến đi xa, đã cất tiếng khóc chào đời. Và tiếng hát ấy khi hát về biển thì đã rất buồn rồi, nhưng mà đến khi nghe cô gửi sầu qua “Nha Trang ngày về” thì thấy càng buồn hơn, như cùng cảm nhận với cô về một cuộc tình bất thành gắn liền vùng biển trời Nha Trang với bao nỗi buồn cô quạnh.
“Nha Trang ngày về. “
Chiều qua phố. Con đường Trần Phú nhộn nhịp mừng rỡ gặp lại dấu chân người quen. Cây thông bên phố năm xưa nay đã già. Đằng xa kia, những tảng đá lớn nhỏ đủ hình hài bình thản nằm trên thảm cỏ mượt mà. Phiến đá có hình mái vòm em tựa vai làm dáng vẫn nằm đây yêu kiều. Lúc sáng, trên chuyến bay, giở đến tập ảnh mới thấy đã có nhiều nơi mình đến, mình đi, nhưng sao ảnh của tụi mình chụp chung ít quá, chỉ đếm trên đầu ngón tay thôi. Mà tấm nào cũng tối tăm như đất. Thế mới lạ chứ. Quán café GMC tiếng nhạc xập xình nhộn nhịp bao nam thanh nữ tú. Phía trước là Hòn Chồng bạc màu nằm chơ vơ giữa thâm sâu bí hiểm. Nhà Thờ Núi vẫn nằm uy nghi giữa lòng phố. Phía bên kia, quán hải sản bình dân đường Ngô Sỹ Liên nườm nượp khách với món gỏi cá mai chấm mắm nêm ngon đến nỗi ăn trừ cơm cũng được nữa là. Góc vỉa hè ngã tư Quang Trung là quán nem nướng thơm phức mà ai đã lỡ ghé một lần rồi thì sẽ ôm mối tương tư. Quán bún sứa Nguyên Chí Thanh nước ngọt sắc mà chổ ngồi chật chội, vừa hít hà vừa phải luôn tay thấm mồ hôi mẹ mồ hồi con nhễ nhại… Còn biết bao con đường nữa, biết bao con đường làm tôi nhớ đến em. Những con đường mình nắm tay một lần cùng nhau rong ruỗi. “Mình tôi trên bãi kuya”
Biển đêm. Đen. Lạnh. Xa khơi là những chùm ánh sáng đèn màu lung linh của Hòn Ngọc Việt tráng lệ. Một vài vì sao lẻ loi đơn độc lơ lững trên bầu trời. Vẫn duy trì một thói quen riêng tư, tôi miệt mài đi trong biển đêm Nha Trang với chiếc Ipod trong tay, lòng bồi hồi chìm đắm trong bản nhạc phối nhanh dồn dập mở đầu bằng câu hát “Nha Trang ngày về. Mình tôi trên bãi khuya…” Tiếng hát chất chứa buồn của Ngọc Lan khiến tôi bất giác nhăn mặt đau đớn vì cả một trời tiếc nhớ hiện về đổ sụp trong tôi. Lần đó, cũng nơi đây, tôi đã kể em nghe về người ca sĩ có tên Ngọc Lan với hình ảnh bất hủ – cầm trên tay chiếc đèn dầu le lói chân bước mông lung “trên bãi đêm khóc người tình”. Và từ sau đêm đó, “Nha Trang ngày về” của Ngọc Lan đã trở thành nhạc chuông điện thoại của riêng hai tụi mình.
Đêm lặng. Đêm qua nhanh như gió lùa qua kẽ tay. Bản nhạc đã nghe đi nghe lại đến không biết bao lần. Nhạc thì buồn. Còn tôi thì cô đơn. Cảm giác như cái gì đó vừa rơi trong bóng tối trái tim tôi. Một tiếng vỡ như thủy tinh. Tôi nghe đau trong tim mình. Đã lâu rồi, tôi không đau như thế này. Cái đau dịu ngọt… . Tôi mãi miết đi trong biển đêm dưới ánh trăng võ vàng, nhặt tìm những mảnh kí ức chắp nối. Tiếng mời chào ân cần của chị bán hàng rong. Tiếng rì rầm của những đôi tình nhân ngồi tâm sự trên bãi khuya. Giờ đây chỉ còn mình tôi tìm về chốn xưa để “xây lại mộng mơ năm nào”
Đừng mộng mơ nữa, tôi ơi! Cũng năm xưa nơi biển này, tôi đã nguyện cùng em tìm về đây xây tổ ấm mai sau. Cật lực làm việc và dành dụm. Một bức tranh tình yêu được phát hoạ với đầy đủ cung bậc sắc màu của bình yên, hạnh phúc và cả chênh vênh… Nào ngờ bức tranh “lầu vàng” ấy giờ đã thành “bãi hoang”… Em hỏi tôi “vì sao lại chọn nơi đây sinh sống, thành phố mình cũng có biển đẹp ngút ngàn đấy thôi?” Tôi cười thầm giữ bí mật đó cho riêng mình “tại vì biển quê mình tuy đẹp thật, nhưng lại không có nổi một bài hát nào hay và một chuyện tình nào buồn đến như vậy” .
Giờ mình đã xa nhau. Trong tôi là vực thẳm toang hoác. Tôi đã cố sống sót. Đã cố chấp nhận “Ân tình trong lúc đôi mươi. Bao giờ cũng vẫn mau phai” dù trái tim chật chội đau đớn, dù đã “cố nuôi tình tôi” bằng trái tim em lạnh lẽo. Trái tim của tuổi đôi mươi…
Bài hát lặp lại lần nữa, như một lời kinh đêm. Kinh nguyện cầu, cho tâm hồn được bình yên, cho tình yêu đã bị sóng vùi chôn theo dấu dã tràng. Ngày mai, xa Nha Trang rồi. Biết có còn gặp lại. Những kỷ niệm ghi dấu, những mộng mơ năm nào đã khắc chạm trong tâm khảm rồi cũng đành xếp lại trả về ngăn kéo của quá khứ thôi.
Nhưng trời biển ơi! Sầu này, liệu dã tràng có lấp nỗi không?