Thơ Tình Cuối Mùa Thu (Phan Huỳnh Điểu – Xuân Quỳnh)

Mối lương duyên giữa thơ và nhạc đã cho ra đời nhiều nhạc phẩm bất hủ và ‘Thơ tình cuối mùa thu’ là một trong số đó. Trên ý thơ của nữ sỹ Xuân Quỳnh, nhạc sỹ Phan Huỳnh đã thổi một giai điệu rất đẹp để cho chúng ta một nhạc phẩm tuyệt vời về mùa thu.

BÀI THƠ ‘THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU’ CỦA XUÂN QUỲNH
(Nguồn: www.thivien.net/)

Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay

Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ

Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
– Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may

Nguồn: Tự hát, Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1984

THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU 
(Nguồn: bài viết của tác giả Lê Đức Dương đăng trên BaoKhanhHoa.com.vn)

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu nhiều lần nói với công chúng yêu nhạc rằng: “Trong các nhà thơ, tôi thích nhất Xuân Quỳnh, bởi thơ của Quỳnh giản dị, dễ hiểu mà sâu lắng. Đó là lời của người phụ nữ có tình yêu da diết với người mình yêu, vì thế tôi thật may mắn làm cái việc của người viết nhạc, phổ thơ và nâng thêm cho bài thơ bay lên bầu trời… mùa thu”.

Cũng thật hiếm khi Thơ tình cuối mùa thu như chiếc lá vàng long lanh trên vòm cây của vườn thu mà ta có thể mở cả hai cánh cổng để chiêm ngưỡng: nhạc và thơ.

Nữ sỹ Xuân Quỳnh. Ảnh: BaoKhanhHoa.com.vn
Nữ sỹ Xuân Quỳnh. Ảnh: BaoKhanhHoa.com.vn

Xuân Quỳnh (sinh năm 1942) được mọi người gọi là nữ sĩ để tiếp nối cùng với Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Nữ thi sĩ mất năm 1988 trong một tai nạn thảm khốc nơi chân cầu Phú Lương (tỉnh Hải Dương) cùng với chồng – nhà thơ, nhà viết kịch lừng danh Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ.

Trong nhiều bản in không thấy Xuân Quỳnh ghi thời gian sáng tác bài Thơ tình cuối mùa thu cũng như Thuyền và biển, nhưng chắc chắn đó là giai đoạn cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX. Những ai đọc và biết về Xuân Quỳnh sẽ hiểu gần như các bài thơ giai đoạn này Xuân Quỳnh đều dành tặng cho người chồng tài hoa Lưu Quang Vũ. Khác hẳn giai đoạn trước, những bài thơ chị viết đều mang nét khái quát về chiến tranh, cuộc sống con người như các tập: Tơ tằm, Hoa dọc chiến hào, Lời ru trên mặt đất… Khi kết duyên với Lưu Quang Vũ, chị đổi phong cách và chủ đề với những tập thơ rất đằm thắm của người phụ nữ, người vợ, người mẹ với chồng con: Sân ga chiều em đi, Tự hát, Hoa cỏ may…

Có thể nói, Xuân Quỳnh đã dìu dắt tuổi thơ tôi lớn lên qua những tác phẩm thơ, tập truyện dành cho thiếu nhi  như: Bầu trời trong quả trứng, Mùa xuân trên cánh đồng, Bến tàu trong thành phố… với những nhân vật sẻ đồng, sếu, họa mi hay hoa huệ, dâm bụt, dạ lý hương… Sau này, tôi biết những sáng tác của Xuân Quỳnh đều bắt đầu từ những điều rất giản dị, như trong lúc bế con, nấu cơm… Nhớ đến các con là chị suy nghĩ và viết để tặng cho con. Nhìn vẻ bề ngoài, Xuân Quỳnh là người phụ nữ đẹp, mau mắn với đôi mắt tươi tắn, đầy duyên sắc nhưng tâm hồn chị lại rất đa cảm. Thế nên, chỉ cần phơi một tấm áo cho con, cho chồng dưới làn nắng thu, trong gió heo may cũng làm chị xao lòng và làm thơ, viết truyện.

Trở lại với bài thơ được phổ nhạc Thơ tình cuối mùa thu, đúng như nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã nói, Xuân Quỳnh không bóng gió, cao siêu gì cả, nội dung thật dễ hiểu: Đó là tâm trạng của đôi bạn tình mà ở đây là Quỳnh – Vũ trước cuộc đời, đó là “cuối mùa thu” thật xao xác, thật cảm động nhưng cũng thật long lanh yêu thương vì Chỉ còn anh và em/Cùng tình yêu ở lại. Thực ra, trong nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh, bài thơ này không nổi trội vì nó rất “cá nhân”, đó cũng là lý do nhiều nhà phê bình văn học ít trích dẫn so với những bài khác như Chồi biếc, Sóng, Bàn tay em, Tự hát… Vì dường như là linh cảm vô hình những năm cuối đời, Xuân Quỳnh dành hết những sáng tác của mình cho chồng và con, có những bài như đùa mà rớm nước mắt, có những bài đằm thắm, thủ thỉ yêu thương. Cũng như thế, Lưu Quang Vũ đã dốc sức viết tới hơn 40 vở kịch.

Ta có thể cảm tưởng rằng Thơ tình cuối mùa thu được người phụ nữ viết trong buổi chiều, trước thềm nhà đang tràn ngập gió heo may, bầu trời cuồn cuộn mây trắng. Người phụ nữ cảm nhận được thời gian cuộc đời đang trôi đi, trôi đi hơi xao buồn. Nhưng kết của bài thơ lại làm cho người đọc bừng tỉnh: Kìa bao người yêu mới/Đi qua cùng heo may. Chắc chắn viết tới dòng chữ này, Xuân Quỳnh đã rớm nước mắt long lanh của hạnh phúc tiếp nối.

Cũng như bài thơ, bản nhạc được phổ trong thời điểm của những khúc tráng ca nên bài hát Thơ tình cuối mùa thu không được phổ cập lắm. Chính người viết khi có mặt ở TP. Hồ Chí Minh năm 1987 cũng run lên sung sướng khi mua được tập sách nhạc có bài hát Thơ tình cuối mùa thu trên nền giấy trắng tinh, nhưng thỉnh thoảng lắm Đài Tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh mới phát bài hát này, còn các đài khác thì gần như không. Trong khi đó, bài Thuyền và biển lại được trình diễn rộng khắp, trở thành bài hát ưa thích cho các thí sinh thi thố. Chỉ đến khi ca sĩ Bảo Yến hát thì Thơ tình cuối mùa thu thực sự bùng nổ, trở thành một trong những bài hát hay nhất về mùa thu. Cùng với Bảo Yến, ca sĩ Quang Lý cũng thể hiện rất ấn tượng ca khúc này, sau này còn có giọng ca trẻ mang màu sắc dân ca như: Phương Thảo, Tân Nhàn, Minh Huyền nhưng nổi trội ngang tầm với Bảo Yến chỉ có Phương Thảo.

Bây giờ, cứ đến cuối thu, trời hanh hao se lạnh, ta lại nghe Thơ tình cuối mùa thu để thấy ấm lòng. Nữ sĩ Xuân Quỳnh đã Mùa thu ra biển cả/Theo dòng nước mênh mang/Mùa thu vào hoa cúc, nhưng với Thơ tình cuối mùa thu thì vẫn còn mãi mãi, vì đó là tình yêu.

LÊ ĐỨC DƯƠNG

[footer]

Ngàn Thu Áo Tím (Hoàng Trọng – Vĩnh Phúc)

Nối tiếp dòng nhạc về mùa thu, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Ngàn thu áo tím” của nhạc sỹ Hoàng Trọng với phần đặt lời của nhà thơ nữ Vĩnh Phúc.

Ngàn thu áo tím (Hoàng Trọng - Vĩnh Phúc). Ảnh: YouTube.com
Ngàn thu áo tím (Hoàng Trọng – Vĩnh Phúc). Ảnh: YouTube.com

ngan-thu-ao-tim--1--hoang-trong--vinh-phuc--youtube.com--dongnhacxua.com ngan-thu-ao-tim--2--hoang-trong--vinh-phuc--youtube.com--dongnhacxua.com

VĨNH PHÚC & NGÀN THU ÁO TÍM 
(Nguồn: bài viết của tác giả Trần Can đăng trên DotChuoiNon.com ngày 04.11.2012)

ngan-thu-ao-tim--dotchuoinon.com--dongnhacxua.com

“Ngàn thu áo tím” là một ca khúc rất nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, ít người để ý rằng lời bài hát rất hay này là của Vĩnh Phúc.

Không có thông tin về Vĩnh Phúc và nhạc sĩ Hoàng Trọng đã sáng tác bài hát trong hoàn cảnh nào, nếu nhạc sĩ phổ thơ thì nghiễm nhiên Vĩnh Phúc phải được xem như nhà thơ, khả năng này cao hơn vì ít ai làm nhạc rồi mới tìm cách…đặt lời (mặc dù cũng có).

Mình tìm khắp nơi có vài thông tin tạm đủ để mình cho rằng Vĩnh Phúc thuở ấy là một cô gái, họ tên đầy đủ là Lưu thị Vĩnh Phúc, sinh năm 1937, con của Mục sư Lưu văn Mão, vốn là người rất nổi tiếng về tài làm thơ. Ông từng xuất bản tập thơ “Nam sơn thi phẩm” năm 1971.

Sinh thời, nhạc sĩ Hoàng Trọng và Mục sư Lưu văn Mão như đôi bạn tri kỷ, vẫn thường đàm đạo chuyện đời.

Nữa, anh trai của Vĩnh Phúc là Mục sư Lưu văn Tường (Tường Lưu) cũng rất có tài làm thơ, sống trong một gia đình có truyền thống hay chữ như thế thì Vĩnh Phúc có làm thơ hay viết lời nhạc cho nhạc sĩ Hoàng Trọng cũng là chuyện rất bình thường.

Tường Lưu thi sĩ trước đó còn có làm thơ tình nữa (tập thơ “Mộng ban đầu”), thi sĩ cũng là một dịch giả uy tín với tập “Tìm lại hương xưa”, dịch 148 bài cổ thi của các thi nhân danh tiếng Trung Hoa xưa. Và, Tường Lưu cũng rất thông thạo ngoại ngữ Anh và Pháp.

Mình mạn phép trích vài đoạn thơ của Mục sư thi sĩ Tường Lưu cho các bạn thưởng lãm:

Nếu Chúa hỏi: Tiệm ăn nào…ăn được?/ Con xin thưa, con biết mấy tiệm quen/ Thức ăn ngon đặc biệt, lại vừa tiền/ Tuy đông khách không phải lâu …chờ đợi/ Nếu Chúa hỏi: Đi chợ nào…có lợi?/ Con xin thưa, con biết mấy chợ gần/ Thịt cá tươi, rau trái mới, đủ hàng/ Mua ở đó rẻ hơn nhiều chợ khác/ …Nếu Chúa hỏi: Đi nhà thờ nào… phước?/ Con xin thưa, con không biết, Chúa ơi/ Con đã đi ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín…nơi rồi/ Con không biết đi nhà thờ nào phước/ Nếu Chúa hỏi: Tại sao không thấy phước? Con xin thưa, tại con hết… mà thôi/ Đi nhà thờ con cứ chỉ nhìn người/ Không nhìn Chúa nên con không thấy phước!

Nhạc sỹ Hoàng Trọng. Ảnh: DotChuoiNon.com
Nhạc sỹ Hoàng Trọng. Ảnh: DotChuoiNon.com

Nhạc sĩ Hoàng Trọng mất vợ sớm, ông ở vậy nuôi con khá lâu trước khi kết duyên với bà vợ thứ hai. Sau này, Bạch La, con gái ông thú nhận đã quyết liệt ngăn cản không cho cha “đi bước nữa”, khiến ông trở nên cô độc và gần như khắc khổ suốt thời…trung niên, mãi đến lúc tuổi già, một mình đơn độc ở quê nhà ông mới tái hôn.

Cô Thu Tâm (vợ sau của Nhạc sĩ Hoàng Trọng) cũng nhắc đến Vĩnh Phúc, cô kể: ” Hoàng Trọng thường hay đến nhà Mục Sư Lưu Văn Mão (thân phụ chị Vĩnh Phúc) để hàn huyên, tâm sự và rất khâm phục đức tính vị mục sư nầy.”

Trong khoảng 200 nhạc phẩm của Hoàng Trọng, ông chỉ tự đặt lời khoảng 40 bài. Số còn lại được sự giúp đỡ của nhiều nhạc sĩ khác như Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Quách Đàm, Vĩnh Phúc… Trong giới nhạc sĩ Việt Nam, Hoàng Trọng viết tango rất nhiều và được xem như người thành công nhất với danh hiệu Vua Tango.

Ông Vua Tango của Việt Nam có một bài hát điệu Valse cũng thuộc loại kinh điển trong dòng nhạc Việt, đó chính là bài “Ngàn thu áo tím” do Vĩnh Phúc viết lời.

Vĩnh Phúc không viết nhiều, cô chỉ viết lời cho ba nhạc phẩm của Hoàng Trọng là “Cánh hoa yêu”, “Tìm một ánh sao” và “Ngàn thu áo tím”.

Vài thông tin về một người tài hoa vô danh, cũng có thể thông tin mình tìm được chưa chính xác. Nếu sai, xin các bạn lượng thứ.

[footer]

Nhớ lại buổi đầu đi học

Hôm nay, ngày 05.09, hàng triệu học sinh cả nước lại chính thức bước vào một niên khóa mới. Nhìn các em nô nức trong ngày khai giản mà [dongnhacxua.com] không khỏi bùi ngùi nhớ lại những giây phút lần đầu tiên cắp sách đến trường hơn mấy mươi năm về trước. Chúng tôi chúc tất cả các cháu có nhiều sức khỏe và có được niềm vui mỗi ngày đến trường.

Tháng năm học trò (Nguyễn Đức Trung). Ảnh: TainhacCho.vn
Tháng năm học trò (Nguyễn Đức Trung). Ảnh: TainhacCho.vn

TÔI ĐI HỌC
(Nguồn: đoản văn của nhà văn Thanh Tịnh)

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.

Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.

Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.

Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:

– Mẹ đưa bút thước cho con cầm.

Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:

– Thôi để mẹ nắm cũng được.

Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.

Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.

Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.

Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.

Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.

Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.

Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.

Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:

– Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).

Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.

Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:

– Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.

Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.

Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.

– Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.

Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.

Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.

Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.

Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:

Bài tập viết: Tôi đi học!

[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.]

[footer]

Đoàn Chuẩn – Lần Chuyển Bến Cuối Cùng

Tiếp nối dòng nhạc về mùa thu, sẽ là rất thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến nhạc sỹ Đoàn Chuẩn, người được xưng tụng là ‘nhạc sỹ của mùa thu’. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin mạn phép giới thiệu bài viết của nhà báo – nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha để giới yêu nhạc có thêm thông tin về Đoàn Chuẩn.

Lá đổ muôn chiều (Đoàn Chuẩn - Từ Linh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Lá đổ muôn chiều (Đoàn Chuẩn – Từ Linh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

la-do-muon-chieu--1--doan-chuan--tu-linh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com la-do-muon-chieu--2--doan-chuan--tu-linh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com la-do-muon-chieu--3--doan-chuan--tu-linh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐOÀN CHUẨN – LẦN CHUYỂN BẾN CUỐI CÙNG 
(Nguồn: bài viết của nhà báo – nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha đăng trên DacTrung.net)

Nhạc sỹ Đoàn Chuẩn. Ảnh: AmNhac.fm
Nhạc sỹ Đoàn Chuẩn. Ảnh: AmNhac.fm

Nhìn ông nhỏ thó nằm trên chiếc giường có cảm giác như trên một con thuyền bồng bềnh trôi trên sóng nhạc của chính ông để lướt tới lần chuyển bến cuối cùng một đời người, một “tình nghệ sĩ” qua bao thăng trầm, buồn vui trên dương thế.

Không ít người nhầm tưởng những tình khúc mùa thu của Đoàn Chuẩn là “nhạc tiền chiến”. Nhưng thực sự đó là những tình khúc thời kháng chiến …
Hay nói cặn kẽ hơn, đó là những tình khúc kháng chiến nối mạch với nhạc tiền chiến.
Đoàn Chuẩn liền mạch về suy tưởng với nhạc tiền chiến nhưng lối đi giai điệu khác hơn, nhạc hơn, đỡ “hát thơ” hơn nhạc tiền chiến khá nhiều.
Lợi thế làm ra sự độc đáo ở giai điệu Đoàn Chuẩn là vì ông chính hiệu một nghệ sĩ biểu diễn guitar Hawaii “xịn”.

Chiếc đàn guitar Hawaii (thời ấy thường gọi là đàn Hạ – Uy – Di) với lối trình tấu vuốt, lướt thả sức trên những cung quãng rộng chính là một cánh cửa ân ái mở vào thế giới nhạc blue.

Nhiều ca sĩ hát nhạc jazz hiện nay chọn hát Đoàn Chuẩn không phải là vô căn cứ.

Đóng góp của Đoàn Chuẩn thật khiêm nhường nhưng vừa mộng mị, vừa chân thành. Vừa thân thuộc vừa lạ lẫm. Có lẽ nhờ cái riêng đó, cùng tính khiêm nhường, Đoàn Chuẩn có nhiều tri kỷ.

Ông nằm đấy mà khơi dậy bao kỷ niệm chia sẻ với Văn Cao. Khi thì là những chén “cuốc lủi” suông ở nhà Văn Cao 108 Yết Kiêu. Khi thì cùng đôi lát bít-tết nóng hôi hổi với vài mẩu bánh mì do bà Đoàn Chuẩn “sắp bữa” ở nhà ông số 9 Cao Bá Quát…

Đoàn Chuẩn rất giống Tô Hoài ở cái “đức” uống rượu. Chỉ ngửa cổ làm một hơi, một chai như không. Làm một hơi rượu “cuốc lủi” và hút thuốc lá Thăng Long không đầu lọc là cá tính riêng của Đoàn Chuẩn khi cơ hàn cũng như lúc xênh xang đều như vậy.

Ông nằm đấy mà chiều đầu đông ngoài kia “sao dâng nhanh màu tím”. Và mây nữa, cũng đang “bay theo nhau về bến”. Tay sào đã cắm tự cuối thu rồi !

Hình như thấp thoáng ở bờ bên kia, Văn Cao và Trịnh Công Sơn đang ngồi đối tửu chờ ông. Còn ở bờ bên này chiều nay, biết bao “cố nhân xa rồi” đang hát trong nước mắt những giai điệu của ông. Biết bao những Thanh Hằng, Khánh Ly, Cẩm Vân, ánh Tuyết… đang chín vàng trong thương tiếc khôn nguôi ngổn ngang những phương trời cách biệt.

Ông vẫn bồng bềnh “tìm hướng cho lòng tìm bến mơ”. Hình như có tiếng hát Lê Dung vọng từ bờ bên kia đẩy đưa lần “chuyển bến” cuối cùng này tới đích nhanh hơn. Và đầu đông đã se lạnh. Và “lá úa phải chăng là nước mắt người đi”?

Xin vĩnh biệt ông – người đồng hương Hải Phòng yêu mến !

Nguyễn Thụy Kha

[footer]

Áo lụa Hà Đông (Ngô Thụy Miên – Nguyên Sa)

Sài Gòn đúng là chỉ có hai mùa mưa – nắng. Thế nhưng với những tâm hồn lãng mạn, Sài Gòn vẫn có mùa thu, dù không có lá vàng rơi, không có những làn gió mát lạnh làm xao động mặt hồ. Thu Sài Gòn có thể chỉ là một cơn gió heo mây hay là một buổi sớm mai trời còn hơi sương và cũng có thể là một tà áo dài thướt tra trong một chiều lộng gió. Trong niềm cảm ấy, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Áo lụa Hà Đông” của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên, lấy ý thơ từ bài thơ của thi sỹ Nguyên Sa.

Áo lụa Hà Đông (Ngô Thụy Miên - Nguyên Sa). Ảnh: vietstamp.net
Áo lụa Hà Đông (Ngô Thụy Miên – Nguyên Sa). Ảnh: vietstamp.net

ao-lua-ha-dong--1--ngo-thuy-mien--nguyen-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com ao-lua-ha-dong--2--ngo-thuy-mien--nguyen-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com ao-lua-ha-dong--3--ngo-thuy-mien--nguyen-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com

SỰ TÍCH ‘ÁO LỤA HÀ ĐÔNG’  (Nguồn: bài viết đăng trên vtv.vn ngày 10.11.2013)

Những giai điệu trữ tình, mượt mà của ca khúc Áo lụa Hà Đông làm lay động tâm hồn của người yêu nhạc bao thập kỉ nay nhưng ít ai biết về hoàn cảnh ra đời khá độc đáo của nó.

Ảnh: vtv.vn
Ảnh: vtv.vn

Chuyện kể rằng, vào năm 1930, xứ Bắc kỳ tổ chức cuộc thi hoa hậu ở Hà Nội mà không giới hạn đối tượng tham dự, chỉ có duy nhất một điều kiện khi đi thi phải mặc áo lụa Hà Đông. Điều bất ngờ của cuộc thi, người đăng quang là Lý Lệ Hằng- một cô thôn nữ xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở Thái Bình, vì mưu sinh phải trôi nổi lên Hà Nội kiếm sống và làm nghề hát cho các quán rượu. Sau khi đổi đời, cô trở nên nổi tiếng và là niềm ước mơ của bao chàng công tử nhà giàu. Tuy nhiên người đẹp chân lấm, tay bùn Lý Lệ Hằng đã nhanh chóng lọt vào mắt xanh của quốc vương Bảo Đại và trở thành người tình của ông. Vậy, câu chuyện này có liên quan gì đến ca khúc Áo lụa Hà Đông?

Ảnh: thethao60s.com
Ảnh: thethao60s.com

Như bao chàng trai si mê cái đẹp, dù đã hơn 20 năm sau khi Lý Lệ Hằng đoạt vương miện hoa hậu, nhà thơ Nguyên Sa vẫn mơ tưởng đến nụ cười, ánh mắt khuynh đảo của nàng. Ông đã viết bài thơ Áo lụa Hà Đông trong đó có bóng dáng yêu kiều của người đẹp mặc áo lụa. Đến năm 1969, câu chuyện về hoa hậu thuần nông phút chốc trở thành người yêu của ông vua cuối cùng Việt Nam, đã khiến Ngô Thụy Miên động lòng trắc ẩn viết nên ca khúc nổi tiếng Áo lụa Hà Đông khi mới 21 tuổi.

Trên thực tế, thi ca luôn được coi là mũi nhọn và mở đường cho những thử nghiệm nghệ thuật mới mẻ. Thi ca chính là điểm gặp gỡ, tạo thi hứng mạnh mẽ nhất cho âm nhạc phát khởi. Và từ những vần thơ tình nổi tiếng của cố thi sĩ Nguyên Sa, nhạc sỹ Ngô Thụy Miên đã biến nó trở thành những giai điệu tình ca bất hủ, sống mãi cùng năm tháng. Thơ và nhạc đã cùng hòa quyện, thăng hoa để làm đắm say bao thế hệ yêu nghệ thuật.

Nhạc sỹ Ngô Thụy Miên. Ảnh: vtv.vn
Nhạc sỹ Ngô Thụy Miên. Ảnh: vtv.vn

Nói về cái duyên của sự gặp gỡ này, Ngô Thụy Miên đã chia sẻ với báo chí là giữa ông và thi sĩ không có liên hệ gì ngoài sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Ông đến với thơ Nguyên Sa không từ một chọn lựa, mà vì ông đã nhìn thấy mình trong thơ Nguyên Sa, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ qua những lời thơ ngọt ngào, tình tứ, tươi mát.

Bởi thế, khi gieo nhạc bài thơ này, Ngô Thụy Miên đã biến nó trở thành một giai điệu bất hủ, sống mãi cùng thời gian: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng… … Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh…”

Hình ảnh thiếu nữ mặc áo lụa Hà Đông quá ư dịu dàng, như đem đến cả một trời thu Hà Nội làm xua đi cái nắng của phương Nam. Người thiếu nữ ấy đã gieo một nỗi buồn da diết: “Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại…”

Áo lụa Hà Đông từng được sử dụng trong chương trình Duyên dáng Việt Nam. Bài hát cũng được nhiều ca sĩ nổi tiếng trình diễn thành công, nằm trong danh sách những bài hát được cho là thành công nhất của Thái Thanh, Tuấn Ngọc, Duy Trác… Cũng vì sức lan tỏa của ca khúc này mà ít ai không biết tới làng lụa Vạn Phúc- Hà Đông !

[footer]

Thú chơi tờ nhạc (Lê Văn Nghĩa)

Với tiêu chí bảo tồn nhạc xưa, hầu hết các bài viết trên [dongnhacxua.com] đều đăng lại các tờ nhạc gốc phát hành trước 1975 nếu chúng tôi có thể sư tầm được. Để người yêu nhạc gần xa mà nhất là thế hệ trẻ có thể hình dung phần nào về một nét văn hóa thời xa xưa, chúng tôi mạn phép đăng lại bài viết của nhà báo Lê Văn Nghĩa có tựa “Thú chơi tờ nhạc”.

ai-chi-lang--outside--luu-huu-phuoc--mai-van-bo--nguyen-thanh-nguyen

ai-chi-lang--inside--luu-huu-phuoc--mai-van-bo--nguyen-thanh-nguyen
Ải Chi Lăng (Lưu Hữu Phước – Mai Văn Bộ – Nguyễn Thanh Nguyên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

THÚ CHƠI TỜ NHẠC
(Nguồn: bài viết của nhà báo Lê Văn Nghĩa đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần ra ngày 23.08.2015)

Trước đây, trong bài báo “Sài Gòn qua dòng sông tuổi thơ” (TTCT, số ra ngày 3-5-2015) tôi có viết một đoạn sau đây: “Ấy là chưa kể đến Trung tâm phát hành nhạc Diên Hồng. Nơi đây đã cho ra đời những tờ nhạc lá gấp bốn trang khổ A4”. Nhiều bạn, đa số là trẻ, đã viết thư hỏi tôi “tờ nhạc” là gì mà họ chưa thấy và cũng chưa được nghe nói đến. Những thắc mắc của các bạn làm tôi thấy cần phải viết thêm về sản phẩm âm nhạc độc đáo này. 

Sài Gòn qua dòng sông tuổi thơ (Lê Văn Nghĩa)
Sài Gòn qua dòng sông tuổi thơ (Lê Văn Nghĩa)

1 Thật ra không biết dùng từ gì cho chính xác để nói về sản phẩm âm nhạc hết sức đặc biệt này. Nhạc tờ, nhạc lá, bản nhạc hay tờ nhạc đều được dùng để nói về một tờ giấy khổ lớn gấp lại thành tương đương khổ A4, có bốn trang. Trang đầu là bức tranh, in tựa đề và vài dòng nói về nội dung bài hát. Hai trang giữa là bản nhạc, ký âm với những chỉ dẫn về nhịp điệu, cung.

Thậm chí sau này, trên mỗi khuông nhạc lại được các nhạc sĩ ghi cả từng hợp âm để dễ dàng cho người đệm đàn ghita hoặc piano… Bìa bốn thường để giới thiệu danh mục những tờ nhạc đã được xuất bản, thậm chí đôi khi quảng cáo những lò dạy nhạc hoặc giới thiệu về nhạc sĩ sáng tác bản nhạc mà người mua đang cầm trên tay.

Ai Chi Lng
Ải Chi Lăng (Lưu Hữu Phước – Mai Văn Bộ – Nguyễn Thanh Nguyên). Ảnh: TuoiTre.vn

2 Theo như tài liệu mà tôi có, “cha đẻ” loại tờ nhạc này chính là ông Tăng Duyệt – giám đốc NXB Tinh Hoa. Ông sinh năm 1915, sống tại Huế, cha người Quảng Đông, mẹ người Việt. Là người mê sách, thấy có nhiều người cần đọc sách tại Huế lúc ấy nên ông mở hiệu sách Tân Hoa ở đường Gia Long, sau chuyển lên 121 Trần Hưng Đạo. Sau đó ông mở nhà in Tân Hoa rồi NXB Tinh Hoa chuyên xuất bản tác phẩm âm nhạc.

Sau lưng bìa 4 tờ nhạc có in rõ tôn chỉ của NXB Tinh Hoa như sau: “Để biểu dương một nguồn âm nhạc VN mới trên nền tảng văn hóa và nghệ thuật, NXB Tinh Hoa đã và sẽ lần lượt trình bày những nhạc phẩm chọn lọc giá trị nhất của các nhạc sĩ chân chính với một công trình ấn loát mỹ thuật để hiến các bạn yêu âm nhạc góp thành một tập nhạc quý”.

Có lẽ ông Tăng Duyệt, với cặp mắt kinh doanh và tâm hồn yêu văn nghệ, đã áp dụng sáng kiến của báo Ngày Nay trong việc dùng phương tiện ấn loát trên giấy để phổ biến nền nhạc mới. Vì từ tháng 9-1938, báo Ngày Nay đã đăng những bài tân nhạc đầu tiên như Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên; Bình minh, Ðàn xuân của Nguyễn Xuân Khoát; Khúc yêu đương của Thẩm Oánh; Bản đàn xuân của Lê Thương; Ðám mây rừng của Phạm Ðăng Hinh; Ðường trường của Trần Quang Ngọc. Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản Con thuyền không bến của Ðặng Thế Phong.

NXB Tinh Hoa có thể đã được sáng lập năm 1943 nhưng không nói rõ bản nhạc đầu tiên được phát hành là của ai, mang tên gì. Theo sự tìm hiểu của tôi thì đứng đầu mục lục xuất bản từ năm 1945 là bài Đêm đông của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và trong năm này chỉ in được tám tác phẩm (trong đó bốn tác phẩm Đêm đông, Trên sông Hương, Hương Giang một đêm trăng, Dưới bóng cờ là của Nguyễn Văn Thương. Phạm Duy có Chiến sĩ vô danh, Chinh phụ ca, Nợ xương máu và nhạc sĩ Dương Minh Ninh với bản Gấm vàng.

Sang năm 1946 là sự xuất hiện tên tuổi của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu với bốn tác phẩm Giải phóng quân, Tuyên truyền xung phong, Núi Non Nước, Mùa đông binh sĩ trong tổng số tám tác phẩm và những tác phẩm còn lại là của Ngọc Trai, Nguyễn Hữu Ba, Văn Đông. Trong chương trình “Con đường âm nhạc” trên VTV1 hồi nào, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cho biết bài Giải phóng quân được trả 800 đồng, khi giá một bản nhạc là 7 đồng.

Suốt 11 năm tồn tại (nếu ra đời từ năm 1945), NXB Tinh Hoa của ông Tăng Duyệt đã tập hợp và xuất bản gần 500 ca khúc của hầu hết nhạc sĩ tiền bối từ trước đến nay như Văn Cao, Phạm Duy, Trần Hoàn, Văn Giảng (tức Thông Đạt), Thẩm Oánh, Hùng Lân, Dương Thiệu Tước, Phạm Đình Chương, Nguyễn Văn Thương, Nhật Bằng, Nguyễn Mỹ Ca, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, Thu Hồ, Anh Việt, Lê Thương, Lưu Hữu Phước, Canh Thân, Tô Vũ, Phan Huỳnh Điểu, Ngọc Trai, Dương Minh Ninh, Văn Phụng, Hoàng Thi Thơ…

Tiếp theo sự ra đời của NXB Tinh Hoa, một loạt NXB đã ra đời sau đó như Thế Giới (Hà Nội), Sống Chung, Á Châu (Sài Gòn), An Phú, Hương Thu, Phương Mộc Lan (năm 1949), Diên Hồng, Nguyên Thảo – Phạm Thế Mỹ, Tiếng Bạn, Sóng Lúa, Tinh Hoa Miền Nam (hậu thân của Tinh Hoa do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo phụ trách), Minh Phát, Lửa Hồng… 

3 Về hình thức, từ những năm phôi thai các bản nhạc thường in typo. Bìa nhạc chỉ dùng hai màu do các họa sĩ Phi Hùng, Ngọc Tùng, Bạch Đằng Cát Mỹ vẽ theo lối tả chân, rất mượt mà. Khoảng thời gian ngắn sau xuất hiện họa sĩ Duy Liêm với lối vẽ lập thể, đầy góc cạnh, tạo ra một bộ mặt mới cho bìa nhạc. Rồi từ những NXB Diên Hồng, Minh Phát xuất hiện thêm những họa sĩ vẽ bìa tờ nhạc tài danh khác như Kha Thùy Châu, CVĐ.

Sau này từ đầu thập niên 1970, khi kỹ thuật in offset được các nhà in phát triển thì bìa tờ nhạc là ảnh của các ca sĩ trẻ, người đưa nhạc phẩm tới công chúng bằng con đường phát thanh – truyền hình như Thanh Lan, Khánh Ly, Nhật Trường, Duy Khánh, Giao Linh, Hoàng Oanh…

Người không thích hát vẫn có thể mua tờ nhạc này vì tờ nhạc in ảnh của thần tượng. Lợi cả đôi đường. Những người sưu tầm thì mua ngay khi nhạc phẩm mới được xuất bản rồi sau đó đóng lại thành tập. Nhờ vậy, các bản nhạc từ những ngày đầu còn được lưu giữ trong tay một số nhà sưu tầm trong cả nước.

Vô cùng bồi hồi khi xem lại từng tờ nhạc Tinh Hoa (thời ông Tăng Duyệt), An Phú, Phương Mộc Lan, Sống Chung… để thấy lịch sử, lòng yêu nước được thể hiện rất thành công và còn vang vọng đến hôm nay như nhiều tác phẩmThăng Long hành khúc (nhạc Văn Cao, lời Văn Cao – Đỗ Hữu Ích – Tinh Hoa – 1955), Quyết tiến (Võ Đức Thu – 1953); Hờn sông Gianh, Ải Chi Lăng (Lưu Hữu Phước – 1953 – An Phú), Tiếng dân chài (Phạm Đình Chương – 1953, NXB Á Châu), Tiếng còi trong sương đêm (Lê Trực, AP), Đêm Lam Sơn(Thanh Toại)…

Nếu như ngày nay ta không thường được nghe lại những bản nhạc này thì chính tờ nhạc lại là “vật chứng” cho một giai đoạn hào hùng của thời kỳ nhạc mới. Các nhạc sĩ lớn trong sử nhạc VN như Nguyễn Văn Thương, Dương Minh Ninh, Hiếu Nghĩa, Thẩm Oánh, Văn Cao, Phạm Duy, Lê Trực (sau này là Hoàng Việt)… đều dùng nhạc “cải cách” để “khóc cười theo vận nước nổi trôi” và “Quyết tiến ta giống dân Lạc Hồng – Liều thân sống ta quyết giữ gìn non sông”…

4 Như từ đầu đã nói, sở dĩ tờ nhạc này tồn tại được nhờ đáp ứng được yêu cầu của người mê nhạc, mê hát, mê đàn. Nghe ca sĩ hát trên tivi, đài phát thanh, để hát và đàn được cho đúng bài bản thì không có cách nào khác phải mua tờ nhạc về để “tưng… tưng” theo.

Tờ nhạc không chỉ có những bài hát thời thượng như vậy mà còn có các bài “cao siêu” như Hương xưa (Cung Tiến), Serenade (Phạm Duy đặt lời), nhẹ nhàng thì có mấy bài Không tên số 1, 2, 3… (Vũ Thành An), Diễm xưa (Trịnh Công Sơn)… Những tờ nhạc này đã đưa bản nhạc, nhạc sĩ đến gần người yêu nhạc. Trong một số tờ nhạc cũ tôi sưu tầm được thấy có người còn ghi cả tên nốt ngay từng hình nốt.

diem-xua--0--trinh-cong-son--vietstamp.net--dongnhacxua.com

Không chỉ tập đàn nhạc trong nước, họ còn được tiếp cận nhạc nước ngoài được viết lời Việt như Sóng tà dương (NXB An Phú – 1952), Chiều tà (nhạc Enrico Toselli, lời Phạm Duy), Đón gió (1953), Sầu (nhạc Chopin, lời Phạm Duy), Mối tình xa xưa (nhạc Johannes Brahms, lời Phạm Duy, NXB Á Châu).

Sau năm 1975, thể loại tờ nhạc này còn sống được qua NXB Âm Nhạc Giải Phóng khi cho phát hành một số bài hát cách mạng và NXB Trẻ in lại những tác phẩm để đời của một số nhạc sĩ lớn với kỹ thuật in hiện đại và rất đẹp. Tiếc rằng do thu hồi không đủ vốn(?) nên đã khai tử việc xuất bản ấn phẩm này. Từ đó, tờ nhạc mất hẳn trong những hiệu sách và các nhạc phẩm chỉ còn hiện diện trong những tuyển tập nhạc in chung nhiều tác giả. ■

[footer]

Ở hai đầu nỗi nhớ (Phan Huỳnh Điểu – Trần Hoài Thu)

Trong làng nhạc Việt, tài năng phổ thơ của nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu xứng đáng được xếp vào một trong những vị trí cao nhất. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên để người yêu nhạc  xưa hiểu thêm về bản “Ở hai đầu nỗi nhớ”, một bản tình ca đẹp dựa trên bài thơ cùng tên của nhà thơ Trần Đình Chính.

BÁI THƠ ‘Ở HAI ĐẦU NỖI NHỚ’ 
(Nguồn: ThiVien.net)

Có một không gian nào
Đo chiều dài nỗi nhớ?
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?

Anh đang ở Pai-lin
Rừng khộp khô trong nắng
Thương em chiều mưa lạnh
Muốn gửi chút nắng hồng

Ở đầu này nỗi nhớ
Anh mơ về bên em
Ngôi sao như xuống thấp
Cho ta gần nhau hơn

Ở đầu kia nỗi nhớ
Nằm đếm tiếng mưa rơi
Đếm mấy triệu hạt rồi
Mà chưa vơi nỗi nhớ
Ở hai đầu nỗi nhớ
Yêu và thương sâu hơn
Ở hai đầu nỗi nhớ
Nghĩa tình đằm thắm hơn

(Mùa hè 1980)
(Trần Hoài Thu)

Bài thơ này là mối tình đầu của tác giả với một cô sinh viên văn khoa Sài Gòn đi cùng đoàn của Sở Thương nghiệp sang Campuchia xây dựng mạng lưới bán hàng. Năm 1984, bài thơ lần đầu được đăng trên báo Nhân Dân. Bài thơ đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc năm 1987. Năm 2013, bản quyền của bài thơ được bán với giá 300 triệu đồng cho ông Nguyễn Xuân Hàn.

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: Ở HAI ĐẦU NỖI NHỚ 
(Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên ThanhNien.com.vn ngày 16.09.2014)

Năm 2004, người viết có dịp gặp “nhạc sĩ của tình yêu” Phan Huỳnh Điểu, ông bảo, trong gia tài ca khúc phổ thơ của mình, một trong những bài ông tâm đắc nhất là Ở hai đầu nỗi nhớ (phổ từ thơ Trần Hoài Thu).

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Trong những đêm nằm nghe tiếng mưa rơi ngoài hiên, mưa lướt trên mái nhà, mưa xuyên qua cành lá… mà bật máy, nghe Bảo Yến hát: “Đêm nghe tiếng mưa rơi, đếm mấy triệu hạt rồi, mà chưa vơi nỗi nhớ… Ở hai đầu nỗi nhớ, yêu và thương sâu hơn. Ở hai đầu nỗi nhớ, nghĩa tình đằm thắm hơn”, thì chắc là những kẻ đang yêu (chưa kể là phải cách xa) đều nghe tim mình thổn thức, nhớ nhung. Đặc biệt, có lẽ Bảo Yến là một trong những giọng ca chuyển tải được hết cái da diết, khắc khoải đầy tâm trạng của một người đang nhớ đến người yêu nơi xa xôi, diệu vợi giữa một đêm mưa thê thiết.

2 năm trước, có dịp ngồi chung xe với một số nhạc sĩ đi về Bến Tre (trong đó có nhạc sĩ Quốc Dũng – chồng của ca sĩ Bảo Yến), tôi nói với anh: “Bảo Yến hát Ở hai đầu nỗi nhớ rất tuyệt. Thích nhất là những đoạn intro, nhạc dẫn…”. Mắt Quốc Dũng sáng lên, cười bảo: “Mình phối đó!”. Vâng, quá hay, từ bài thơ đến người phổ nhạc, người phối.

Trai Hà Nội, gái Sài Gòn

Tác giả bài thơ là một nhà thơ nghiệp dư. Anh tên thật là Trần Đình Chính, sinh năm 1955 tại Hà Nội, học Trường cấp 3 Trần Phú và được lệnh nhập ngũ vào năm cuối cấp (lớp 10, năm 1973). Vào Nam chiến đấu, có lần Trần Đình Chính suýt hy sinh trong một cuộc giao tranh ở vùng tiếp giáp hai tỉnh Cần Thơ và Vĩnh Long vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.

Cởi áo lính, Trần Đình Chính theo học Khoa Ngữ văn (Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội). Ra trường, được nhận vào Báo Nhân Dân, rồi anh được phân công vào đoàn cán bộ, chuyên gia sang Campuchia hỗ trợ bạn làm báo (dù lúc này Chính chỉ là phóng viên thực tập).

Cùng thời gian ấy cũng có một đoàn của Sở Thương nghiệp TP.HCM sang giúp bạn xây dựng mạng lưới bán hàng. Trong đoàn này có Mai Đào, từng là sinh viên Văn khoa Sài Gòn. Tại thủ đô Phnom Penh nước bạn, định mệnh đã xui khiến Trần Đình Chính gặp và yêu Mai Đào. Ngày ấy, Chính 24 tuổi còn Mai Đào mới 20. Chàng dân Hà Nội, nàng người Sài Gòn. Tên của nàng góp cả hai loài hoa tượng trưng cho mùa xuân ở Sài Gòn và Hà Nội, và nàng cũng đẹp như hoa xuân. Phnom Penh lúc đó hoang vắng bởi bọn Pol Pot vừa tháo chạy khỏi thủ đô. Những lúc rảnh rỗi, Chính thường đưa Mai Đào đi thăm các đền chùa cổ kính. Đêm đến, đôi tình nhân sánh vai nhau ngồi ngắm sao, để sau này những giây phút ấy khắc sâu trong nỗi nhớ của Trần Đình Chính: “Ngôi sao như xuống thấp. Cho ta gần nhau hơn”.

Thế nhưng, họ chỉ hạnh phúc bên nhau khoảng một năm, bởi thời điểm mới giải phóng, còn nặng xét lại thành phần lý lịch “bên này, bên kia”. Rồi gia đình của Mai Đào phải rời Sài Gòn đi kinh tế mới ở Sông Bé, cô phải về nước phụ cha mẹ, còn Trần Đình Chính cũng được gọi về Hà Nội (tháng 4.1980) sau một năm rưỡi sống trên nước bạn.

Đêm nghe tiếng mưa rơi

Những đêm mưa ở Hà Nội luôn làm Chính vật vã, nhớ nhung đến khổ sở. Trong lòng cứ tự hỏi “Người ấy bây giờ ra sao rồi?”. Nằm ở Hà Nội mà nghĩ về một nơi nào đó ở Sông Bé – cả một không gian cách trở (dạo ấy, điều kiện giao thông còn rất hạn chế).

Nhà thơ Trần Đình Chính. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhà thơ Trần Đình Chính. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Và, vào một đêm mưa Hà Nội với nỗi nhớ cồn cào như thế, Trần Đình Chính đã ngồi bật dậy làm thơ: “Có một không gian nào/Đo chiều dài nỗi nhớ?/Có khoảng mênh mông nào/Sâu thẳm hơn tình thương?/Anh đang ở

Pha-lin(*)/Rừng khộp khô trong nắng/Thương em ngoài ấy lạnh/Muốn gởi chút nắng rừng/Chào Phnom Penh mến yêu… Ở đầu này nỗi nhớ/Anh mơ về bên em/Ngôi sao như xuống thấp/Cho ta gần nhau hơn/Ở đầu kia nỗi nhớ/Nằm đếm tiếng mưa rơi/Đếm mấy triệu hạt rồi/Mà chưa vơi nỗi nhớ/Ở hai đầu nỗi nhớ/Yêu và thương sâu hơn/Ở hai đầu nỗi nhớ/Nghĩa tình đằm thắm hơn” (Mùa hè 1980).

Bài thơ được làm trong 8 phút. Dưới bài thơ, anh ký tên Trần Hoài Thu (sau này anh lấy bút danh đặt tên cho con gái). Bốn năm sau (1984), bài thơ được đăng trên Báo Nhân Dân. Năm 1987, bài thơ “lọt vào mắt xanh” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và với khả năng phổ nhạc bậc thầy, “Nhạc sĩ của tình yêu” (danh hiệu này do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đặt cho) đã chắp cánh cho bài thơ phổ nhạc bay cao, bay xa…

Cho đến bây giờ, hơn 30 năm sau, không ai biết “người đẹp mang tên hai loài hoa xuân” đang ở đâu giữa dòng đời xuôi ngược. Riêng tác giả bài thơ thì lại có một cuộc đời đầy trắc trở, một hậu sự buồn: cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ, sau đó anh tái hôn với một nữ đồng nghiệp còn khá trẻ. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì anh phát hiện bị chứng bệnh tiểu đường giai đoạn cuối. Anh lìa trần ngày 9.5.2014, thọ 60 tuổi.

Hà Đình Nguyên

[footer]

Hà Thanh – Một cõi đi về

[dongnhacxua.com] rất hân hạnh nhận được một email khá thú vị của tác giả Việt Lang gởi từ website casihathanh.wordpress.com. Để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin về nữ ca sỹ Hà Thanh, chúng tôi xin mạn phép đăng bài viết này:

Từ khi ca sĩ Hà Thanh định cư tại Mỹ, và nhất là ngay sau khi cô qua đời, các chương trình văn nghệ và phương tiện truyền thông đều phổ biến rộng rãi những ca khúc phổ quen thuộc nhất của cô qua các đề tài về Huế hoặc dòng nhạc Nguyễn Văn Đông. Lý do thì rất dễ hiểu: dòng nhạc về Huế có sức thu hút rất mạnh đối với khán giả hải ngoại, và dòng nhạc Nguyễn Văn Đông cũng được hồi sinh do nó thường nhắc đến những người lính chiến VNCH qua lăng kính lãng mạn, thay vì thù hận hoặc chính trị. Nói vậy không có nghĩa chúng ta phủ nhận sự thành công rất đặc biệt của ca sĩ Hà Thanh trong hai dòng nhạc ấy. Tuy vậy. chỉ dừng lại ở đó cũng sẽ khá thiệt thòi cho một nghệ sĩ đã từng được sự quan tâm đặc biệt suốt thập niên 60 và đầu thập niên 70 nhờ vào tài năng đa dạng, vượt qua cả những ranh giới địa lý và xã hội.

Ca sỹ Hà Thanh. Ảnh: casihathanh.wordpress.com
Ca sỹ Hà Thanh. Ảnh: casihathanh.wordpress.com

Thật vậy, nếu ta nhìn lại cả sự nghiệp âm nhạc của ca sĩ Hà Thanh khi còn ở trong nước, sẽ thấy ngay số lượng ca khúc về Huế hoặc dòng nhạc Nguyễn Văn Đông không phải là đa số, nếu không muốn nói là chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một tiếng hát đã vượt qua không gian bé nhỏ của cố đô Huế để sánh vai với các giọng ca lừng lẫy khác của Sài Gòn, ắt hẳn phải là một tài năng thật sự. Ca sĩ Kim Tước đã ghi nhận điều này như sau: “Tôi nhận thấy ở Sài Gòn, tên tuổi tôi không được mến chuộng nhiều trong đại chúng tại vì lối hát của tôi hơi cứng quá và nhất là hơi nặng về vấn đề kỹ thuật. Về sau này những người sau tôi như Hà Thanh hay những người khác, họ hát uyển chuyển hơn cho nên dễ đi vào quần chúng nhiều hơn và dễ được thông cảm hơn.”

Tôi chợt nghĩ đến số lượng rất lớn những tình ca thính phòng rất thành công của Hà Thanh đã khiến cô trở thành một cộng tác viên thường xuyên cho Ban nhạc hòa tấu Tiếng Tơ Đồng, hoặc các chương trình rất trí thức như Phạm Mạnh Cương hoặc Tiếng Nhạc Tâm Tình của ca sĩ Anh Ngọc và sau cùng là Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh. Ca sĩ Hà Thanh đã biến nhiều nhạc phẩm của Phạm Duy, Phạm Mạnh Cương, Đoàn Chuẩn, Văn Cao thành những dấu ấn của riêng mình. Nhiều nhạc sĩ, ca sĩ như Nhất Tuấn, Hồng Vân đã đồng ý rằng Hà Thanh có lối hát nhẹ nhàng nhưng sáng tạo trong kín đáo . Điều này có thể được minh họa qua hai ca khúc

Tưởng Vọng (Y Vân) 

và Mưa Gió Đầu (Hoàng Trọng) mà Hà Thanh trình bày với ban nhạc hòa tấu vào thập niên 60. 

Qua chúng, ta nhận ra là trong vẻ đẹp thanh tao của tiếng hát mình, Hà Thanh không hề yếu đuối hoặc làm dáng một cách máy móc. Giọng ca của cô tuy rất nữ tính, nhưng vẫn tuôn ra những cảm xúc và sáng tạo, tự tin khi phải xướng âm với những dàn nhạc qui mô và lối hòa âm rất hàn lâm.

Trong những năm tháng về sau ở hải ngoại, khi tuổi đời đã cao, giọng ca Hà Thanh trầm hơn và dày hơn. Những cảm xúc trong giọng hát của cô cũng theo đó mà nức nở và thuyết phục hơn. Xin được dẫn chứng bằng một dòng nhạc mà ít ai nghĩ đến khi nhắc đến Hà Thanh, đó là những bài hát của Trịnh Công Sơn. Thật ra nếu theo dõi kỹ, dòng nhạc Trịnh không hẳn là xa lạ với giọng hát Hà Thanh. Cô đã từng thâu những ca khúc như Biển Nhớ, Hạ Trắng, Thương Một Người vào đĩa nhựa 45 vòng ở miền Nam. Hai ca khúc sau đây, tuy hòa âm sơ sài, nhưng may mắn đã được đền bù bởi chất giọng soprano và sự diễn tả nhiều màu sắc của Hà Thanh.

Cố ca, nhạc sĩ Quỳnh Giao đã từng nhận định:“Vì thính giả chỉ thích những bài đậm sắc địa phương, tiếng hát Hà Thanh không có cơ hội bay xa hơn, vươn rộng hơn nữa… “. Sự đa dạng trong cảm xúc và lạ lẫm trong chất giọng đã tạo ra “một cõi đi về ” khá đặc biệt cho Hà Thanh trong lòng khán giả miền Nam trong nhiều chục năm qua. Hy vọng những người yêu nhạc sẽ cùng nhau ôn lại những thành công đa dạng trong âm nhạc của ca sĩ Hà Thanh để thấy rằng cô không chỉ là một ca sĩ của xứ Huế mà là một ca sĩ của cả vòm trời âm nhạc Việt Nam.

[footer]

Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn)

Với những ai đã từng gắn bó với một làng quê Việt Nam thanh bình, hình ảnh nắng chiều vương trên ruộng lúa, lũy tre hay hàng cây ven đường sẽ đọng mãi trong tâm trí, dù chúng ta có ở phương trời nào. Trong niềm cảm xúc ấy, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Nắng chiều’ của nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn và bài viêt của nhà báo Hà Đình Nguyên.

Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

nang-chieu--1--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nang-chieu--2--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: THOÁNG GẶP, THOÁNG YÊU TRONG NẮNG CHIỀU 
(Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên ThanhNien.com.vn ngày 11.11.2011)

Có thể nói nhạc phẩm Nắng chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy – rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Có thể nói nhạc phẩm Nắng chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy – rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Trong một lần ngồi uống bia ở 81 Trần Quốc Thảo (TP.HCM), anh bạn vong niên của tôi – nhà thơ Mịch La Phong khăng khăng bảo rằng ca khúc Nắng chiều là do Lê Trọng Nguyễn “cóp” lại từ một ca khúc nước ngoài. Rồi anh hát bài này bằng tiếng Anh, giọng… Quảng Nam nghe rất buồn cười: “Ai rí mem bờ tú du ờ gần. Xờm thài a crái in đơ mun lai. Goen í vơ ning sơ rúm bi sần. Ón rai lầu mí thói ờ lền thai…”. Tôi phản đối: “Theo nhiều tài liệu thì Nắng chiều không chỉ có bản tiếng Anh mà còn cả tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Thái Lan và cả tiếng Campuchia nữa…”. Qua bài này, người viết cố gắng làm sáng tỏ sự ngộ nhận không chỉ của bạn tôi mà có lẽ còn của nhiều người nữa.

Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Lê Trọng Nguyễn sinh năm 1926 tại Điện Bàn (Quảng Nam). Ông tên thật là Lê Trọng, còn chữ Nguyễn là họ của mẹ (sau này vợ ông cũng ghép tên ông vào trước tên mình: Lê Trọng Nguyễn Thị Nga). Cha mất sớm, bà mẹ trẻ chấp nhận ở góa để nuôi ông và người em gái cho đến lúc trưởng thành… Có lẽ cơ duyên để ông đến với âm nhạc là do có một thời kỳ (1942-1945) ông sống ở Hà Nội và làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Sau này, ông học hàm thụ Trường École Universelle (Pháp) và trở thành hội viên Hội Nhạc sĩ Pháp SACEM (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique). Ca khúc đầu tay Ngày mai trời lại sáng được viết năm 1946. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh (Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà giang, Sao đêm…). Tuy nhiên, nói đến Lê Trọng Nguyễn là người ta nghĩ ngay đến ca khúc Nắng chiều.

Lai bóng hồng trong một bản nhạc

Chất “bột” để “gột nên hồ” đầu tiên cho Nắng chiều là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì. Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.

Một thời gian sau, Lê Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh. Chính từ những chuyến đi chơi này mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất bột” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa khôi của đất thần kinh. Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua. Bóng dáng thướt tha ấy “ngược sáng” trong ánh tà dương. Nhìn “cô này”, bất giác Nguyễn… nhớ “cô kia” quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều. Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa. Khi đến cuối thôn chân bước không hồn. Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…”. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong Nắng chiều (1952). Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim Tước…) nên khi bản Nắng chiều được xuất bản, chính Minh Trang là người hát và thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng chiều lan tỏa khắp Trung – Nam.

Nắng chiều và hai bóng hồng… ngoại

Ảnh ca sĩ Midori Satsuki với thủ bút và chữ ký đề tặng Mr. Lê Trọng Nguyễn
Ảnh ca sĩ Midori Satsuki với thủ bút và chữ ký đề tặng Mr. Lê Trọng Nguyễn

Năm 1957 ban nhạc Toho Geino (Nhật Bản) sang Việt Nam lưu diễn, và họ đã nhờ phía Việt Nam chọn 12 ca khúc đang nổi tiếng trong nước để tập và sẽ hát “giao lưu” với khán giả. Duyên trời đã đưa đẩy nữ ca sĩ Midori Satsuki chọn hát Nắng chiều và cô đã được khán giả ở Hội chợ Thị Nghè hoan hô nhiệt liệt. Thích quá, Midori Satsuki quyết định chuyển soạn cho Nắng chiều có cả lời Nhật lẫn lời Anh (với tựa Evening sunshine hoặc Afternoon sun), và cô đã thể hiện rất thành công trên đài phát thanh Sài Gòn và Tokyo trong suốt nhiều năm với bản nhạc “tủ” này. Vậy là Nắng chiều không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang vọng khắp xứ Phù Tang… Từ cái “duyên” do Nắng chiều đem tới, tác giả ca khúc và người thể hiện đã gặp gỡ nhau, rồi tỏ ra rất “tâm đầu ý hợp”. Họ đã có một thời gian bên nhau thật đẹp khi ở Việt Nam và khi Midori Satsuki về nước họ vẫn giữ liên lạc qua thư từ (năm 2004, gia đình cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và những người thực hiện CD Lê Trọng Nguyễn Collection ở California (Mỹ) đã liên lạc được với bà Midori Satsuki. Bà vẫn còn làm việc ở Đài truyền hình Tokyo và xác nhận là mình vẫn còn nhớ bản Nắng chiều).

Chưa hết, năm 1960 cô ca sĩ Đài Loan tên Kỷ Lộ Hà đến Đà Nẵng trình diễn và đã làm khán giả Việt Nam bất ngờ khi cô hát Nắng chiều bằng tiếng Hoa do Thận Chi đặt lời. Thận Chi (1928-1988) là một tên tuổi lớn của Đài Loan trong lĩnh vực biên kịch và soạn nhạc. Ông cũng thành công trong việc đặt lời Hoa cho nhiều ca khúc quốc tế, trong đó có Nắng chiều… Khi biết tác giả của Nắng chiều đang ở Hội An, Kỷ Lộ Hà đã đến gặp để xin phép về mặt tác quyền. Tuy Lê Trọng Nguyễn không chính thức thừa nhận nhưng nhiều người trong giới, cùng thời với Lê Trọng Nguyễn đã tiết lộ rằng ngay trong cuộc gặp ấy, “Đài ca nương” đã bị “Việt nhạc lang”… hớp hồn bởi nét hào hoa, lịch thiệp – thậm chí nàng còn viết thư cho chàng.

Nghĩ cũng… ngộ, Nắng chiều được hình thành từ cảm hứng do hai giai nhân “nội” mà tác giả thoáng gặp, thoáng yêu đem lại. Rồi Nắng chiều nổi tiếng lan ra hải ngoại lại cũng do hai bóng hồng “ngoại” đến với nhạc sĩ: gặp một thoáng, yêu một thoáng. Thoáng tụ, thoáng tan như vạt nắng chiều.

Hà Đình Nguyên

Đi tìm nhành hoa thạch thảo

Nhân nói về bản ‘Mùa thu chết’ và hoa thạch thảo, [dongnhacxua.com] xin gởi thêm một bài viết cũng khá công phu về loài hoa đặc biệt này. Chúng tôi không đủ am hiểu về hoa cỏ để có nhận định của cá nhân mà chỉ mong qua bài viết này để người yêu nhạc có thêm thông tinđa chiều.

ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO 
(Nguồn: bài viết của tác giả Lê Duy Đoàn đăng trên art2all.net)

thach-thao-1-art2all.net--dongnhacxua.com

Những người có chút máu văn nghệ một lúc nào đó nổi hứng, thường buột miệng hát đôi câu vu vơ. Những câu hát nằm trong bộ nhớ có khi chỉ là một đoạn của bài hát. Khúc đầu, khúc giữa, khúc đuôi, khúc nào cũng được, tự nhiên bật ra như radio bắt được tần số dò đài, những bài hát cóp nhặt trên dòng đời một cách có ý hay vô tình nghe đâu đó thỉnh thoảng được hát nho nhỏ như thế..

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, ?
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi…  

Đó là câu hát tôi thường nghêu ngao nhất, có lẽ vì không gian đượm buồn nhè nhẹ của lời bài hát, mà cũng vì trong câu hát có tên một loài hoa gây ấn tượng vì vẻ huyền hoặc của nó.

Có lẽ với người Tây phương, người ta biết ngay hoa thạch thảo là hoa gì, một cái gì thấy được, ngắt được,thậm chí ngữi được mùi hoa ngát hương của nó. Trừ những người đã đi Tây và có quan tâm tìm hiểu thì còn có thể biết chứ phần nhiều người Việt chúng ta thật ra đọc thì đọc, hát thì hát chứ chẳng biết hoa thạch thảo là hoa gì, mặt mũi vóc dáng ra sao ?!

Bài viết này không bàn luận gì về bài thơ L’ Adieu mà Búi Giáng đã dịch và Phạm Duy đã phổ nhạc, tôi chỉ muốn nhân câu chuyện liên quan đến bài thơ để đi tìm ra một cành hoa đúng thật là một cành hoa thạch thảo đặt lên mộ của Léopoldine tiếc thương người bạc mệnh.

Léopoldine là con gái cưng của Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy 20 tuổi và đang mang thai 4 tháng. Hugo chỉ biết tin con mất khi ông vô tình đọc một tờ báo ở quán cà phê nọ. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi. Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913.

L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

Lời vĩnh biệt ( dịch)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…

Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)

Cũng dựa trên ý thơ của bài thơ nói trên, năm 1965, Phạm Duy viết bài “Mùa thu chết” mở đầu bằng 2 câu:

“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!

Bùi Giáng thì dịch “ hái nhành lá” còn Phạm Duy thì viết “ ngắt cụm hoa”. Đây là khởi đầu của những suy diễn sai lầm của nhiều người viết về hoa thạch thảo.

Ngắt cụm hoa trong lời nhạc của Phạm Duy gợi hình ảnh một “cây thân thảo”, hình ảnh người ngắt cụm hoa là hình ảnh một người cúi xuống một bụi hoa .

Hái nhành lá cây trong câu thơ dịch của Bùi Giáng gợi hình ành một cây “hoa thân mộc” cao vừa tầm hái. 

1. Những cây không phải là Hoa Thạch Thảo nhưng bị ngộ nhận:

Việc ngộ nhận hoa thạch thảo của người đọc bài thơ dịch và và lời bài hát nầy có nguyên do từ tên gọi tiếng Việt, một sự đồng hóa, lồng ghép khiên cưởng của chữ nghĩa do tên gọi giống nhau.

a. Ngoài Bắc, người ta gọi Cúc cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối) là thạch thảo, cúc thạch thảo nên nhiều người cứ thản nhiên coi cây hoa thạch thảo trong bài thơ nói trên là cây cúc cánh mối .

Cây có nguồn từ châu Âu, châu Á. Cúc cánh mối là cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ có thân rễ mọc bò dưới đất. Thân cao 15 – 50 cm, đơn hay phân nhánh ít ở ngọn. Lá dài, thuôn hình giáo tù, hơi có lông mịn, nguyên, các lá ở thân không có cuống. Cụm hoa hình đầu đơn độc ở ngọn các nhánh. Vòng hoa đều dài, cánh môi thuôn hẹp, thẳng màu lam tím. Các hoa ở ngoài hình lưỡi, màu lam tím, dài 1 cm. Hoa giữa hình ống hẹp màu vàng, xếp sát nhau. Hoa thường màu tím nhạt. Quả bế có mào lông mịn màu vàng.

Cúc cánh mối, tên Aster amellus L, hay còn gọi là cúc thạch thảo, là một loài thuộc chi Cúc sao (Aster) thuộc về Họ Cúc (Asteraceae). Tên tiếng Anh European Michaelmas Daisy, tiếng Pháp Oeil de Christ. 

cuccanhmoi2  Như vậy, có thể nói ngay Cúc cánh mối không phải là cây hoa thạch thảo. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ việc trùng tên theo cách gọi của người miền Bắc Việt nam mà thôi. 

Rất nhiều bài viết trên mạng internet về hoa thạch thảo kể một câu chuyện tình lãng mạn của đôi thanh niên nam nữ có tên hẳn hoi. Có thể đó là một câu chuyện bịa như hầu hết truyền thuyết, cố ý tạo một câu chuyện đầy kịch tính rồi gán ghép vào xuất xứ tên gọi một loài hoa. “Ami và Edible thường hay cùng nhau vào rừng. Ami hái nấm còn Edible săn thú. Rồi, Edible vươn người ra vách đá dựng hái hoa thạch thảo cho Ami. Edible sẩy chân rơi xuống vực chỉ kịp nói xin đừng quên tôi”, (kèm theo bài viết là hình chụp Cúc cánh mối để minh họa) .

Bắt đầu từ đây, những bài viết đó kéo thêm những ngộ nhận tiếp theo “Ban đầu họ đặt tên cho nó là Forget me not, sau nhiều năm và được trồng ở nhiều nước nó lại có những cái tên khác nhau như Muguet De Mai (Pháp), Thạch Thảo (Việt Nam)…”
 

b. Chính hoa 5 cánh tiếng Việt gọi là Hoa Lưu Ly mới là hoa Forget me not

Trong một số ngôn ngữ, tên của hoa lưu ly được gọi là hoa “xin đừng quên tôi“. Tên tiếng Anh “Forget me not” được mượn từ tên tiếng Pháp là “Ne m’oubliez pas” và được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1532.

Myosotis alpestris
Myosotis alpestris

Có khoảng 50 loài lưu ly trong chi này, và chúng khác biệt nhau một cách đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn các loài có chung các đặc điểm được miêu tả như hoa màu lam tím nhỏ (đường kính 1 cm) với 5 cánh hoa mọc dày dặc trên các thân cây bò lan um tùm, ra hoa vào mùa xuân. Các loại màu sắc khác của hoa cũng không phải là bất thường trong chi này, với các dạng màu hồng hay trắng vẫn có thể tồn tại. Chúng hay được trồng trong vườn và các giống trồng thường có hoa với màu sắc hỗn tạp.

Các loài lưu ly có thể là cây một năm hoặc cây lâu năm. Hệ thống bộ rễ của chúng nói chung là rễ chùm. Hạt của chúng được tìm thấy trong các quả dạng quả đậu nhỏ, hình tulip dọc theo thân tới hoa. Quả đậu bám vào quần áo khi va chạm phải chúng và cuối cùng rơi xuống đất, giải phóng các hạt nhỏ để chúng có thể nảy mầm ở mọi nơi.

Họ (familia):

Boraginaceae

Phânhọ  (subfamilia):

Boraginoideae

Chi  (genus):

Myosotis

Đây chỉ là sự gán ghép tên gọi. Dựa vào lời của người bạn trai nói với bạn gái khi rơi xuống vực trong câu chuyện thương tâm nói trên để cho rằng hoa thạch thảo còn có tên gọi là forget me not là một sai lầm ấu trỉ.

c. Thêm một loài hoa được kéo vào đây để tung hỏa mù làm người đọc không biết đâu mà lần là Muguet De Mai (Pháp).

Hoa này có tên là Hoa Linh Lan, trong tiếng Anh còn được gọi là Our Lady’s tears (Nước mắt của Mẹ). Các tên gọi khác trong tiếng Anh là May Lily (huệ tháng Năm), May Bells (hoa chuông tháng Năm), Lily Constancy (huệ chung thủy), Ladder-to-Heaven (thang tới thiên đường), Male Lily.

Theo truyền thống, hoa linh lan được bán tại Pháp trên các đường phố vào ngày 1 tháng 5. Kể từ năm 1982, hoa linh lan là quốc hoa của Phần Lan.

Bộ (ordo):

Asparagales

Họ ( familia):

Ruscaceae

Chi (genus):

Convallaria

Loài (species):

C. majalis

Linh lan hay lan chuông (danh pháp khoa học: Convallaria majalis, L, là loài duy nhất trong chi Convallaria thuộc một họ thực vật có hoa là họ Ruscaceae. Nó có nguồn gốc trong khu vực ôn đới mát của Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nó là một loài cây thân thảo sống lâu năm có khả năng tạo thành các cụm dày dặc nhờ loang rộng theo các rễ ngầm dưới mặt đất gọi là thân rễ. Các thân rễ này tạo ra rất nhiều chồi mỗi mùa xuân. Thân cây cao tới 15–30 cm, với hai lá dài 10–25 cm và cành hoa bao gồm 5-15 hoa trên đỉnh ngọn thân cây. Hoa có màu trắng (ít khi hồng), hình chuông, đường kính 5–10 mm, có mùi thơm ngọt; nở hoa về cuối mùa xuân. Quả của nó là loại quả mọng màu đỏ, nhỏ với đường kính 5–7 mm. Nó là một loại cây cảnh trồng phổ biến trong vườn vì các hoa có mùi thơm của nó.

convallaria-majalis--art2all.net
Convallaria majalis
Hoa lan chuông
Hoa lan chuông

Kết 1: Cúc cánh mối (Aster amellus L), forget me not hay còn gọi là hoa lưu ly (Myosotis), Linh lan hay lan chuông (Convallaria majalis,L), cả 3 loài đều không phải là Cây Hoa Thạch Thảo.

2. Hoa Thạch Thảo là cây gì ?

Guillaume Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913. Bài thơ được viết lên một phần là để tưởng nhớ Victor Hugo, một phần là tiếc thương người bạc mệnh. 

Câu đầu:

J’ai cueilli ce brin de bruyère,

được Bùi Giáng dịch rất sát:

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo,

Brin de bruyère là nhánh, cành, nhành cây thạch thảo. Có lẽ Bùi Giáng cũng không biết cây thạch thảo ra sao, nên cứ bám vô chữ mà dịch cho chắc ăn. Mấy câu dưới ý tứ thoáng hơn nên có thể dịch thoát cũng được. Còn Phạm Duy phổ nhạc nên lại càng thoáng hơn một chút nữa. Cành lá hay cụm hoa cũng được, có hoa hay chỉ trơ cành cũng chẳng sao, thì cứ chữ gì động được đến tầng vi tế rung động của con tim là phổ. Phạm Duy có biệt tài phổ nhạc, ý nhạc nâng ý thơ, nên những bài thơ ông phổ hầu như tất cả đều nổi tiếng và đôi khi làm những nhà thơ vô danh cũng nổi tiếng theo.

Điều chính yếu của bài viết này là tìm ra đúng cây Hoa Thạch Thảo mà Apollinaire đã từng hái nhành hoa và đặt lên mộ Léopoldine vào ngày cuối thu (16/9).

Cây Hoa thạch thảo

Tên Hoa : 紅方柏 (hồng phương bách), 石楠 thạch nam)
Tên Anh : heather
Tên Pháp: bruyère
Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae)

Tất cả các loại thạch thảo đều trong Họ Ericaceae, có một loài hoa thạch thảo duy nhất thuộc Chi Calluna, ngoài ra là Chi Erica. Dưới đây là một số loài thuộc Chi Erica trong hàng vài trăm loài khác nhau trên thế giới.

Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loài cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.

cay_thachthao--art2all.net
Cây thạch thảo
hoathachthao-art2all.net
Hoa thạch thảo

Chi Erica gồm nhiều loài khác nhau từ loài cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.

– Erica arborea, cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.

– Erica carnea, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng. Phân bố ở vùng núi Alpes

– E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím từ Tây Âu cho đến Đan mạch.

– Erica ciliaris phân bố ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, bán đảo Ibériquevà Bắc Maroc.

– E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng ở Tây Âu 

– E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.

– E. lusitanica mọc rậm rạp có hoa trắng hồng phân bố ở Tây ban nha và Bồ Đào Nha và ở vùng bán đảo Iberia.

– E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath

– Erica mammosa là loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác.

Có thể kể thêm một số loài :

Erica australis phân bố ở Bắc Maroc, Erica ciliaris ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, Erica cinerea, Erica erigena, Erica mackaiana, Erica manipuliflora, Erica multiflora, Erica scoparia, Erica sicula, Erica terminalis, Erica tetralix, Erica umbellata.

Những loài này phân bố cùng khắp nên tôi chỉ để ý đến những loài cư trú ở vùng Normandi là bờ biển phía Tây của nước Pháp và phân bố rộng rải ở Anh quốc.

Sau khi đã nghiên cứu, phân loại và loại suy cùng đối chiếu với hình ảnh hoa thạch thảo trong văn chương, văn bản. Tôi đi đến kết luận:

Kết 2: Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt chính là Cây Hoa Thạch Thảo mà tôi muốn tìm.

Loài hoa này gốc ở Châu Âu, nhờ mấy nhà thơ, nhà văn nên nó mới thành hoa kiểng, chứ trước kia thế kỷ 17 -19 nó là hoa dại. Ở miền bắc nước Anh cây hoa thạch thảo này mọc đầy đồng, giống như cỏ tranh ở Việt Nam. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp mái, ken vách và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Bây giờ di cư sang Châu Mỹ nó thành Cô Bé Thị Thành đỏng đảnh ỏ trong các tiệm bán hoa, chứ ngày xưa nàng gốc nhà quê rặt.

Ai từng đọc qua truyện Ðỉnh Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronte chắc cũng nhớ đến những cánh đồng hoang (moors) mọc đầy hoa thạch thảo (heather), và tiếng hót líu lo của những con chim chiền chiện (moor-lark). Hoa thạch thảo là loài hoa mà chính tác giả, Emily Bronte yêu thích, nàng đã nhiều lần đưa nó vào truyện và thơ của mình. (1)

Hành trình đi tìm Nhành Hoa Thạch Thảo khởi đi từ những ngộ nhận về một loài hoa đã đi vào văn thơ của thế giới và thơ nhạc Việt nam. Người ta thường muốn biết chân dung thật sự người trần mắt thịt của một Nàng Thơ là như thế nào. Vì thế mới có Ngô Vũ Bích Diễm của Diễm xưa, có Ngô Vũ Dao Ánh của Thư Tình Gửi Một Người, Minh Đức Hoài Trinh của Đừng Bỏ Em Một Mình, Khánh Ngọc của Nửa Hồn Thương Đau….

Nhành Hoa Thạch Thảo cũng là một Nhành Thơ trong tâm hồn của nhiều người Việt.

Chân dung Nàng đã hiển lộ nhưng nét duyên của Nàng không bao giờ phai mờ.

Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo,

Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em…

Lê Duy Đoàn
Sài gòn, 06/01/2013 

_________________
 Trích:
(1) Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung

[footer]