Tân nhạc Việt Nam không đứng bên ngoài mà luôn xuôi theo dòng chảy của lịch sử nhằm ghi lại và làm phong phú cho kho tàng văn hóa đáng tự hào của dân tộc. Chúng tôi xin tri ân các bậc tiền nhân đã đổ không biết bao công sức để giữ gìn bờ cõi, cũng như lưu lại trang sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm hào hùng vào dòng nhạc Việt. Trên tinh thần đó DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bản sử ca nổi tiếng của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước: nhạc phẩm “Ải Chi Lăng”.
Ải Chi Lăng. Nhạc: Lưu Hữu Phước. Lời: Mai Văn Bộ & Nguyễn Thành Nguyên. Ảnh: SheetNhacPiano.
Chi Lăng (支棱) là một cửa ải nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây vốn là một thung lũng có sông Thương chảy qua, trải dài gần 20 km từ sông Hóa đến xã Mai Sao, thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Phía đông thung lũng là dãy núi đất Thái Họa – Bảo Đài, còn phía tây là dãy núi đá Cai Kinh.
Đặc điểm
Toàn cảnh
Dọc thung lũng Ải Chi Lăng còn có những ngọn núi thấp nằm rải rác và trấn ven đường cái quan như núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài 5 km, rộng khoảng 3 km.
Dù muộn màng nhưng DòngNhạcXưa vẫn muốn giới thiệu một nhạc phẩm thật hay và cảm động về một thời Sài Gòn mùa covid. Bản “Sài Gòn sẽ lại vui thôi mà!” là một sáng tác của bác sỹ Minh Đức mà theo lời anh tâm sự:
“Là bài hát mới nhất Minh Đức viết về Sài Gòn trong những ngày tháng thật khó quên. Mong mọi người yêu thương ca khúc còn nóng hổi này nhá. Nghe để thấy đâu đó quanh ta còn nhiều vất vả, hy sinh, nhiều cái đẹp, cái tốt và tình người đáng trân trọng biết bao. Nghe và xích lại gần nhau hơn nữa mọi người nhé!”
Trong số những nghệ sỹ có công hình thành và xây dựngnền âm nhạc Miền Bắc nước ta, nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý cần phải được nhắc đến với một niềm kính trọng đặc biệt. DòngNhạcXưa xin giới thiệu đến quý vị yêu nhạc đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả ‘Dư âm’ nổi tiếng một thời.
Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1925 – 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc nhạc đỏ như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ…
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý.
Tiểu sử và sự nghiệp
Nguyễn Văn Tý sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại Vinh, Nghệ An, quê gốc ở Phú Cường, Sóc Sơn, Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cha của ông là “trùm một phường bát âm của miền quê Vĩnh Phú thạo cả hát văn, hát chèo và hát ả đào”, sau vào làm thợ máy nhà máy xe lửa Trường Thi ở Nghệ An.
Thuở bé, Nguyễn Văn Tý học ở trường Quốc học Vinh và được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành thời đó. Trong thời gian tham gia hoạt động hướng đạo, ông được một cha cố người Tây Ban Nha cho vào dàn nhạc nhà thờ hát thánh ca. Ở đó ông được học nhạc lý cơ bản và nhất là nâng cao trình độ hòa thanh, hát bè. Nguyễn Văn Tý còn được một thầy giáo nhạc sĩ người Hoa tên Mạnh Hinh dạy chơi đàn guitar Hawaii.
Tiếp tục chủ đề giới thiệu những nhạc sỹ gạo cội của tân nhạc Việt Nam, DòngNhạcXưa xin trân trọng gởi đến người yêu nhạc một trong những nhạc sỹ để lại nhiều dấu ấn nhất: cố nhà giáo, nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ.
Phạm Thế Mỹ (15 tháng 11 năm 1930 – 16 tháng 1 năm 2009) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác nhạc vàng được nhiều người yêu thích, ngoài ra còn viết nhạc phản chiến, nhạc đỏ, nhạc kịch và ca vũ kịch. Ông còn có nghệ danh là Sông Đà.
Tiểu sử
Phạm Thế Mỹ sinh ra tại Đập Đá, An Nhơn, Bình Định, là người con thứ 11 của một gia đình trung lưu. Trên ông có hai người anh là nhà văn Phạm Văn Ký và nhà thơ Phạm Hổ.
Từ năm 1947 đến năm 1949, ông học và hoạt động văn nghệ trong trường Thiếu sinh quân ở Liên Khu 5. Lúc nhỏ, ông có năng khiếu vượt trội về sáo. Tuy nhiên, đam mê của ông không được cha ủng hộ vì cho rằng chơi sáo dễ mắc bệnh lao, vì vậy cha ông khuyên ông chơi guitar.
Mấy ngày gần đây cư dân mạng xôn xao vì chuyện một ca sỹ gạo cội như Tuấn Ngọc lại đi hát sai lời một nhạc phẩm đã quá quen thuộc của nhạc sỹ Lam Phương – bản ‘Tình bơ vơ’.
Lời ca đúng và đã đi vào lòng bao thế hệ là ‘Trời vào thu, Việt Nam buồn lắm em ơi…’ đã bị Tuấn Ngọc hát thành ‘Trời vào thu, chiều nay buồn lắm em ơi…’. DòngNhạcXưa chúng tôi không dám khẳng định người biểu diễn đã cố tình sửa lời hay chỉ là vô tình quên lời hát nhưng việc sai hai chữ đó đã làm cho tình cảm mà nhà nhạc sỹ gởi gắm vào đứa con tinh thần bị mất đi khá nhiều.
Bản này được Lam Phương sáng tác và cho xuất bản đầu thập niên 1970. Theo tờ nhạc in trước 1975 (mình sưu tầm từ trang NhacXua.vn) thì năm lưu hành là 1973.
Để hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về hoàn cảnh ra đời của ‘Tình bơ vơ’.
Số là cuối thập niên 1950, Lam Phương (sinh năm 1937) khi đó ngoài 20 và đã thành danh ở mảnh đất Sài Gòn hoa lệ. Còn Bạch Yến (sinh năm 1942) chỉ là một thiếu nữ chưa tròn 18 có tài năng ca hát. Lúc này Lam Phương cũng có ít nhiều tình cảm với Bạch Yến nhưng do cô trẻ quá nên mọi chuyện cũng không đến đâu.
Năm 1959 Lam Phương lập gia đình với nữ kịch sỹ Túy Hồng, linh hồn của ban kịch Sống sau này.
Năm 1961 Bạch Yến lên đường sang Pháp vừa học thêm về nhạc, vừa tham gia biểu diễn. Sau đó bà sang Mỹ và thành công rực rỡ trên xứ Hoa Kỳ. Dù đã lập gia đình nhưng với trái tim đa cảm của một người nghệ sỹ, Lam Phương đã gởi gắm tình cảm rất kín đáo cho Bạch Yến qua bản ‘Chờ người’ mà trong đó có câu:
‘Chờ em, chờ đến bao giờ Mấy thu, thuyền đã xa bờ … Mười năm trời chẳng thương mình Để anh thành kẻ bạc tình…’
Ông không trách ai hết, chỉ trách bản thân mới chính là người bội bạc!
Nhưng mọi chuyện chưa chấm dứt. Đằng đẵng 10 năm xa xứ, khi Lam Phương đã yên bề gia thất với Túy Hồng thì Bạch Yến lại về thăm quê rồi lại ra đi một lần nữa. Và đây mới chính là cảm xúc để Lam Phương viết nên một ‘Tình bơ vơ’ bất hủ:
‘Trời vào thu, Việt Nam buồn lắm em ơi… Về làm chi, rồi em lặng lẽ ra đi…’
Đôi điều hiểu biết bé mọn xin ghi lại để người yêu nhạc hiểu hơn về ‘Tình bơ vơ’.
Một trong những nhạc sỹ để lại dấu ấn sâu đậm nhất cho nền nhạc của miền Bắc nước ta là nhạc sỹ Đỗ Nhuận. DòngNhạcXưa xin giới thiệu đến người yêu nhạc đôi nét về nhà nhạc sỹ gạo cội của chúng ta.
Đỗ Nhuận (1922 – 1991) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam[1] khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng. Đỗ Nhuận còn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera với vở Cô Sao, cũng là tác giả của bản “Du kích sông Thao” nổi tiếng.
Nhạc sỹ Ánh Dương được người yêu nhạc biết đến qua ca khúc nổi tiếng ‘Chào em cô gái Lam Hồng’, bản nhạc ông sáng tác năm 1967. Nhạc sỹ vừa mãi mãi chia tay chúng ta sáng ngày 08/11/2022. DòngNhạcXưa cầu mong linh hồn ông mau chóng siêu thoát và vui sống đời đời ở cõi vĩnh hằng.
Nhạc sĩ Ánh Dương thời trẻ. Ảnh: Gia đình cung cấp.
Nhạc sĩ Văn Chung (1914 – 1984) thuộc thế hệ tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam, ông là tác giả của những nhạc phẩm nổi tiếng Bóng ai qua thềm, Trên thuyền hoa…
Nhạc sỹ Thẩm Oánh sinh ngày 14/08/1916 tại Hà Nội và mất ngày 02/01/1996 tại Hoa Kỳ. Ông là một trong số ít các nhạc sỹ tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam.
Thẩm Oánh tên thật là Thẩm Ngọc Oánh, sinh năm 1916 trong một gia đình trung lưu ở Hà Nội. Thuở nhỏ học nhạc qua sách viết bằng tiếng Pháp.
Nhạc sỹ Thẩm Oánh (1916 – 1996). Ảnh: Wikipedia.
Năm 18 tuổi, ông bắt đầu dạy nhạc tại vài trường trung học như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trưng Vương.
Năm 1945, ông thành lập đài phát thanh Hà Nội (thay cho đài của Pháp trước đó)
Năm 1955, ông giữ chức Giám đốc trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn cho đến khi trường đóng cửa năm 1958. Ngoài ra, ông còn giữ chức Phó hội trưởng Việt Nam Nhạc Hội, chủ bút nguyệt san Việt Nhạc.
Thẩm Oánh cùng gia đình sang định cư tại vùng thủ đô Washington, D.C. vào năm 1991. Vợ ông, bà Trần Anh Đào cũng là một nhạc sĩ và là em họ của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Hai người quen biết nhau vào năm 1938 qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, và thành hôn vào năm 1948.
Vào tháng 4 năm 1993, Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương vùng Washington DC đã tổ chức một đại nhạc hội với chủ đề “60 Năm Âm nhạc Thẩm Oánh”. Đồng thời đã cho phát hành tuyển tập “Nhớ Nhung” để vinh danh một nhạc sĩ đã tận tụy đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam và cũng để tri ân một vị giáo sư đã giảng dạy âm nhạc nhiều năm tại các trường Trưng Vương, Chu Văn An và Nguyễn Trãi.
Vào ngày 2 tháng 1 năm 1996, nhạc sĩ Thẩm Oánh ra đi, để lại nhiều tiếc nuối cho mọi người. Ông hưởng thọ 80 tuổi.
Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam đều có chung nhận định về thời điểm khai sinh ra nền tân nhạc: đó là cột mốc 1938 với dấu ấn là cuộc lưu diễn quảng bá tân nhạc của ca sỹ & cũng là nhạc sỹ tiên phong Nguyễn Văn Tuyên.
Cho tới nay hầu hết những nhà phê bình đều đã công nhận ca khúc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam là bài Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu sáng tác 1930. Trước khi sáng tác bài Cùng nhau đi Hồng binh, Đinh Nhu đã từng viết lời ca mới cho nhiều bài hát cách mạng dựa theo các điệu hát nước ngoài. Sau Cùng nhau đi Hồng binh, cũng có nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên, Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung, Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương.
Tuy nhiên, tân nhạc chỉ thực sự hình thành vào năm 1938 được đánh dấu bởi buổi biểu diễn của Nguyễn Văn Tuyên trình bày chính tác phẩm của ông ở Hà Nội.
Nguyên Văn Tuyên sinh năm 1909 ở Huế. Ông được học nhạc Tây từ lúc nhỏ, tự học căn bản từ những sách giáo khoa về lý thuyết âm nhạc của Pháp.
Năm 1936 ông di cư vô Sài Gòn và trở thành người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique) ở Sài gòn. Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và radio (truyền thanh).
Năm 1937 ông phổ bài thơ Kiếp Hoa của bạn ông Nguyễn Văn Cổn và viết thành ca khúc đầu tay cùng tên. Thống đốc Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó Pagès nghe ông hát và mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt Nam để quảng bá những bài nhạc mới này.
Năm 1938, Nguyên Văn Tuyên có những buổi biểu diễn và diễn thuyết ở Huế, Hải Phòng và Hà Nội. Những bài hát đầu tiên của ông khi đó là Kiếp hoa, Bông cúc vàng và Anh hùng ca. Sau đó tờ Ngày Nay của Nhất Linh đã xuất bản một vài tác phẩm của Nguyễn Văn Tuyên cùng với của các nhạc sĩ khác. Nguyễn Văn Tuyên tiếp tục trình diễn ở Hải Phòng và Nam Định cho những khán giả nhiệt tình.
Những bài hát đó bắt đầu lan truyền phổ biến, các nhóm Myosotis và Tricéa cùng các nhạc sĩ khác cũng bắt đầu tung ra những ca khúc của mình. Tân nhạc Việt Nam hình thành.
Theo đánh giá của các nhà phê bình, tuy là người khai sinh ra tân nhạc, nhưng những sáng tác của Nguyễn Văn Tuyên không thực sự có giá trị nghệ thuật cao, nên với thời gian chúng đã bị quên lãng.
Ông qua đời ngày 30 tháng 4 năm 2009 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 100 tuổi.