Nha Trang, mùa thu lại về (Văn Ký)

[dongnhacxua.com] vừa có dịp về thăm lại quê hương Nha Trang và tham gia vài hoạt động âm nhạc cùng bạn bè thân hữu. Chúng tôi rất vui khi thấy Nha Trang ngày một đẹp hơn và văn minh hơn. Những ngày giữa cuối tháng 8 này, trời Nha Trang đã chớm bước vào mùa thu. Dạo bước trên đường Trần Phú lộng gió và mặn mòi vị biển hay rảo bước trên những con đường vắng ngập tràn hương hoa mang lại cho chúng tôi một cảm giác thật thú vị về một mùa thu Nha Trang. Trong niềm cảm xúc ấp, hôm nay [dongnhacxua.com] xin mời quý vị yêu nhạc nghe lại bản ‘Nha Trang, mùa thu lại về’ của nhạc sỹ Văn Ký.
Theo tư liệu chúng tôi có được thì nhạc sỹ Văn Ký lần đầu tiên ghé thăm thành phố biển Nha Trang vào tháng 08/1975, tức chỉ vài tháng sau khi tiếng súng không còn vang trên dải đất hình chữ S chúng ta. Nhưng phải đợi đến hai năm sau, 1977, thì bản nhạc này mới ra đời. Nhạc sỹ Văn Ký vốn trưởng thành trong nền nhạc miền Bắc và bài này ra đời vào thời điểm ngay sau chấm dứt chiến tranh nên tất nhiên là sáng tác của ông không tránh khỏi đôi chút ‘ý thức hệ’ ví dụ như ‘con đường cách mạng’, ‘đoàn quân chiến thắng’, … Tuy nhiên vượt lên trên hết, ‘Nha Trang, mùa thu lại về’ là một bản nhạc đẹp cả về lời ca lẫn giai điệu, thể hiện niềm vui, niềm tự hào về một trong những thành phố biển đẹp trên thế giới mang tên NHA TRANG.

nha-trang-mua-thu-lai-ve--2--van-ky--baicadicungnamthang.net--dongnhacxua.com
Nha Trang, mùa thu lại về (Văn Ký). Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

[footer]

Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn)

Với những ai đã từng gắn bó với một làng quê Việt Nam thanh bình, hình ảnh nắng chiều vương trên ruộng lúa, lũy tre hay hàng cây ven đường sẽ đọng mãi trong tâm trí, dù chúng ta có ở phương trời nào. Trong niềm cảm xúc ấy, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Nắng chiều’ của nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn và bài viêt của nhà báo Hà Đình Nguyên.

Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

nang-chieu--1--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nang-chieu--2--le-trong-nguyen--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: THOÁNG GẶP, THOÁNG YÊU TRONG NẮNG CHIỀU 
(Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên ThanhNien.com.vn ngày 11.11.2011)

Có thể nói nhạc phẩm Nắng chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy – rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Có thể nói nhạc phẩm Nắng chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy – rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Trong một lần ngồi uống bia ở 81 Trần Quốc Thảo (TP.HCM), anh bạn vong niên của tôi – nhà thơ Mịch La Phong khăng khăng bảo rằng ca khúc Nắng chiều là do Lê Trọng Nguyễn “cóp” lại từ một ca khúc nước ngoài. Rồi anh hát bài này bằng tiếng Anh, giọng… Quảng Nam nghe rất buồn cười: “Ai rí mem bờ tú du ờ gần. Xờm thài a crái in đơ mun lai. Goen í vơ ning sơ rúm bi sần. Ón rai lầu mí thói ờ lền thai…”. Tôi phản đối: “Theo nhiều tài liệu thì Nắng chiều không chỉ có bản tiếng Anh mà còn cả tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Thái Lan và cả tiếng Campuchia nữa…”. Qua bài này, người viết cố gắng làm sáng tỏ sự ngộ nhận không chỉ của bạn tôi mà có lẽ còn của nhiều người nữa.

Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Lê Trọng Nguyễn sinh năm 1926 tại Điện Bàn (Quảng Nam). Ông tên thật là Lê Trọng, còn chữ Nguyễn là họ của mẹ (sau này vợ ông cũng ghép tên ông vào trước tên mình: Lê Trọng Nguyễn Thị Nga). Cha mất sớm, bà mẹ trẻ chấp nhận ở góa để nuôi ông và người em gái cho đến lúc trưởng thành… Có lẽ cơ duyên để ông đến với âm nhạc là do có một thời kỳ (1942-1945) ông sống ở Hà Nội và làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Sau này, ông học hàm thụ Trường École Universelle (Pháp) và trở thành hội viên Hội Nhạc sĩ Pháp SACEM (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique). Ca khúc đầu tay Ngày mai trời lại sáng được viết năm 1946. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh (Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà giang, Sao đêm…). Tuy nhiên, nói đến Lê Trọng Nguyễn là người ta nghĩ ngay đến ca khúc Nắng chiều.

Lai bóng hồng trong một bản nhạc

Chất “bột” để “gột nên hồ” đầu tiên cho Nắng chiều là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì. Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.

Một thời gian sau, Lê Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh. Chính từ những chuyến đi chơi này mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất bột” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa khôi của đất thần kinh. Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua. Bóng dáng thướt tha ấy “ngược sáng” trong ánh tà dương. Nhìn “cô này”, bất giác Nguyễn… nhớ “cô kia” quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều. Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa. Khi đến cuối thôn chân bước không hồn. Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…”. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong Nắng chiều (1952). Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim Tước…) nên khi bản Nắng chiều được xuất bản, chính Minh Trang là người hát và thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng chiều lan tỏa khắp Trung – Nam.

Nắng chiều và hai bóng hồng… ngoại

Ảnh ca sĩ Midori Satsuki với thủ bút và chữ ký đề tặng Mr. Lê Trọng Nguyễn
Ảnh ca sĩ Midori Satsuki với thủ bút và chữ ký đề tặng Mr. Lê Trọng Nguyễn

Năm 1957 ban nhạc Toho Geino (Nhật Bản) sang Việt Nam lưu diễn, và họ đã nhờ phía Việt Nam chọn 12 ca khúc đang nổi tiếng trong nước để tập và sẽ hát “giao lưu” với khán giả. Duyên trời đã đưa đẩy nữ ca sĩ Midori Satsuki chọn hát Nắng chiều và cô đã được khán giả ở Hội chợ Thị Nghè hoan hô nhiệt liệt. Thích quá, Midori Satsuki quyết định chuyển soạn cho Nắng chiều có cả lời Nhật lẫn lời Anh (với tựa Evening sunshine hoặc Afternoon sun), và cô đã thể hiện rất thành công trên đài phát thanh Sài Gòn và Tokyo trong suốt nhiều năm với bản nhạc “tủ” này. Vậy là Nắng chiều không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang vọng khắp xứ Phù Tang… Từ cái “duyên” do Nắng chiều đem tới, tác giả ca khúc và người thể hiện đã gặp gỡ nhau, rồi tỏ ra rất “tâm đầu ý hợp”. Họ đã có một thời gian bên nhau thật đẹp khi ở Việt Nam và khi Midori Satsuki về nước họ vẫn giữ liên lạc qua thư từ (năm 2004, gia đình cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và những người thực hiện CD Lê Trọng Nguyễn Collection ở California (Mỹ) đã liên lạc được với bà Midori Satsuki. Bà vẫn còn làm việc ở Đài truyền hình Tokyo và xác nhận là mình vẫn còn nhớ bản Nắng chiều).

Chưa hết, năm 1960 cô ca sĩ Đài Loan tên Kỷ Lộ Hà đến Đà Nẵng trình diễn và đã làm khán giả Việt Nam bất ngờ khi cô hát Nắng chiều bằng tiếng Hoa do Thận Chi đặt lời. Thận Chi (1928-1988) là một tên tuổi lớn của Đài Loan trong lĩnh vực biên kịch và soạn nhạc. Ông cũng thành công trong việc đặt lời Hoa cho nhiều ca khúc quốc tế, trong đó có Nắng chiều… Khi biết tác giả của Nắng chiều đang ở Hội An, Kỷ Lộ Hà đã đến gặp để xin phép về mặt tác quyền. Tuy Lê Trọng Nguyễn không chính thức thừa nhận nhưng nhiều người trong giới, cùng thời với Lê Trọng Nguyễn đã tiết lộ rằng ngay trong cuộc gặp ấy, “Đài ca nương” đã bị “Việt nhạc lang”… hớp hồn bởi nét hào hoa, lịch thiệp – thậm chí nàng còn viết thư cho chàng.

Nghĩ cũng… ngộ, Nắng chiều được hình thành từ cảm hứng do hai giai nhân “nội” mà tác giả thoáng gặp, thoáng yêu đem lại. Rồi Nắng chiều nổi tiếng lan ra hải ngoại lại cũng do hai bóng hồng “ngoại” đến với nhạc sĩ: gặp một thoáng, yêu một thoáng. Thoáng tụ, thoáng tan như vạt nắng chiều.

Hà Đình Nguyên

Mùa thu còn đó (Châu Kỳ)

Liên quan đến bản “Mùa thu chết” có lắm điều thú vị. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Mùa thu còn đó” của nhạc sỹ Châu Kỳ. Theo nhiều tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được thì bản này nhạc sỹ Châu Kỳ viết như là một lời đáp cho nhạc sỹ Phạm Duy để khẳng định “mùa thu” vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng người yêu nhạc.

Mùa thu còn đó (Châu Kỳ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa thu còn đó (Châu Kỳ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

mua-thu-con-do--1--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-thu-con-do--2--chau-ky--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

[footer]

Đi tìm nhành hoa thạch thảo

Nhân nói về bản ‘Mùa thu chết’ và hoa thạch thảo, [dongnhacxua.com] xin gởi thêm một bài viết cũng khá công phu về loài hoa đặc biệt này. Chúng tôi không đủ am hiểu về hoa cỏ để có nhận định của cá nhân mà chỉ mong qua bài viết này để người yêu nhạc có thêm thông tinđa chiều.

ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO 
(Nguồn: bài viết của tác giả Lê Duy Đoàn đăng trên art2all.net)

thach-thao-1-art2all.net--dongnhacxua.com

Những người có chút máu văn nghệ một lúc nào đó nổi hứng, thường buột miệng hát đôi câu vu vơ. Những câu hát nằm trong bộ nhớ có khi chỉ là một đoạn của bài hát. Khúc đầu, khúc giữa, khúc đuôi, khúc nào cũng được, tự nhiên bật ra như radio bắt được tần số dò đài, những bài hát cóp nhặt trên dòng đời một cách có ý hay vô tình nghe đâu đó thỉnh thoảng được hát nho nhỏ như thế..

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, ?
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi…  

Đó là câu hát tôi thường nghêu ngao nhất, có lẽ vì không gian đượm buồn nhè nhẹ của lời bài hát, mà cũng vì trong câu hát có tên một loài hoa gây ấn tượng vì vẻ huyền hoặc của nó.

Có lẽ với người Tây phương, người ta biết ngay hoa thạch thảo là hoa gì, một cái gì thấy được, ngắt được,thậm chí ngữi được mùi hoa ngát hương của nó. Trừ những người đã đi Tây và có quan tâm tìm hiểu thì còn có thể biết chứ phần nhiều người Việt chúng ta thật ra đọc thì đọc, hát thì hát chứ chẳng biết hoa thạch thảo là hoa gì, mặt mũi vóc dáng ra sao ?!

Bài viết này không bàn luận gì về bài thơ L’ Adieu mà Búi Giáng đã dịch và Phạm Duy đã phổ nhạc, tôi chỉ muốn nhân câu chuyện liên quan đến bài thơ để đi tìm ra một cành hoa đúng thật là một cành hoa thạch thảo đặt lên mộ của Léopoldine tiếc thương người bạc mệnh.

Léopoldine là con gái cưng của Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy 20 tuổi và đang mang thai 4 tháng. Hugo chỉ biết tin con mất khi ông vô tình đọc một tờ báo ở quán cà phê nọ. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi. Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913.

L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

Lời vĩnh biệt ( dịch)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…

Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)

Cũng dựa trên ý thơ của bài thơ nói trên, năm 1965, Phạm Duy viết bài “Mùa thu chết” mở đầu bằng 2 câu:

“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!

Bùi Giáng thì dịch “ hái nhành lá” còn Phạm Duy thì viết “ ngắt cụm hoa”. Đây là khởi đầu của những suy diễn sai lầm của nhiều người viết về hoa thạch thảo.

Ngắt cụm hoa trong lời nhạc của Phạm Duy gợi hình ảnh một “cây thân thảo”, hình ảnh người ngắt cụm hoa là hình ảnh một người cúi xuống một bụi hoa .

Hái nhành lá cây trong câu thơ dịch của Bùi Giáng gợi hình ành một cây “hoa thân mộc” cao vừa tầm hái. 

1. Những cây không phải là Hoa Thạch Thảo nhưng bị ngộ nhận:

Việc ngộ nhận hoa thạch thảo của người đọc bài thơ dịch và và lời bài hát nầy có nguyên do từ tên gọi tiếng Việt, một sự đồng hóa, lồng ghép khiên cưởng của chữ nghĩa do tên gọi giống nhau.

a. Ngoài Bắc, người ta gọi Cúc cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối) là thạch thảo, cúc thạch thảo nên nhiều người cứ thản nhiên coi cây hoa thạch thảo trong bài thơ nói trên là cây cúc cánh mối .

Cây có nguồn từ châu Âu, châu Á. Cúc cánh mối là cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ có thân rễ mọc bò dưới đất. Thân cao 15 – 50 cm, đơn hay phân nhánh ít ở ngọn. Lá dài, thuôn hình giáo tù, hơi có lông mịn, nguyên, các lá ở thân không có cuống. Cụm hoa hình đầu đơn độc ở ngọn các nhánh. Vòng hoa đều dài, cánh môi thuôn hẹp, thẳng màu lam tím. Các hoa ở ngoài hình lưỡi, màu lam tím, dài 1 cm. Hoa giữa hình ống hẹp màu vàng, xếp sát nhau. Hoa thường màu tím nhạt. Quả bế có mào lông mịn màu vàng.

Cúc cánh mối, tên Aster amellus L, hay còn gọi là cúc thạch thảo, là một loài thuộc chi Cúc sao (Aster) thuộc về Họ Cúc (Asteraceae). Tên tiếng Anh European Michaelmas Daisy, tiếng Pháp Oeil de Christ. 

cuccanhmoi2  Như vậy, có thể nói ngay Cúc cánh mối không phải là cây hoa thạch thảo. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ việc trùng tên theo cách gọi của người miền Bắc Việt nam mà thôi. 

Rất nhiều bài viết trên mạng internet về hoa thạch thảo kể một câu chuyện tình lãng mạn của đôi thanh niên nam nữ có tên hẳn hoi. Có thể đó là một câu chuyện bịa như hầu hết truyền thuyết, cố ý tạo một câu chuyện đầy kịch tính rồi gán ghép vào xuất xứ tên gọi một loài hoa. “Ami và Edible thường hay cùng nhau vào rừng. Ami hái nấm còn Edible săn thú. Rồi, Edible vươn người ra vách đá dựng hái hoa thạch thảo cho Ami. Edible sẩy chân rơi xuống vực chỉ kịp nói xin đừng quên tôi”, (kèm theo bài viết là hình chụp Cúc cánh mối để minh họa) .

Bắt đầu từ đây, những bài viết đó kéo thêm những ngộ nhận tiếp theo “Ban đầu họ đặt tên cho nó là Forget me not, sau nhiều năm và được trồng ở nhiều nước nó lại có những cái tên khác nhau như Muguet De Mai (Pháp), Thạch Thảo (Việt Nam)…”
 

b. Chính hoa 5 cánh tiếng Việt gọi là Hoa Lưu Ly mới là hoa Forget me not

Trong một số ngôn ngữ, tên của hoa lưu ly được gọi là hoa “xin đừng quên tôi“. Tên tiếng Anh “Forget me not” được mượn từ tên tiếng Pháp là “Ne m’oubliez pas” và được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1532.

Myosotis alpestris
Myosotis alpestris

Có khoảng 50 loài lưu ly trong chi này, và chúng khác biệt nhau một cách đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn các loài có chung các đặc điểm được miêu tả như hoa màu lam tím nhỏ (đường kính 1 cm) với 5 cánh hoa mọc dày dặc trên các thân cây bò lan um tùm, ra hoa vào mùa xuân. Các loại màu sắc khác của hoa cũng không phải là bất thường trong chi này, với các dạng màu hồng hay trắng vẫn có thể tồn tại. Chúng hay được trồng trong vườn và các giống trồng thường có hoa với màu sắc hỗn tạp.

Các loài lưu ly có thể là cây một năm hoặc cây lâu năm. Hệ thống bộ rễ của chúng nói chung là rễ chùm. Hạt của chúng được tìm thấy trong các quả dạng quả đậu nhỏ, hình tulip dọc theo thân tới hoa. Quả đậu bám vào quần áo khi va chạm phải chúng và cuối cùng rơi xuống đất, giải phóng các hạt nhỏ để chúng có thể nảy mầm ở mọi nơi.

Họ (familia):

Boraginaceae

Phânhọ  (subfamilia):

Boraginoideae

Chi  (genus):

Myosotis

Đây chỉ là sự gán ghép tên gọi. Dựa vào lời của người bạn trai nói với bạn gái khi rơi xuống vực trong câu chuyện thương tâm nói trên để cho rằng hoa thạch thảo còn có tên gọi là forget me not là một sai lầm ấu trỉ.

c. Thêm một loài hoa được kéo vào đây để tung hỏa mù làm người đọc không biết đâu mà lần là Muguet De Mai (Pháp).

Hoa này có tên là Hoa Linh Lan, trong tiếng Anh còn được gọi là Our Lady’s tears (Nước mắt của Mẹ). Các tên gọi khác trong tiếng Anh là May Lily (huệ tháng Năm), May Bells (hoa chuông tháng Năm), Lily Constancy (huệ chung thủy), Ladder-to-Heaven (thang tới thiên đường), Male Lily.

Theo truyền thống, hoa linh lan được bán tại Pháp trên các đường phố vào ngày 1 tháng 5. Kể từ năm 1982, hoa linh lan là quốc hoa của Phần Lan.

Bộ (ordo):

Asparagales

Họ ( familia):

Ruscaceae

Chi (genus):

Convallaria

Loài (species):

C. majalis

Linh lan hay lan chuông (danh pháp khoa học: Convallaria majalis, L, là loài duy nhất trong chi Convallaria thuộc một họ thực vật có hoa là họ Ruscaceae. Nó có nguồn gốc trong khu vực ôn đới mát của Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nó là một loài cây thân thảo sống lâu năm có khả năng tạo thành các cụm dày dặc nhờ loang rộng theo các rễ ngầm dưới mặt đất gọi là thân rễ. Các thân rễ này tạo ra rất nhiều chồi mỗi mùa xuân. Thân cây cao tới 15–30 cm, với hai lá dài 10–25 cm và cành hoa bao gồm 5-15 hoa trên đỉnh ngọn thân cây. Hoa có màu trắng (ít khi hồng), hình chuông, đường kính 5–10 mm, có mùi thơm ngọt; nở hoa về cuối mùa xuân. Quả của nó là loại quả mọng màu đỏ, nhỏ với đường kính 5–7 mm. Nó là một loại cây cảnh trồng phổ biến trong vườn vì các hoa có mùi thơm của nó.

convallaria-majalis--art2all.net
Convallaria majalis
Hoa lan chuông
Hoa lan chuông

Kết 1: Cúc cánh mối (Aster amellus L), forget me not hay còn gọi là hoa lưu ly (Myosotis), Linh lan hay lan chuông (Convallaria majalis,L), cả 3 loài đều không phải là Cây Hoa Thạch Thảo.

2. Hoa Thạch Thảo là cây gì ?

Guillaume Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913. Bài thơ được viết lên một phần là để tưởng nhớ Victor Hugo, một phần là tiếc thương người bạc mệnh. 

Câu đầu:

J’ai cueilli ce brin de bruyère,

được Bùi Giáng dịch rất sát:

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo,

Brin de bruyère là nhánh, cành, nhành cây thạch thảo. Có lẽ Bùi Giáng cũng không biết cây thạch thảo ra sao, nên cứ bám vô chữ mà dịch cho chắc ăn. Mấy câu dưới ý tứ thoáng hơn nên có thể dịch thoát cũng được. Còn Phạm Duy phổ nhạc nên lại càng thoáng hơn một chút nữa. Cành lá hay cụm hoa cũng được, có hoa hay chỉ trơ cành cũng chẳng sao, thì cứ chữ gì động được đến tầng vi tế rung động của con tim là phổ. Phạm Duy có biệt tài phổ nhạc, ý nhạc nâng ý thơ, nên những bài thơ ông phổ hầu như tất cả đều nổi tiếng và đôi khi làm những nhà thơ vô danh cũng nổi tiếng theo.

Điều chính yếu của bài viết này là tìm ra đúng cây Hoa Thạch Thảo mà Apollinaire đã từng hái nhành hoa và đặt lên mộ Léopoldine vào ngày cuối thu (16/9).

Cây Hoa thạch thảo

Tên Hoa : 紅方柏 (hồng phương bách), 石楠 thạch nam)
Tên Anh : heather
Tên Pháp: bruyère
Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae)

Tất cả các loại thạch thảo đều trong Họ Ericaceae, có một loài hoa thạch thảo duy nhất thuộc Chi Calluna, ngoài ra là Chi Erica. Dưới đây là một số loài thuộc Chi Erica trong hàng vài trăm loài khác nhau trên thế giới.

Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loài cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.

cay_thachthao--art2all.net
Cây thạch thảo
hoathachthao-art2all.net
Hoa thạch thảo

Chi Erica gồm nhiều loài khác nhau từ loài cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.

– Erica arborea, cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.

– Erica carnea, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng. Phân bố ở vùng núi Alpes

– E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím từ Tây Âu cho đến Đan mạch.

– Erica ciliaris phân bố ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, bán đảo Ibériquevà Bắc Maroc.

– E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng ở Tây Âu 

– E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.

– E. lusitanica mọc rậm rạp có hoa trắng hồng phân bố ở Tây ban nha và Bồ Đào Nha và ở vùng bán đảo Iberia.

– E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath

– Erica mammosa là loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác.

Có thể kể thêm một số loài :

Erica australis phân bố ở Bắc Maroc, Erica ciliaris ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, Erica cinerea, Erica erigena, Erica mackaiana, Erica manipuliflora, Erica multiflora, Erica scoparia, Erica sicula, Erica terminalis, Erica tetralix, Erica umbellata.

Những loài này phân bố cùng khắp nên tôi chỉ để ý đến những loài cư trú ở vùng Normandi là bờ biển phía Tây của nước Pháp và phân bố rộng rải ở Anh quốc.

Sau khi đã nghiên cứu, phân loại và loại suy cùng đối chiếu với hình ảnh hoa thạch thảo trong văn chương, văn bản. Tôi đi đến kết luận:

Kết 2: Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt chính là Cây Hoa Thạch Thảo mà tôi muốn tìm.

Loài hoa này gốc ở Châu Âu, nhờ mấy nhà thơ, nhà văn nên nó mới thành hoa kiểng, chứ trước kia thế kỷ 17 -19 nó là hoa dại. Ở miền bắc nước Anh cây hoa thạch thảo này mọc đầy đồng, giống như cỏ tranh ở Việt Nam. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp mái, ken vách và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Bây giờ di cư sang Châu Mỹ nó thành Cô Bé Thị Thành đỏng đảnh ỏ trong các tiệm bán hoa, chứ ngày xưa nàng gốc nhà quê rặt.

Ai từng đọc qua truyện Ðỉnh Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronte chắc cũng nhớ đến những cánh đồng hoang (moors) mọc đầy hoa thạch thảo (heather), và tiếng hót líu lo của những con chim chiền chiện (moor-lark). Hoa thạch thảo là loài hoa mà chính tác giả, Emily Bronte yêu thích, nàng đã nhiều lần đưa nó vào truyện và thơ của mình. (1)

Hành trình đi tìm Nhành Hoa Thạch Thảo khởi đi từ những ngộ nhận về một loài hoa đã đi vào văn thơ của thế giới và thơ nhạc Việt nam. Người ta thường muốn biết chân dung thật sự người trần mắt thịt của một Nàng Thơ là như thế nào. Vì thế mới có Ngô Vũ Bích Diễm của Diễm xưa, có Ngô Vũ Dao Ánh của Thư Tình Gửi Một Người, Minh Đức Hoài Trinh của Đừng Bỏ Em Một Mình, Khánh Ngọc của Nửa Hồn Thương Đau….

Nhành Hoa Thạch Thảo cũng là một Nhành Thơ trong tâm hồn của nhiều người Việt.

Chân dung Nàng đã hiển lộ nhưng nét duyên của Nàng không bao giờ phai mờ.

Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo,

Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em…

Lê Duy Đoàn
Sài gòn, 06/01/2013 

_________________
 Trích:
(1) Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung

[footer]

Hoa Thạch Thảo và Mùa Thu Chết

Tiếp nối dòng nhạc xưa về mùa thu, chúng tôi xin giới thiệu “Mùa thu chết” của nhạc sỹ Phạm Duy, một bản nhạc có giai điệu đẹp và có rất nhều điều thú vị trong ca từ. Được sự cho phép của tác giả, [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân.

Mùa thu chết (Phạm Duy). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa thu chết (Phạm Duy). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

mua-thu-chet--1--pham-duy--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-thu-chet--2--pham-duy--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com mua-thu-chet--3--pham-duy--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

HOA THẠCH THẢO VÀ MÙA THU CHẾT 
(Nguồn: bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân đăng trên vnweblogs.com ngày 03/07/2010)

Mở đầu

Một trong những bản nhạc nói về mùa thu hay diễn tả mùa thu nổi tiếng ở Việt Nam vào thập niên 70 phải kể đến bài nhạc Mùa Thu Chết của Nhạc sĩ Phạm Duy. Lời viết trong bản nhạc phỏng theo một bài thơ ngoại quốc. Trong bản nhạc, ngay câu đầu tiên có nói đến hoa thạch thảo: “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”. Hoa thạch thảo cũng được nói đến trong rất nhiều bài thơ văn hay nhạc khác từ trong nước đến hải ngoại. Vậy hoa thạch thảo ở Việt Nam và hoa thạch thảo trong bài thơ L’Adieu của nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Guillaume Apollinaire, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc cũng như trong bài thơ dịch của nhà thơ Bùi Giáng khác nhau, có tên Latin ra sao và thuộc họ hay gia đình nào?

Bài viết ngắn này phân biệt hai loại hoa mang tên thạch thảo, một loại mang tên nguyên thủy ở miền Bắc Việt Nam và hoa thạch thảo có xuất xứ ở Ấu châu. Những bàn luận về lý do và tình tiết làm sao bài thơ được ra đời cũng được thu thập và ghi nhận ở đây.

Hoa thạch thảo ở Việt Nam

Hoa Thạch thảo (Aster amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng, trắng. Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép. Hoa Thạch thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở vào mùaThu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn.

Như vậy, hoa Thạch Thảo (hay cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh Mối) là 1 tên Việt của loài Aster amellus L. thuộc họ Cúc (Asteraceae), tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. Nhóm Cúc (cả trồng làm hoa hay mọc hoang) thường được gọi chung là Chrysanthemum/Aster, trong đó các loài mọc hoang thường có 1 chùm lông ở cuối mỗi hột (khi trái chín) và phát tán nhờ gió (nên mọc hoang, rải rác vào mùa xuân khi có nắng ấm ở Âu châu, hoa chỉ sống trong vài tháng!). Các loài cúc trồng thì không phát tán tự nhiên được vì hột không có lông như Vạn Thọ (marigold), cúc Giấy (zinnia). Có loại được trồng từ hột, có loại trồng bằng củ; cúc Thạch Thảo (cúc sao/Aster), và nói chung loại nhiều loại cúc thường trồng từ cây con nhảy chồi (do mọc thành bụi, hoa thường bất thụ). (Tài liệu tổng hợp từ internet).

hoa-thach-thao--1--bacsingan.vnweblogs.com--dongnhacxua.com hoa-thach-thao--2--bacsingan.vnweblogs.com--dongnhacxua.com hoa-thach-thao--3--bacsingan.vnweblogs.com--dongnhacxua.com

Hoa Thạch thảo hay hoa Cúc Cánh mối ở Việt Nam (Hình từ internet)

Hoa Thạch Thảo ở Âu Châu

Hoa Thạch thảo Ấu châu là thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling hay Briar.

Từ điển Sinh Học Anh Việt và Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật dịch heather là cây thạch nam. Erica. Trung hoa gọi là Hồng phương bách hay thạch nam. Từ điển phổ thông Pháp Việt gọi là cây thạch thảo.

Phân loại

Tất cả các loại thạch thảo đều trong gia đình Ericaceae, có một loại hoa thạch thảo duy nhất thuộc giống Calluna, ngoài ra là loại Erica. Dưới đây là một số giống Erica khác nhau trong hàng vài trăm loại khác nhau trên thế giới.

Loại Calluna vulgaris là loại thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.

Loại Ericagồm nhiều giống khác nhau từ giống cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.

– Erica arborea, treeheath, briar, brier: cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.

– Giống Erica carnea, spring heather, winter heather, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng.

– Giống E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím

– Giống E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng

– Giống E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.

– Giống E. lusitanicahay Portugese heath, Spanish heath mọc rậm rạp ở vùng bán đảo Iberia, có hoa trắng hồng.

– Giống E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath

– Erica mammosalà loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác (1)

Calluna vulgaris
Calluna vulgaris
Erica lusitanica
Erica lusitanica

Nếu nói về ý nghĩa của màu hoa thạch thảo thì thạch thảo trắng tượng trưng cho sự che chở, cho sự mong mỏi. Thạch thảo mầu hồng tượng trưng cho may mắn, và màu xanh lạt lavender tượng trưng cho cô đơn, sự hâm mộ thán phục. (2)

Bài thơ L’Adieu

Bài thơ nguyên tác của Guillaume Apollinaire (1880-1918) như sau.

L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

Bản dịch của Bùi Giáng

Bài thơ năm câu trên đây đã đuợc nhà thơ Bùi Giáng dịch như sau.

Lời vĩnh biệt

(1)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...

Nhưng Bùi Giáng không phải chỉ dịch một lần. Nhà thơ Bùi Giáng đã khai triển và tiếp tục viết sang bài thứ hai.

(2)
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam.

Và tiếp tục dịch thoát ý sang bài thứ ba.

(3)
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang.

Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Đi vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)

**

Và dưới đây là: Mùa Thu Chết

Mùa thu chết là tên một bài hát của Phạm Duy sáng tác năm 1965, phổ từ bài thơ tiếng Pháp L’Adieu của Guillaume Apollinaire. Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie (Quang).

“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau…

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ….
Vẫn chờ… đợi em!”

Mùa Thu Chết (Phạm Duy)

Vài hàng tiểu sử Guillaume Apollinaire (28 August 1880-09 November 1918)

Guillaume Apollinaire: tên thật Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris Kostrowitcki, nhà thơ Pháp gốc Ba Lan, sinh ở Roma, Italy.

Nãm 1887 Wilhelm Kostrowitzky cùng gia đình mẹ chuyển về Monaco và học ở Monaco, Cannes. Từ nãm 1899 chuyển về sống ở Paris, làm thơ, viết báo với bút hiệu Guillaume Apollinaire, ông cộng tác với một số tờ báo như La Revue blanche, La Plume và Le Mercure de France. Năm 1903, ông lập ra các tờ tạp chí của chính mình Le Festin d”Esope (November 1903-August 1904) và La Revue immoraliste (1905).

Năm 1912 ông cùng bạn bè thành lập tạp chí “Les soirées de Paris” và làm chủ bút từ năm 1913. Cũng trong năm này in bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Le Pont Mirabeau và trường ca Zone. Năm 1913 ông phát hành tập thơ Alcools (Rượu), và năm 1914 có xuất bản một số bài thơ viết theo kiểu tạo hình. Apollinaire mất ngày 9 tháng 11, năm 1918 tại Paris, Pháp. Mộ ông chôn ở nghĩa trang Père Lachaise ở Paris.

Bàn luận về bài thơ L’Adieu

Apollinaire làm bài thơ L’Adieu làm sau khi đi thăm mộ con gái của Victor Hugo vào ngày 16 September 1913.

Arnaud Laster, Giáo sư văn chương tại trường Sorbonne (University of Paris III), trong một bài viết đã đặt câu hỏi: “Có phải Apollinaire đã viết bài L’Adieu này để tưởng nhớ Victor Hugo sau khi đi thăm mộ người con gái của Hugo tên là Léopoldine đã chết đuối cùng chồng ở biển tại tỉnh Villequier vào năm 1843”. Bài này có thể có liên hệ với bài Demain, dès l’aube và là nguồn cảm xúc để Apollinaire sáng tác bài L’Adieu chăng? (6)

Trước khi tìm hiểu, cần phải nhắc đến bài thơ Demain dès l’aube của Victor Hugo

Bài Demain, dès l’aube là bài thơ Victor Hugo (1802-1885) đã làm vào năm 1847 (đề ngày 03 September 1847) đề tặng con gái đúng 4 năm sau ngày Léopoldine chết (04 September 1843). Sự mất mát lớn lao này đã làm Hugo đau khổ suốt một thời gian dài và ông đã không in thêm tập thơ nào nữa trong mười năm sau cái chết của Léopoldine.

Demain, dès l’aube…

Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne,
Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends.
J’irai par la forêt, j’irai par la montagne.
Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.

Je marcherai les yeux fixés sur mes pensées,
Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,
Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,
Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.

Je ne regarderai ni l’or du soir qui tombe,
Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.

Victor Hugo
03 September 1847
(Les Contemplations- cuốn IV.1856)

Ngày Mai, Từ Rạng Đông

Ngày mai, từ rạng đông lúc trời đồng quê bắt đầu sáng
Cha sẽ đi, Con thấy không cha biết con đang chờ cha
Cha sẽ vượt qua rừng, cha sẽ vượt qua núi.
Cha không thể nào xa cách con lâu dài hơn được nữa
Cha sẽ đi, đôi mắt chãm chú vào suy nghĩ của cha
Chẳng hề màng nhìn chung quanh, không màng nghe một tiếng động
Một mình, không ai biết, lưng còng, hai bàn tay đan nhau
Sầu buồn, và ngày đối với cha cũng tựa như đêm thôi.
Cha sẽ không màng nhìn chiều vàng đang đổ xuống,
Hay những cánh buồm xa đằng phía cảng Harfleur,
Và khi cha đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ của con
Một bó hoa có ô-rô xanh cùng thạch thảo đang nở.
(Sóng Việt phỏng dịch nghĩa)

Cái chết của Léopoldine ảnh hưởng mạnh trên Victor Hugo đến độ ông bị ám ảnh vì cô, ông tự hỏi bây giờ Léopoldine ở đâu sau khi chết. Ông tìm kiếm cô qua khung cửa tối tăm của vĩnh cửu, và ông cũng tìm kiếm cô ở ngoài cỗ quan tài, với hy vọng cô thấy có một bóng người đi qua cỗ quan tài đen mà ông tưởng tượng là được đóng lỏng lẻo, người đó chính là ông đã tìm đến bên cô trong bóng tối thiên thu.

“Dis, qu’as-tu fait pendant tout ce temps-là ? – Seigneur,
Qu’a-t-elle fait ? – Vois-tu la vie en vos demeures ?
A quelle horloge d’ombre as-tu compté les heures ?
As-tu sans bruit parfois poussé l’autre endormi ?
Et t’es-tu, m’attendant, réveillée à demi ?
T’es-tu, pâle, accoudée à l’obscure fenêtre
De l’infini, cherchant dans l’ombre à reconnaỵtre
Un passant, à travers le noir cercueil mal joint,
Attentive, écoutant si tu n’entendais point
Quelqu’un marcher vers toi dans l’éternité sombre ?
Et t’es-tu recouchée ainsi qu’un mât qui sombre,
En disant : Qu’est-ce donc ? mon père ne vient pas !
Avez-vous tous les deux parlé de moi tout bas ?”
[“A celle qui est restée en France,” 393]

Một đoạn thơ khác ông kể lể con gái chết là ông mất tất cả, ông đã chôn vùi cả ước mơ, cả hy vọng, cả tình yêu vào trong nấm mồ mà ông đào trong lồng ngực của ông:

“Qu’ai-je appris ? J’ai, pensif , tout saisi sans rien prendre ;
J’ai vu beaucoup de nuit et fait beaucoup de cendre.
Qui sommes-nous ? que veut dire ce mot : Toujours ?
J’ai tout enseveli, songes, espoirs, amours,
Dans la fosse que j’ai creusée en ma poitrine.
Qui donc a la science ? où donc est la doctrine ?
Oh ! que ne suis-je encor le rêveur d’autrefois,
Qui s’égarait dans l’herbe, et les prés, et les bois,
Qui marchait souriant, le soir, quand le ciel brille,
Tenant la main petite et blanche de sa fille,
Et qui, joyeux, laissant luire le firmament,
Laissant l’enfant parler, se sentait lentement
Emplir de cet azur et de cette innocence !”
[“A celle qui est restée en France,” 395]

Bộ Les Contemplations gồm 6 cuốn sách. Cuốn số 4 gồm 17 bài thơ làm riêng cho Léopoldine có đề tựa Pauca meae (vài câu thơ cho con gái tôi). Những bài đầu trong tập 4 ghi ngày làm 3 năm sau ngày con gái ông chết đuối với người chồng mới cưới cỡ 6 tháng. Sự mất mát Léopoldine là một sự mất mát quá lớn lao, nó ăn sâu vào suy nghĩ của V. Hugo làm ông suy tưởng về ý nghĩa của đời sống và tìm cách giải đáp bí ẩn của cái chết cùng thế giới vô hình. Tìm cách giải thích bí ẩn của cái chết có nghĩa là tìm lại được Léopoldine và giải đáp ðược thắc mắc về cái chết. Tuy Hugo đã không thành công trong việc nối kết được với thế giới vô hình, nhưng ông có lòng tin vào Thông linh học/Tâm linh học (Spiritiualism). Hơn mười năm sau cái chết của Léopoldine , sách đã ghi lại là ông đã tham dự nhiều lần vào ngồi bàn cầu hồn, và đã có lần người gọi hồn đã gọi được hồn Leopoldine lên gặp ông. Tưởng cũng nhắc rằng Victor Hugo được Đạo Cao Đài ở Việt Nam tôn sùng như là một trong ba vị thánh mà họ thờ phụng (Tam Thánh: Sun Yat Sen /Tôn Dật Tiên, Victor Hugo, và Nguyễn Bỉnh Khiêm).(7)

Bài thơ L’Adieu (và cả bài Le Pont Mirabeau) của Guillaume Apollinaire đã là đề tài bàn luận và làm tốn khá nhiều giấy bút cho những ai muốn phân tích và tìm hiểu thơ ông. Lý do vì Apollinaire làm thơ mà không hề bỏ dấu vào bài, thí dụ như dấu phẩy, dấu chấm, hay dấu ngoặc đôi (quotation-marks) tại mỗi câu thơ cần bỏ vào trong ngoặc đôi.

Vì thế khi đọc bài thơ không dấu L’Adieu của ông, hai câu chót làm độc giả phải phân vân không biết đó là do nhân vật với đại danh từ Je ở câu đầu vẫn tiếp tục nói hay là đó là lời trả lời của nhân vật thứ hai, được tạm thời bỏ trong ngoặc cho dễ hiểu như sau :

“Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”

Nếu như hai câu này đã ở trong ngoặc đôi thì rõ ràng là câu trả lời của nhân vật thứ hai:

“Mùi hương thời gian nhành hoa thạch thảo
Và cha nhớ rằng con chờ đợi cha”.

(Với lý luận người chết chờ người còn sống xuống âm phủ với mình chứ người chết làm sao trở lại trần gian như ông đã than ở câu trên).

Lối làm thơ mang vào trong ngoặc đôi của Victor Hugo rất quen thuộc vì ông luôn đóng vai người cha hỏi hay nói rồi trả lời thay cho con như thể chính người con gái nói với ông.

Kết luận

Tóm lại, liệu bài thơ L’Adieu có thể xem như là do Guillaume Apollinaire cảm tác và tưởng niệm Victor Hugo một cách gián tiếp sau khi thăm nhà mồ của Léopoldine và đọc bộ sách Les Contemplations của Victor Hugo không?

Và nếu đúng như thế thì ba câu đầu của bài thơ L’Adieu có thể hiểu như là Apollinaire đã viết thay lời của V. Hugo để nói với con gái đã chết, và trong hai câu chót người con gái yêu của V. Hugo đã trả lời rằng cô mong muốn và chờ gặp lại cha cô ở thế giới vô hình? Hiểu như thế chúng ta sẽ không còn có thắc mắc cho câu chót trong nguyên tác “Et souviens-toi que je t’attends” và trong những bản dịch của nhà thơ Bùi Giáng.

L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

(Guillaume Apollinaire)

Và bài thơ mà Bùi Giáng dịch:

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó …

(Bùi Giáng dịch)

Có thể hiểu như sau:

Cha đã hái nhành lá cây thạch thảo
Con nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé con đợi chờ cha đó

(Sóng Việt thay đại danh từ)

Hoặc có thể vì Appollinaire biết rằng V. Hugo tin vào Thông linh học, và Hugo đã có lần được tiếp xúc với Leopoldine qua bàn cầu hồn, thì chúng ta cũng có thể cho rằng Apollinaire đã viết thay lời cho V. Hugo nói chờ hồn Leopoldine hiện về thế gian để gặp ông: “Và con nhớ rằng cha chờ đợi con”:

Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

Mùi hương thời gian nhành cây thạch thảo
Và con nhớ rằng cha chờ đợi con.
(Sóng Việt dịch)

Cái khó khăn khi dịch một bài thơ Pháp ngữ sang Việt ngữ là những đại từ nhân xưng. Trong khi Pháp ngữ chỉ có một số chữ cho ngôi thứ nhất và thứ hai như je, me, tu, te, toi, moi, vous, nous, thì trong tiếng Việt đại từ nhân xưng rất phong phú; cách dùng những đại từ nhân xưng này như anh, em, cô, chú, ông, bác, dì, dượng, tôi, con, cháu, mày, tao, v.v cho người đọc biết sự liên hệ thứ bậc, thái độ và tình cảm của những người giao tiếp với nhau. Khi dịch thơ nếu không hiểu biết rõ hoàn cảnh và thời điểm bài thơ được làm nên thì đôi khi sự sai lầm có thể xẩy ra.

Bài thơ L’Adieu mà Bùi Giáng dịch có thể là do cố ý của Bùi Giáng để tạo thành một bài thơ tình cảm nói về sự chia lìa của đôi nhân tình dù ông biết bài thơ nguyên tác có ý nghĩa khác chăng?

Và có thể nhờ do cố ý hay vô tình dịch như thế (dùng chữ ta, em, thay vì cha, con), mà bài thơ đã là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ sáng tác bản nhạc Mùa Thu Chết?

Không có Hoa Thạch Thảo thì làm sao có Lời Vĩnh Biệt,
Không có Lời Vĩnh Biệt thì làm sao có Mùa Thu Chết?

Hoa thạch thảo (bruyère) được nhiều thi sĩ mang vào thơ nhưng có thể nói rằng hoa thạch thảo đã được đời đời gắn liền với bài thơ Demain, dès l’aube của Victor Hugo và L’Adieu của Guillaume Apollinaire.

[footer]

Tiếng chuông chiều thu (Tô Vũ)

Trong một bài viết vĩnh biệt nhạc sỹ Tô Vũ, [dongnhacxua.com] đã giới thiệu sáng tác nổi tiếng nhất của ông: ‘Em đến thăm anh một chiều mưa’ viết trong một chiều đông mưa giăng lối. Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu tiếp một bản viết cho mùa thu: ‘Tiếng chuông chiều thu’.

Tiếng chuông chiều thu (Tô Vũ). Ảnh: CoThomMagazine.com
tieng-chuong-chieu-thu--2--to-vu--cothommagazine.com--dongnhacxua.com

Nhà nhạc sỹ tâm sự (nguồn VnExpress.net):

Nhạc sỹ Tô Vũ. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.com
Nhạc sỹ Tô Vũ. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

Tôi có hai mảng sáng tác, đó là ca khúc lãng mạn và ca khúc cách mạng. Với mảng trước, ban đầu thì bị phê mà bây giờ lại được, vì tính chất lãng mạn. Ví dụ, Em đến thăm anh một chiều mưa, ban đầu bị phê dữ lắm, nhưng đã không bị cấm, bởi vì, lãng mạn mà trong sáng thì vẫn cứ được như thường. Những bài này đa số được tôi viết trong kháng chiến: lãng mạn lúc kháng chiến chứ không phải lúc kháng chiến chỉ nghĩ đến tình yêu.

Với bài hát Tiếng chuông chiều thu, nghe tiếng chuông nhớ người yêu thật. Hy vọng khi trở về thì tiếng chuông mới sẽ là tiếng chuông khải hoàn. Trong sáng quá đi chứ, vậy mà người ta cho là lãng mạn, không cụ thể. Tôi bảo rằng thật ra đó là tâm hồn của một người kháng chiến, một anh tiểu tư sản trí thức. Tiếng chuông chiều thu, Tạ từ, Em đến thăm anh một chiều mưa là những ca khúc mà tôi rất thích.

[footer]

Mùa thu không trở lại (Phạm Trọng Cầu)

Trong dòng nhạc xưa, “Mùa thu không trở lại” của nhạc sỹ Phạm Trọng Cầu (1935-1998) chắc chắn sẽ được xưng tụng là một trong những bản nhạc hay nhất về mùa thu.  [dongnhacxua.com] xin giới thiệu đôi nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời của nhạc phẩm này đến quý vị yêu nhạc.

Nhạc sỹ Phạm Trọng Cầu (1935 - 1998).
Nhạc sỹ Phạm Trọng Cầu (1935 – 1998).

TỪ ‘TRƯỜNG LÀNG TÔI’ ĐẾN ‘MÙA THU KHÔNG TRỞ LẠI’
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên viết trên Thanh Niên ngày 01/07/2011)

Hẳn trong ký ức nhiều người vẫn còn nhớ nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu – “Quả chôm chôm biết hát” ngoại hình râu tóc lởm chởm của ông, và nhất là yêu thích những bài hát của ông: Trường làng tôi, Mùa thu không trở lại…

Từ Trường làng tôi…

Năm 1998, người viết được tháp tùng một đoàn gồm: các cô chú trong Ban Liên lạc cựu tù chính trị Côn Đảo, nhà thơ Kiên Giang, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, nhà văn Đoàn Thạch Biền, nhà thơ Nguyễn Bạch Dương, nghệ sĩ Ngô Đình Long… đi thăm gia đình nhà thơ Truy Phong (tác giả trường ca Một thế kỷ, mấy vần thơ) đang sống ở cù lao Quới Thiện (Vĩnh Long).

Từ TP.HCM đi xe về đến Bến đò Vũng Liêm rồi bỏ xe lại, xuống ghe bầu vượt sông Cổ Chiên vào cù lao. Lượt về, vừa bước chân lên bến đò, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã kéo tay tôi và anh Đoàn Thạch Biền: “Đến coi chỗ này, chính là ngôi trường trong bài hát Trường làng tôi của tao!”. Đó là trường Tiểu học Vũng Liêm nằm cách bến đò khoảng trăm mét. Chỉ xa có chừng đó nhưng nhìn anh Phạm Trọng Cầu chống gậy đi khá khó khăn (anh có một chân giả), chúng tôi thật ái ngại… Đến cổng trường, anh đứng làm mẫu để chúng tôi chụp vài tấm hình. Ngôi trường trước mắt chúng tôi trông khang trang, bề thế chứ không như trong bài hát của anh Cầu, nhưng chúng tôi vẫn đồng thanh hát vang: “Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh, muôn chim hót vang lên êm đềm. Trường làng tôi con đê bé xinh xinh, len qua đám cây xanh nhẹ lướt… Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ, che trên miếng sân vuông mơ màng. Trường làng tôi không giây phút tôi quên nơi sống bao kỷ niệm ngày xanh…”.

Trong nhạc Việt, có khá nhiều bài ca nhắc đến ngôi trường cũ nhưng hầu như chỉ duy nhất bài hát này, nhạc sĩ đã dùng trọn tác phẩm để nói về ngôi trường thời thơ ấu của mình. Một bài hát tuyệt vời.

đến Mùa thu không trở lại

Dịp ấy, Phạm Trọng Cầu còn tiết lộ anh là tác giả ca khúc Mùa thu không trở lại. Tôi cãi, bởi vì trước năm 1975, tôi có tập nhạc 12 bài ca quen thuộc trên đất Pháp (trong đó có ca khúc Mùa thu không trở lại) của tác giả Phạm Trọng. Anh cười xác nhận, sau ngày giải phóng miền Nam, anh mới thêm vào chữ “Cầu” cho tên anh được đầy đủ như trong giấy khai sinh.

Ảnh bìa minh họa cho bản 'Mùa thu không trở lại'.
Ảnh bìa minh họa cho bản ‘Mùa thu không trở lại’.

Nhạc sĩ cho biết: anh sinh đúng vào ngày Noel (25.12.1935) tại Phnom Penh (Campuchia). Cha anh là trắc địa sư Phạm Văn Lạng, vốn gốc Hà Nội, nhưng đang làm việc tại đây (thời Pháp thuộc, những công chức có thể được điều chuyển khắp Đông Dương: Việt Nam, Campuchia, Lào) nên năm 1943, đã đưa gia đình về Sài Gòn và mẹ của anh (bà Đào Thị Ngọc Thư) mở một nhà hàng ca nhạc mang tên Aristo. Tại đây, Phạm Trọng Cầu được tiếp xúc với những ban nhạc Philippines và một số nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng trong nước. Anh cũng bắt đầu học chơi đàn mandoline… Tuy nhiên, thời gian này khá ngắn ngủi – chưa tới 2 năm thì chiến cuộc lan tràn, gia đình anh phải tản cư lên Biên Hòa. Sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, gia đình anh trở về Sài Gòn, rồi chuyển dần xuống miền Tây Nam Bộ.

Ở Vĩnh Long, anh theo học trường Tiểu học Vũng Liêm và tham gia vào Đội tuyên truyền xung phong huyện. Năm 1948, Phạm Trọng Cầu trở lại Sài Gòn, tham gia phong trào xuống đường đấu tranh của sinh viên, học sinh. Một thời gian sau, ông thoát ly và vào bộ đội Tiểu đoàn 308, rồi Trung đoàn Cửu Long. Sau đó, ông bị thương phải cưa chân, mẹ ông đã tìm cách đưa ông vào Sài Gòn cứu chữa. Năm 1953, Phạm Trọng Cầu thi vào trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn, và chàng trai 18 tuổi, nhớ về thời thơ ấu cắp sách đã sáng tác ca khúc Trường làng tôi… Tốt nghiệp xong, đến năm 1962 Phạm Trọng Cầu lại thi vào Nhạc viện Paris (Pháp).

Tại Paris, anh đã viết 12 bài ca quen thuộc trên đất Pháp, trong đó có Mùa thu không trở lại… Với ca khúc này, Phạm Trọng Cầu tâm sự: “Dạo ở Paris, mình gặp và yêu một cô gái Việt Nam có mái tóc đen dài, đôi mắt buồn vời vợi. Tình yêu đang độ trăng rằm thì nàng phải về nước và không bao giờ trở lại Paris nữa. Chúng tôi chia tay vào mùa thu – khung cảnh mùa thu ở châu u rất đẹp, nhưng nếu phải chia ly trong một cái nền như vậy thì nó lại trở nên thật tê tái:Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u. Ngày em đi, nghe chơi vơi não nề. Qua vườn Luxembourg. Sương rơi che phố mờ, buồn này ai có mua? Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng, ngập dòng nước sông Seine. Mưa rơi trên phím đàn, chừng nào cho tôi quên?… Em ra đi mùa thu, mùa thu không còn nữa. Đếm lá úa mùa thu, đo sầu ngập tim tôi’ …”.

Tôi hỏi anh có phải cô ấy tên Thu không mà anh cứ lặp lại câu điệp khúc “Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại”? Anh trầm ngâm: “Đối với tôi… là một mối tình xa xưa thời còn trai trẻ. Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồng cháy và mùa thu nàng ra đi. Hôm tiễn nàng ra sân bay, tôi trở về nhà phải đi ngang qua khu vườn Luxembourg. Khu vườn đó, khi đi ngang, tôi chợt nhận ra mùa thu, vì chân mình đá rất nhiều lá vàng, trong tôi tự nhiên vang một giai điệu ‘Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại…’ Dù là mùa thu ở Paris rất đẹp, nhưng mà từ mùa thu đó, với tôi, mùa thu không bao giờ trở lại nữa, chỉ có thế thôi”.

Sau chuyến đi cù lao Quới Thiện về được khoảng 2 tháng thì anh Phạm Trọng Cầu đột ngột qua đời… 

Hà Đình Nguyên

[footer]

Văn Cao – 20 năm không xa

Mới đó mà đã 20 năm ngày chúng ta chia tay cây đại thụ của nền nhạc Việt: nhạc sỹ Văn Cao. Trong dòng cảm xúc đó,  [dongnhacxua.com] xin giới thiệu một bài viết của nhà báo – nhạc sỹ Thụy Kha.

VĂN CAO – 20 NĂM KHÔNG XA 
(Nguồn: bài viết của nhà báo – nhạc sỹ Thụy Kha đăng trên báo Người Lao Động ngày 09.07.2015)

Kể từ ngày ông vĩnh viễn ra đi, mỗi khi nghe Quốc ca là cảm thấy ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta

Đến bây giờ, tôi vẫn có cảm giác Văn Cao chưa hề xa. Ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta. Đấy là mỗi sớm đầu tuần, nghe hát Quốc ca ở một nhiệm sở nào đó, dù ở Lạng Sơn hay ở Mũi Cà Mau. Đấy là những trận đấu bóng đá, trước giờ khai cuộc, Quốc ca Việt Nam lại vang lên. Đấy là khi các vận động viên Việt Nam đoạt huy chương vàng, ngay trong kỳ SEA Games mới đây. Cảm thấy bài Quốc ca Việt Nam căng đầy trong cơ thể “kình ngư” Ánh Viên khi cô khoác Quốc kỳ Việt Nam đứng trên bục cao nhất. Và quốc thiều Tổ quốc ngân nga…

Nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm

Vẫn như còn nguyên cái ngày cuối cùng khi tôi đưa nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo đến thăm ông ở Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Ông ngồi đấy, tóc trắng, râu trắng, tường trắng, nụ cười trắng và hoa sen trắng chưa nở. Ông thầm thì bên tai: “Đang còn một thằng “Giôn đen” nhưng nóng quá. Tuần sau sang mùa mưa. Sẽ uống…”. Nhưng không bao giờ còn cái ngày đầu tuần mới, uống chai mới nữa. Ngày thứ hai đầu tuần 10-7-1995 đã trở thành ngày ghi khắc mãi vào từng con tim người Việt Nam. Ngày Văn Cao chuyển cõi.

Ngày cuối cùng của tác giả bên Văn Cao (3-7-1995) Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Ngày cuối cùng của tác giả bên Văn Cao (3-7-1995) Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Trước đó 10 năm, một ngày cuối đông buốt giá năm 1985, tôi cùng Văn Cao thắp hương trước linh cữu Xuân Diệu, cũng đúng ở nơi ấy. Mười năm sau, cũng nơi ấy, căn gác hai 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội), nơi một thời cố vấn Vĩnh Thụy trải qua những ngày tháng độc lập đầu tiên của đất nước và nghe Quốc ca Việt Nam vang lên, cũng là nơi đưa tiễn tác giả bản Quốc ca hùng thiêng này về cõi xa xăm.

Từ trái sang phải: Bà Văn Cao - Nhà phê bình Ngô Thảo - Nhà thơ Thu Bồn - Văn Cao - Nguyễn Thụy Kha - Nhạc sĩ Nghiêm Bá Hồng - trên căn gác 60 Hàng Bông Ảnh: Hà Tường
Từ trái sang phải: Bà Văn Cao – Nhà phê bình Ngô Thảo – Nhà thơ Thu Bồn – Văn Cao – Nguyễn Thụy Kha – Nhạc sĩ Nghiêm Bá Hồng – trên căn gác 60 Hàng Bông Ảnh: Hà Tường

Tôi mãi mãi biết ơn giải thưởng thơ Báo Văn Nghệ năm 1982. Nhờ nó, nhờ bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải B, Văn Cao đã ngỏ ý thông qua Đặng Đình Hưng muốn gặp tôi. Đấy là một hạnh ngộ mà cả đời tôi chẳng bao giờ trả hết. Ra Hà Nội làm nghề văn học và âm nhạc từ năm 1978, tôi đâu dám bén mảng tới chiếu rượu của ông. Tôi chỉ là một thằng bé con đang chập chững vào nghề. Nhờ gặp ông, được ông nhận làm học trò, cho làm bạn vong niên cùng uống rượu. Hạnh ngộ ấy đã cho tôi có cái tên hôm nay.

Từ sau lần đầu được ngồi uống rượu với ông và Đặng Đình Hưng, tôi và ông hình như không lúc nào rời nhau. Cho cả đến bây giờ. Dù đã 20 năm xa. Còn nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm của ông khi trở lại vị trí ủy viên chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam mùa thu 1983. Đấy là một mùa thu thăng hoa, báo hiệu một điều gì sẽ đổi thay của đất nước. Nhớ nhất là cái đêm ông cùng Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Thu Bồn uống rượu ở căn gác 60 Hàng Bông nhà tôi và sau đó là cuộc tổ chức long trọng 60 năm ngày sinh của ông tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam do Tổng Thư ký Huy Du chủ trì. Huy Du nói với tôi: “Nhờ ông anh viết “Thiên Thai” mà mình mê nên mới có sáng tác đầu tay “Sóng nước Ngọc Tuyền”. Ơ kìa! Mênh mông chèo khua nước Ngọc Tuyền mà”. Hôm đó, cả Trịnh Công Sơn và Trần Long Ẩn đều hát say sưa những sáng tác của các anh mừng thọ Văn Cao.

Từ đấy, ông và tôi cùng bạn bè có những tháng ngày lãng du tuyệt vời. Cuối năm 1983, về Nhà máy Toa xe Hải Phòng. Chuyến ấy, ông viết “Hành khúc công nhân toa xe”: “Một vùng trời vang sóng vỗ biển Đông/ một vùng trời luôn thắp sáng ngàn sao/ vùng rộn ràng trong tiếng búa nhà máy/ dù giặc thù bom đánh phá đêm ngày…”. Mùa thu 1984, trở lại trung du vùng núi Thắm. Lần đó, ông viết “Tình ca trung du” – ca khúc cuối cùng của nghiệp âm nhạc: “Một cánh tay sông Hồng/ một cánh tay sông Lô/ hai cánh tay như ôm trung du …”.

Một bản lĩnh thơ

Cuối xuân 1985, vào Quy Nhơn. Đấy là dịp ông viết bài thơ về Quy Nhơn 3: “Từ trời xanh – rơi – vài giọt tháp Chàm…”. Cũng đợt ấy, Văn Cao đã đi đến nơi xa nhất trong cuộc đời mình – TP Cần Thơ. Sau chuyến đi, lần đầu tiên, thơ Văn Cao được in trở lại trên Báo Văn Nghệ. Đó là chùm ba bài thơ “Quy Nhơn” sau 29 năm không in thơ ông trên tuần báo này, mà chỉ xuất hiện với những hình minh họa ký chữ Văn. Giữa những chuyến đi cùng tôi ngày đó, Văn Cao có chuyến đi riêng vào Huế và Đà Nẵng với lời mời của nhà văn Phan Tứ, khi ấy là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng là một lần trở lại để có “Về Huế xưa”, “Đêm phá Tam Giang”… những bài thơ cực ngắn, cực hay: “Lưới là cái cuối cùng/ Hất tôi xuống biển”.

Năm 1986, hình như linh cảm điều đổi thay đất nước đã tới gần, Văn Cao cùng tôi lần mò những bài thơ của ông làm trong các cuốn sổ tay đã hoen màu thời gian từ năm 1956 đến lúc đó để tập hợp thành một tập thơ. Ông đặt tên là “Lá”. Năm ấy, hầu như ngày nào tôi cũng ngồi làm biên tập cùng ông. Và tất nhiên là cùng uống rượu. Tập thơ hòm hòm thì cũng là thời điểm Đại hội Đảng phất cao ngọn cờ đổi mới. Ông yêu cầu tôi viết lời giới thiệu. Và bài “Văn Cao một bản lĩnh thơ” đã được tôi hoàn thành để giao bản thảo cho Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới. Năm 1988, cùng với việc diễn ra “Đêm nhạc Văn Cao”, từ đầu năm là tập thơ “Lá” được ấn hành tuy không in lời giới thiệu của tôi. Nhưng bù lại, Nhà Xuất bản Trẻ lại ấn hành tập thơ – nhạc – họa của ông mang tên “Thiên Thai”.

Đấy là những năm tháng thăng hoa trong sự phục sinh của Văn Cao. Ông lại tiếp tục có những chuyến giao lưu ở TP HCM, ở các tỉnh miền Nam. Buồn nhất là chuyến lên Tây Nguyên theo ước nguyện của ông nhưng không thành. Tiền vé máy bay của anh em Tây Nguyên mời biến thành cái tủ mới ở nhà ông.

Tháng 3-1995, chuẩn bị Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, tôi phát hiện ban chấp hành cũ mang Trại sáng tác Quảng Bá ra liên doanh với nước ngoài xây khách sạn. Tôi đem chuyện buồn này kể với ông. Ông trầm giọng nói: “Sao lại bậy bạ thế. Phải lên tiếng nhé. Đừng sợ. Sẽ có những người ủng hộ chân lý”. Nghe lời ông, tôi đăng đàn giành lại mảnh đất thiêng liêng này và được đại hội ủng hộ. Sau đại hội, tôi đến báo cáo kết quả. Ông cười mãn nguyện: “Đã đến lúc không phải sợ gì nữa”. Bữa đó, ông “lì xì” tôi một chai Macallan.

Khi ấy, ông đã yếu nhiều. Chứng ung thư phổi bắt đầu có triệu chứng tăng trưởng. Nhưng ông vẫn uống rượu và hút thuốc lào như thường. Chẳng hiểu sao, sau đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông cho bà Bằng (vợ Văn Cao) đến gặp Tổng Thư ký Trọng Bằng. Ông đã sớm dọn dẹp cho mình một cách đi bằng những lời di nguyện. Ông đề nghị khi mất, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chủ trì tang lễ. Còn điếu văn thì tôi viết, anh Trọng Bằng đọc.

Văn Cao là người trung chính nên dù bị ung thư nhưng ra đi nhẹ nhàng như một trích tiên. Mới thế mà đã 20 năm…

Hà Nội, ngày 9-7-2015.

Nguyễn Thụy Kha

[footer]

Nguyễn Đình Toàn viết về Đặng Thế Phong

[dongnhacxua.com] xin tiếp tục dòng nhạc Đặng Thế Phong qua trích đoạn một bài viết của nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn để quý vị xa gần có thêm tư liệu về một thời nhạc xưa.

Đêm thu (Đặng Thế Phong). Ảnh: TaiNhacCho.vn
Đêm thu (Đặng Thế Phong). Ảnh: TaiNhacCho.vn

ĐẶNG THẾ PHONG 
(Nguồn: trích bài viết của nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn đăng trên ThanhThuy.me)

Đặng Thế Phong là một trong những nhạc sĩ tiền phong của chúng ta. Ông mất rất sớm, mới ngoài hai mươi tuổi. Ông chỉ để lại có ba bản nhạc.

Cũng có người cho rằng ông có tới bốn hay năm bài. Nhưng thực tế, không ai biết cái bài thứ tư, thứ năm đó. Vậy chỉ nên coi những bài mọi người đều đã biết: Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không BếnĐêm Thu, chính thức là những tác phẩm của ông.

Những người đồng thời với Đặng Thế Phong kể lại rằng ông muốn trở thành họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ. Cũng như Nhất Linh, Đặng Thế Phong đã thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội, nhưng rồi bỏ dở ý định theo đuổi hội họa. Và cái việc Đặng Thế Phong thi vào trường Mỹ Thuật ấy, đã để lại một huyền thoại. Nghe nói ông đã vẽ một thân cây cụt (không có ngọn), rất đẹp. Vị giáo sư người Pháp chấm bài, khen ngợi, nhưng nói rằng: “E Đặng Thế Phong không sống lâu được.”

Nhớ, xa hơn nữa, các cụ ta cũng truyền lại rằng, một học giả Trung Hoa, sau khi đọc xong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đã nói: “Người này nhiều lắm 5 năm nữa sẽ chết, vì tinh hoa trút hết ra cả đây rồi”.

Cả hai sự tiên liệu đều đúng.

Như thế, cả Tây lẫn Tàu đều trông vật mà biết bệnh? Hay đó chỉ là điều giản dị như Shakespeare đã nói “trái nào chín trước nhất thì rụng trước hết?”

Ba ca khúc của Đặng Thế Phong được viết vào những ngày nền tân nhạc của chúng ta khởi đầu, và đều là những tình khúc.
Và tình khúc Đặng Thế Phong, ngay từ những ngày xa xôi ấy, đã có một tầm vóc khác:

Biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu
Nhớ khi chiều sương
Cùng ai trắc ẩn tấm lòng
Dứt bao tình thương
Thuyền mơ buông trôi theo dòng
Bến mơ dù thiết tha
Thuyền ơi đừng chờ mong

Trong ngần ấy lời ca chữ nào nói đến tình yêu, chữ nào không? Hình như không phải chỉ là con thuyền buông trôi theo dòng mà có cả kiếp người trôi trong dòng đời, cái có thật và cái tưởng tượng đều lẩn khuất sau một màn sương, chúng ta nhìn nhau với lòng trắc ẩn, hạnh phúc khó khăn hay chỉ sống không thôi đã là một điều khó khăn, “bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong”, chúng ta chẳng thể nào tới được nơi mong ước cũng không biết đã ra đi từ đâu:

Thu xưa xa xăm ngoài chân mây
Thu nay bơ vơ thuyền trôi đây
Phải chăng thuyền nhớ nơi non bồng
Nơi đã bao phen chùng tơ lòng…

Con sông nào chẳng có hai bờ, nhưng bờ có phải là bến không?

Nghe nhạc Đặng Thế Phong là nghe lấy những tiếng ở giữa chừng đời sống ấy, tiếng va chạm của cái chốn xa xăm ngoài chân mây với cái cõi bơ vơ thuyền trôi đây.

Người ta không hiểu sao ở ngưỡng cửa của tuổi hai mươi Đặng Thế Phong đã nghe ra cái tiếng nhân thế bao la sầu như ông viết trong Giọt Mưa Thu:

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Phòng vắng bốn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời châu buông mau
Dương thế bao la sầu…

Nghe nói khi mới viết xong ca khúc này Đặng Thế Phong đã đặt tên là ‘Vạn Cổ Sầu’ rồi sau đó mới đổi thành ‘Giọt Mưa Thu’.

Cả ba ca khúc Đặng Thế Phong để lại cho đời đều là những bản thu ca. Điều này nữa có phải cũng là một báo hiệu cái mùa đông sửa đang đón đợi ông?

Lấy những cái đã xẩy ra rồi để giải thích sự việc, người ta thường tìm cách ráp sao cho ăn khớp, điều ấy dễ thôi. Nhưng quả thật nghe lại nhạc Đặng Thế Phong, chúng ta sẽ thấy, chỉ cái mùa vạn vật dường như đắm một nữa trong mộng ấy, mới thích hợp với tâm hồn ông.

Tất cả các lời ca của Đặng Thế Phong đều long lanh sáng. Nhưng chúng không sáng cái ánh sáng của mặt trời, mà sáng cái sáng của lân tinh, của ánh trăng. Cái buồn trong nhạc của Đặng Thế Phong còn có thêm một cái buồn lây của đóa hoa đứng im như mắc buồn, nỗi buồn đọng lại hay mùa đông buồn trong ánh sao, cả ba cách dùng đều có nghĩa.

Nguyễn Đình Toàn

Quận Cam, California.
(Trích Khởi Hành)

[footer]

Đặng Thế Phong: ‘Dương thế bao la sầu …’

Tiếp nối dòng nhạc Đặng Thế Phong, mà cũng là dòng nhạc về mùa thu, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên tờ Thanh Niên về nhà nhạc sỹ tài hoa của những ngày đầu hình thành nền tân nhạc.

Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

cong-thuyen-khong-ben--1--dang-the-phong--amnhacmiennam.bblogspot.com--dongnhacxua.com cong-thuyen-khong-ben--2--dang-the-phong--amnhacmiennam.bblogspot.com--dongnhacxua.com

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: ĐẶNG THẾ PHONG – ‘DƯƠNG THẾ BAO LA SẦU …’
(Nguồn: Hà Đình Nguyên đăng trên Thanh Niên ngày 09.11.2011)

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Đặng Thế Phong là một trường hợp đặc biệt. Ông là một trong rất ít nhạc sĩ tiên phong của thời kỳ tân nhạc còn phôi thai, chết rất trẻ nhưng kịp để lại cho đời 3 ca khúc bất hủ.

Người viết có may mắn được gặp gỡ hai người biết khá rõ về cuộc đời Đặng Thế Phong. Đó là nhạc sĩ Lê Hoàng Long, tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa (hiện sống tại TP.HCM) và nhà văn Phạm Cao Củng (gặp cách đây khoảng 10 năm, khi ông từ Mỹ về thăm quê hương, qua sự giới thiệu của họa sĩ Mạc Chánh Hòa). Theo nhà văn Phạm Cao Củng thì Đặng Thế Phong là một chàng trai rất đẹp, đàn hay hát giỏi, thích hóa trang thành thiếu nữ trong những vở kịch ngắn. Anh diễn rất đạt nên ai cũng yêu thích, nhất là phái nữ.

Nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì khẳng định người yêu của Đặng Thế Phong tên Tuyết. Tuyết không đẹp nhưng có duyên. Cô là con gái một chủ tiệm buôn bán “gối màn chăn drap” ở chợ Sắt (Nam Định). Vốn tính nhút nhát, Đặng Thế Phong nghĩ mãi cũng không biết làm cách nào để “tiếp cận” người đẹp. Cuối cùng, anh vờ làm khách hàng vô hỏi giá rồi… nhét vội vào tay nàng một lá thư. Chẳng biết nội dung bức thư đầu tiên này mùi mẫn như thế nào mà sau đó cô Tuyết đã cự tuyệt một anh thông phán trẻ làm việc ở Tòa Đốc lý Nam Định, khi anh này dạm hỏi.

Thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Trước khi quen và yêu Tuyết, Đặng Thế Phong đã sáng tác ca khúc đầu tay Đêm thu trong một đêm cắm trại của Hướng đạo sinh (1940). Ca từ của bản nhạc rất trong trẻo, lạc quan… Còn bản Con thuyền không bến thì được sáng tác ở Phủ Lạng Thương (Bắc Giang) khi tình yêu giữa nhạc sĩ và cô Tuyết đang độ chín mùi.

Nhạc sỹ Đặng Thế Phong. Ảnh: CafeVanNghe
Nhạc sỹ Đặng Thế Phong. Ảnh: CafeVanNghe

Một hôm, ông cùng một nhóm bạn văn nghệ sĩ lên Bắc Giang chơi, nhân đó họ tổ chức một đêm đi thuyền trên sông Thương. Cùng lúc đó, chàng nhận được tin Tuyết ngã bệnh nơi quê nhà. Lòng dạ bồn chồn, xót xa, Đặng Thế Phong ôm đàn bước vào khoang thuyền, bỏ mặc các bạn đang đùa vui. Khi đêm sắp tàn thì bản nhạc hoàn tất với những lời ai oán não nùng gửi về… chân mây: “Đêm nay thu sang cùng heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây… như nhớ thương ai chùng tơ lòng…”, rồi “… Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng. Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng…”.

Sớm hôm sau, Đặng Thế Phong tức tốc trở về Hà Nội, người đầu tiên được nghe chính tác giả hát ca khúc này là người yêu của ông. Cô Tuyết hết sức cảm động. Chưa hết, chỉ ít lâu sau, Con thuyền không bến ra mắt khán giả thủ đô tại Nhà hát Lớn Hà Nội qua tiếng hát của nữ ca sĩ Vũ Thị Hiển. Từ Nam Định, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội, ngồi cạnh Đặng Thế Phong, ngay ở hàng ghế đầu để nghe bài hát “người ấy làm riêng cho mình”. Hạnh phúc còn nhân đôi bởi chỉ khoảng một tuần sau, tại rạp Olympia (phố Hàng Da, Hà Nội), cô Tuyết còn được chứng kiến người mình yêu tự đệm đàn, tự hát ca khúc này mà ánh mắt luôn trìu mến hướng về chỗ cô ngồi, trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của khán giả.

Trời thu gieo buồn lây

Sau khi từ Bắc Giang về, Đặng Thế Phong đã nhuốm bệnh. Thời đó, bệnh lao là một bệnh nan y và luôn bị những người chung quanh xa lánh.

Bệnh tình ngày càng trầm trọng, ở tỉnh không đủ điều kiện chữa trị, Đặng Thế Phong phải chuyển lên Hà Nội, sống chung với ông chú họ Nguyễn Trường Thọ trong một căn gác ở làng hoa Ngọc Hà (ngoại ô Hà Nội). Tuy vậy, tình trạng vẫn không khá hơn chút nào. Gia cảnh nghèo nàn, tiền bạc phải vay mượn để chữa trị, cuộc sống kham khổ làm cho tình cảnh của nhạc sĩ càng thêm nghiệt ngã… Cô Tuyết vì phải phụ giúp gia đình chuyện buôn bán ở thành Nam nên vài hôm mới lên Hà Nội chăm sóc người yêu rồi lại tất tả quay về.

Tháng 7 mưa ngâu. Cảnh buồn tê tái. Đặng Thế Phong nhớ Tuyết quay quắt… Nhạc hứng tuôn trào, chàng gượng ngồi dậy, ôm đàn và viết nên khúc nhạc buồn da diết: “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong hơi thu, ai khóc ai than hờ… Trời thu đến nơi đây gieo buồn lây. Lộng vắng bốn bề không liếp che gió về. Ai nức nở quên đời châu buông mau, dương thế bao la sầu…”. Bản nhạc được chàng đặt tên là Vạn cổ sầu. Bạn bè góp ý nhạc thì hay nhưng cái tựa bi thảm quá. Cuối cùng, tên bản nhạc được đổi thành Giọt mưa thu.

Cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi, Đặng Thế Phong nhờ ông Thọ đưa về Nam Định. Từ đấy cho đến lúc Đặng Thế Phong lìa đời, cô Tuyết lúc nào cũng túc trực bên giường bệnh để chăm sóc ông, khiến những người quen biết đều xót xa thương cảm cho một mối tình vô vọng lẫn nể phục tính cách cao thượng chung thủy của Tuyết.

Tang lễ của chàng nhạc sĩ 24 tuổi ấy được rất nhiều thanh niên nam nữ của thành Nam tham dự. Ngoài việc đưa tiễn một người con tài hoa nổi tiếng của quê hương, họ còn muốn chia sẻ và tỏ lòng trân trọng đến với cô thiếu nữ mặc áo đại tang đi sau linh cữu của chàng (việc này được phép của cả hai gia đình).

Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại TP.Nam Định. Cha là Đặng Hiển Thế – thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ Đặng Thế Phong mất sớm, hoàn cảnh gia đình quá túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ dở việc học (đang học năm thứ hai bậc thành chung – tương đương lớp 7 bây giờ) để lên Hà Nội tìm kế sinh nhai.

Với chất nghệ sĩ thiên phú và tư chất cực kỳ thông minh, Đặng Thế Phong đã “len” vào được Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (học dự thính). Ở Hà Nội, Đặng Thế Phong vừa học vẽ vừa thực hành để nuôi thân. Ông chuyên vẽ minh họa cho tờ báo Học sinh do nhà văn chuyên viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng làm chủ nhiệm.

Hà Đình Nguyên

[footer]