Tan tác (Tu My)

Có những nhạc sỹ dạo qua vườn hoa tân nhạc chỉ với một ‘bông hoa’ nhưng đó lại là một đóa hoa ngào ngạt hương thơm và tồn tại mãi với thời gian. Nhạc sỹ Tu My là một trong số đó, với bản ‘Tac tác’ bất hủ. Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu một bài viết của nhạc sỹ Phạm Duy để người yêu nhạc hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của Tu My.

Tan Tác và Tu My

(Nguồn: bài viết của nhạc sỹ Phạm Duy đăng trên PhamDuy2010.com)

Nhờ tôi đã quyết định trở về quê hương vào những năm đầu của thập niên 2000 và có cơ hội đi tìm lại dĩ vãng, trong đó có những ngày êm đềm của tuổi đi học hay những ngày sóng gió của tuổi vào đời; được đắm mình vào những xóm làng, đồng ruộng, đồi núi, sông biển quen thuộc hay chưa bao giờ đặt chân tới; được viếng thăm lần đầu tiên mồ mả, gia tiên; được ôm chặt vài ba người còn sống sót trong đám họ hàng, thân thích… nhờ vậy — nói một cách văn vẻ — tôi đã không đến nỗi mất tôi như tôi đã tưởng : tôi đã tìm thấy tôi.

Trong gần chín năm trời về sống bình thường ở trong nước, sau khi tôi đã quét dần được những khắc khoải trong tôi rồi, bây giờ tôi đã có thì giờ để làm những cuộc phiêu lưu khác, chẳng hạn đi tìm những cái hay cái đẹp của Việt Nam mà thời gian hay tình ngườitrong ly loạn đã phủ lên bằng một lớp bụi dầy. Tôi đã có thời gian, qua những cuốn sách nhỏ mang tên NHỚ, THỜI KỲ THÀNH LẬP CỦA TÂN NHẠC… lôi ra từ dĩ vãng ít nhiều giá trị cũ mà có thể nhiều người đã quên hay không biết.   Bởi vì tôi được sống trong một thời đại tin học nên tôi đọc được rất nhiều tài liệu về Tân Nhạc ở trên NET, nhưng tôi không thấy trong kho tàng đó có một dữ liệu nào đáng kể về một bài hát và về một nhạc sĩ mà tôi đã có ý đi tìm từ lâu : đó là ca khúc nhan đề Tan Tác và nhạc sĩ mang tên Tu My. Ngay cả hình ảnh của ông mà cũng không ai có cả !   (Dường như có một tấm hình của Tu My in trong một cuốn sách của Hội Nhạc Sĩ Việt Nam xuất bản năm 2007 ở Hà Nội, mà tôi chưa mua được).

Nhưng vì tôi thấy rằng bài Tan Tác của Tu My là một bài hát được các ca sĩ hát nhiều nhất, kể từ khi nó vừa ra đời, nghĩa là từ những thập niên 50-60 bởi thế hệ thứ nhất là Anh Ngọc, Khánh Ly, Lệ Thu, Sĩ Phú, Tuấn Ngọc, qua thập niên 60-70 với Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Giao Linh, Sơn Ca, Mai Hương, và tới thập niên 70-80 là thế hệ thứ ba như Uyên Phương, Thái Hiền; rồi tới thập niên 2000 với thế hệ ca sĩ thứ bốn là Ánh Tuyết (tổng cộng có 13 ca sĩ đã hát bài này !)… thì tôi đã khởi sự cuộc đi “tìm cho bằng được” một tác giả và những bài hát còn nằm trong vòng bí ẩn, trong bóng tối, trong sự thờ ơ và quên lãng… cuộc sưu tầm này đã thành công phần nào nhờ ở sự giúp đỡ qúy báu của các nhạc sĩ Mặc Hy, Nguyễn Thiện Tơ và của bác sĩ Nguyễn Thế Nhân ở Hà Nội.

Tôi muốn nhân đây được trân trọng tạ ơn các vị đó.

Tu My và vợ. Ảnh: PhamDuy2010.com

Trước hết, tôi xin được phác họa Tiểu Sử của Tu My :

Nhạc sĩ Tu My (không phải là Tu M với “i” ngắn) sinh ngày 10-5-1928, quê ở Thanh Trì, Hà Nội, tên thật là Đỗ Mạnh Cường. 1944, lúc Tu My 16 tuổi, ông học ký âm pháp nơi thầy Nguyễn Văn Thông, cùng với Ngọc Bích, Đỗ Thế Phiệt, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Ngạc và Nguyễn Hiền… 1946-48, trong kháng chiến chống Pháp, Tu My cùng bạn bè thường hay sinh hoạt văn nghệ ở một cái quán mang tên “Mai Hắc Đế” tại Cống Thần, Chợ Đại, Khu Ba. 1951, nhạc sĩ Nguyễn Hiền kể lại chuyện năm 1951, khi ông vừa ký xong hợp đồng với chủ Hotel de Paris ở Hà Nội, thì nhạc sĩ Tu My dẫn một thanh niên vừa mới từ Thanh Hóa hồi cư về thành, giới thiệu với ông để cộng tác với ban nhạc, người thanh niên đó là nhạc sĩ Nhật Bằng. 1952, Tu My là nhạc trưởng của Đài Phát Thanh Hà Nội. 1953, Khi 25 tuổi, Tu My kết duyên với bà Trần Thanh Lan lúc đó mới 18 tuổi. Hai người sẽ có bốn người con với nhau.

Nhạc sỹ Tu My và cây phong cầm. Ảnh: PhamDuy2010.com

1954. Một đoạn bút ký của Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng kể lại rằng : khi ông ra Bờ Hồ Gươm dự cuộc mít tinh của dân chúng Hà Nội đón mừng bộ đội tiến vào tiếp quản Thủ đô thì ông thấy trong đám đông học sinh tấu nhạc với đủ mọi thứ đàn giây, kèn, sáo… có Tu My ôm cây ghi-ta, đeo kính cận. Cũng từ năm 1954 này, Tu My là giáo viên dạy nhạc tại các Trường Minh Tân, Thăng Long, Nguyễn Huệ, Hà Huy Tập, Tân Trào…

1967, Tu My trở thành một giáo viên dạy nhạc tại trường Trưng Vương (Hà Nội) trong 21 năm.

1970, Nhạc Tập Tình Khúc Tiền Chiến Tiêu Biểu do Khai Phóng xuất bản năm 1970 tại Saigon, trong đó có bài Tan Tác (khi Tu My chưa mất)

1979, Tu My có một con gái tên là Đỗ Lệ My, vào năm 1979 theo chồng tới sinh sống tại Quảng Châu (Trung Quốc).

1982, Tu My bị bệnh đau tim (loạn nhịp tim) và nhờ có một lương y chăm sóc cho nên đã soạn bài hát nhan đề Sao Rực Sáng Làng Hoa để tặng cụ Nguyễn Đức Cần.

1986, Tu My qua đời với tuổi 58, vì bị xuất huyết não. 

Sự nghiệp của Tu My gồm có một số nhạc tình lãng mạn, một thời đã được công chúng biết đến và yêu thích như Nhạc Lòng, Chia Ly, Hận Tình hay Tan Tác (trước 54)… cùng một vài bài ca quê hương và xã hội như Hà Nội 55, Uống Nước Nhớ NguồnThư Gửi Miền Nam, Nhắn Bạn Phương Nam. Có thêm những bài về một nhân vật nào đó như Phạm Ngọc Đa,Nguyễn Đỗ Hùng, Sao Rực Sáng Làng Hoa (tặng vị lương y Nguyễn Đức Cần)… Nhưng vì ông là người giảng dạy nhiều năm tại nhiều trường phổ thông và còn là người dàn dựng các chương trình biểu diễn âm nhạc trong các sinh hoạt học sinh cho nên ông có nhiều ca khúc thiếu nhi hơn là nhạc quê hương hay tình khúc. Xin đan kể : Bài Ca Gia Đình, Ông Thân Yêu,Học Vì Ngày Mai, Bông Sen Trắng… Là một nhạc công tài hoa, biết xử dụng nhiều nhạc cụ như accordeon, piano, guitare, violon, saxo alto, flute… ông đóng góp rất nhiều vào phong trào âm nhạc quần chúng tại Hà Nội.
 Bây giờ tôi chỉ xin được nói tới ba bài nhạc tình mà tôi đang có trong tay là Nhạc LòngChia Ly và Hận Lòng (hay Tan Tác). Tôi chưa dám viết gì về nhạc quê hương và nhạc thiếu nhi của ông. Bài Nhạc Lòng có thể là bài hát đầu tiên của ông, được viết ra trước năm 1948, lúc ông mới 18 hay 19 tuổi và khi ông chưa có bút danh là Tu My, để (theo ông) kỷ niệm thời thơ ấu… và để thân mến tặng (một thiếu nữ là) em Vân Yến.

Nhạc Lòng

Nhạc và lời của Đỗ Mạnh Cường

Ôi những ngày xanh thẳm
Còn vương vất theo cung “nhạc lòng”
Tuổi thơ hồn nhiên say sưa vui hát
Đùa cợt dịu dàng, mắt màng mơ
Nhìn nhau âu yếm hồn ngây thơ
Giờ xưa cùng ai hòa nhạc lòng
Bên song lựa khúc ái ân sâu
Bạn ngày xanh có nhớ hay chăng?
Thẹn thò thầm nhủ chớ xa nhau…

Giây tơ đồng nay nhắc
Bao giây phút yêu đương nồng nàn
Giờ nay đàn xưa đau thương ai oán
Lạnh lùng buồn rầu mắt màng mơ
Nhìn xa mơ ước ngày năm xưa
Giờ vui ta mong chầm chận lại
Than ôi ngày tháng cứ lướt trôi
Bạn lòng ơi có thấu chăng ai
Sầu nhớ ngồi dạo khúc đàn tâm.

Cũng như vài ca khúc ra đời vào lúc bình minh của Tân Nhạc, bài Nhạc Lòng của Đỗ Mạnh Cường không có gì xuất sắc. Nhạc điệu được viết ra với khá nhiều nốt “bán cung”, với âm thể “major” và với nét nhạc “nhẩy quãng” (discontinued) khiến ta tưởng như nghe một điệu ngoại quốc, phong cách thì giống như nhạc blues hay slow fox. Vào thời đó, các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước hay Nguyễn Văn Khánh cũng thử thách dùng thể nhạc này trong vài ba ca khúc của mình, nhưng nhờ có giai điệu “liền quãng” khiến cho âm điệu dịu dàng hơn, thuận với lỗ tai Việt Nam hơn.

Chắc chắn đây là một khúc nhạc tình bởi vì chính tác giả đề tặng cho một thiếu nữ mang tên Vân Yến. Nhưng chắc chắn đôi tình nhân này phải yêu nhau từ khi họ hãy còn thơ, bởi vì ca khúc nhắc lại những kỷ niệm thời xưa… Nhắc tới tuổi thơ hồn nhiên say sưa vui hát…cùng ai hòa cung nhạc lòng… đùa cợt dịu dàng… nhìn nhau âu yếm… Rồi bây giờ, giây tơ đồng nay nhắc bao giây phút yêu đương nồng nàn… Hỡi người tình, có thấu chăng ai? Cònta sầu nhớ, ta ngồi dạo khúc đàn tâm…

Qua năm sau, 1948, đã là cuộc chia tay ! Ngày cuối cùng ở (hay về) Hà Nội của Vân Yến, Đỗ Mạnh Cường soạn bài Chia Ly.

Chia Ly
Đỗ Mạnh Cường
*
Em ra đi lòng anh bùi ngùi thương mến
Lưu luyến bao phút êm đềm
Sương mưa rơi em khuất xa
Chốn xưa thần tiên theo làn gió ra cõi mịt mùng
Anh tiễn chân em lòng khô héo
Nhưng vẫn gượng cười trông em bước đi
Em trông anh hàng lệ sầu tuôn
Như muốn ngỏ cùng anh : em không quên…

Bài Chia Ly cũng không hơn bài Nhạc Lòng là mấy, dù bây giờ chỉ là việc Đỗ Mạnh Cường bùi ngùi đưa tiễn Vân Yến vào ngày cuối cùng mà hai người phải xa nhau. Chia tay nhau ở Hà Nội (hay ngoài nông thôn) khi lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ được hai năm.

Sau đó, vào mùa Đông 1949, Đỗ Mạnh Cường đang tản cư ở Thanh Hóa, lấy bút danh là Tu My, soạn bài hát thứ ba về cuộc tình của mình, bài hát mong chờ tin tin én, tin nhạn hay tin Yến. Trước hết, bài hát này có cái tên nguyên thủy là Hận Lòng, trong đó tác giả có ghi ở nơi cuối bài một vài dòng chữ : Những nét nhạc mơ hồ từ trong lòng tuốt ra, có ảnh hưởngđến đời thực tế – Kỷ niệm những ngày thất bại ở Sầm Sơn, Thông Thôn, Man Thôn – Một mối súc cảm cuối cùng với VY. Thanh Hóa, Đông 1949. Chú thích : VY = Vân Yến. Sau này tiểu đề Hận Lòng có thể do Tu My đổi thành Tan Tác hay do nhà xuất bản Khai Phóng ở Saigon đặt tên như thế khi ấn hành bài hát lần đầu tiên (1970).

Đây là một bài hát rất giản dị :mở đầu với một nét nhạc minor, nhạc sĩ Tu Mi nói tới cảnh một đêm đông dài, có một lữ khách ngồi bâng khuâng mong chờ tin nhạn (hay tin én, tin của Yến ?): Mây bao la trời đen u tối
Đêm đông trường, lữ khách bâng khuâng
Ngóng về phương xa, chờ tin nhạn
Nhưng nhạn nào có biết nơi nao mà chờ 
Nhạn còn véo von, bay cao bay xa tít
Chẳng có hẹn ngày về, tìm ai nơi nao !
Nhạc điệu của Hận Tình (hay Tan Tác) khác hẳn hai bài trước, nghe có vẻ rất Việt Nam. Ca từ thì hoàn toàn ảnh hưởng ca dao. Không nói tới người, nhưng ta hiểu được tác giả nói tới một thương nữ tên Én hay Yến.

Chắc chắn ta thấy ông là một lữ khách đang nhớ bạn và mong chờ tin bạn vì người Việt Nam nào mà chẳng biết câu : Chiều chiều én liệng nhạn bay
Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?

  Chắc chắn ta thấy ông là một lữ khách đang nhớ bạn và mong chờ tin bạn vì người Việt Nam nào mà chẳng biết câu :

Chiều chiều én liệng nhạn bayTa đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?        * 

Đối với người Việt, nói tới chim nhạn là nói tới chuyện nhắn tin, đưa tin, báo tin… Bằng đường bay, chim nhạn báo tin cho mọi người biết rõ trời mưa nhiều hay trời sẽ sớm tạnh :
Nhạn bay thấp, mưa ngập bờ ao

Nhạn bay cao, mưa rào lại tạnh. Tin nhạn là do chim nhạn mang tới,giống như người đưa thư của sở bưu điện. Theo một điển tích Trung Hoa, vì tránh chiến tranh, thời xa xưa, Vua Hán phải đem nàng Chiêu Quân cống nạp vua Phiên để xin bãi binh. Vua Phiên bằng lòng. Hán Nguyên Đế sai quan chuẩn bị xe cộ đưa Chiêu Quân đi. Khi đến ải “Nhạn Môn quan” là nơi biên giới giữa hai nước, Chiêu Quân truyền dừng lại để nàng cầu nguyện, rồi bước lên “Nhạn Lạc Đài”, viết một bức huyết thơ buộc vào chân chim nhạn, gởi về cho Vua Hán, yêu cầu nhà vua khởi binh đánh nước Phiên để cứu nàng và gỡ nhục quốc thể. Trong dân ca Việt Nam, còn có câu hát nhớ mẹ khi ngắm nhìn chim nhạn như trong câu Lý Qua Đèo:

Giang san nơi đó, mẹ hiền nơi đâu
Ngậm ngùi ngắm nhạn lưng đầu
Tai nghe chim hót, miệng rầu khôn nguôi…

Mong và nhớ và mong tin tình quân thì có bài Dạ Cổ Hoài Lang của Ông Sáu Lầu:

Từ là tư phu tướng
Báu kiếm sắc phong lên đường
Vào ra luống trông tin nhạn
Năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi gan vàng thêm đau.

Tin nhạn còn được các nhà thơ lớn của Việt Nam nói tới:

Mây giăng ải bắc, trông tin nhạn (Nguyễn Đình Chiểu)

Ngày sáu khắc tin mong, nhạn vắng (Cung oán ngâm khúc)

* Trong phần đầu của Tan Tác, Tu Mi dùng nét nhạc minor đề nói tới chuyện không nhận được tin nhạn, không tìm đâu ra con nhạn đưa tin (tin tức người thân hoặc tin tức người tình).

Rồi nhạc chuyển qua major với một giai điệu rất trữ tình :

Nhạn còn say mê những bông hồng tươi thắm
Nô đùa cùng ngàn cành liễu, lả lơi như gợi tình Xuân.
Nhạn còn mải bắt bướm vàng xinh xinh,Bay lướt nhẹ, nhịp nhàng bên ngàn suối trong.

Thế rồi, nhạc điệu quay về minor :

Bây giờ chim đã bạt ngàn, khôn tìm
Cách sông cách núi muôn trùng
Gió ơi, gíó đưa chim về cùng ta kẻo ta mong.

Cuối bài, trong phần CODA, Tu My Đỗ Mạnh Cường cất tiếng than với chim nhạn (hay én hay Yến) nỗi hận trong lòng mình và nếu không gặp nhau trong kiếp này… thì xin hẹn gặp lại con chim hay người tình trong một kiếp sau:

Gió im gió chẳng trả lời !Chim hỡi hận lòng quyết gởi mây bayKiếp sau họa gặp kiếp này đành thôi !

Bài hát có một cái đẹp giản dị trong giai điệu, lời ca mà ai cũng có thể thấy : không cầu kỳ rắc rối, không lập dị khó hiểu, ngay cả nỗi buồn của ông cũng không đau thương thảm thiết, không bi lụy bi ai… nói tóm lại phản ánh cảm tính rất nhẹ nhàng kín đáo cố hữu của người Việt Nam. Có thể vì vậy mà ca khúc Tan Tác hay Hận Tình của Tu My Đỗ Mạnh Cường đã sống trên môi hồng của rất nhiều ca sĩ và trong lòng đa cảm của đa số người yêu nhạc suốt nửa thế kỷ nay. Tôi xin được tạm ngưng bài viết ở đây và xin đóng góp vào việc xưng tụng tác giả và bài hát bằng một câu ca dao giản dị :

Nhạn ơi trăm sự nhờ mày
Ngậm thư mang tới tận tay cho chàng
(hay nàng)
Chẳng may chim nhạn lạc đàng
Chim trời bay mất để chàng
(hay nàng) nhớ thương !

Phạm Duy

Saigon. Tháng sinh nhật 2008

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *