Tinh hoa đất Bắc giữa miền Nam sau 1954

Sau cuộc đại di cư 1954, rất nhiều tinh hoa văn hóa của miền Bắc như bắt gặp được môi trường cởi mở, hiền hòa của miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng nên đã phát triển mạnh mẽ và hòa lẫn vào nền văn hóa chung của dân tộc. Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu một bài viết của của tác giả Phạm Công Luận đăng trên Thanh Niên để người yêu nhạc hiểu thêm về đời sống tinh thần của một thời Hòn Ngọc Viễn Đông.

Sài Gòn hồi mới vào

(Nguồn: bài viết của tác giả Phạm Công Luận đăng trên thannien.vn ngày 2017-01-25)

Những ngày giáp tết giữa thập niên 1950, người dân khu Hòa Hưng bắt gặp những cụ đồ già người bắc vừa di cư vào nam ngồi trên vỉa hè đường Chason (Phạm Hồng Thái) gần chợ Hòa Hưng. Họ bày bán những liễn đối chữ Hán viết sẵn trên giấy điều.

Ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 gồm các nghệ sĩ từ miền Bắc vào như Hòa Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh đã chinh phục khán giả miền Nam với các ca khúc bất hủ của các nhạc sĩ tiền chiến và của Phạm Đình Chương, Phạm Duy

ẢNH: ĐINH TIẾN MẬU

Thấp thoáng trong số liễn đối có những câu chúc phúc bằng chữ Việt viết theo Hán tự. Họ ngồi buồn vì ế khách. Cho đến lúc đó, dân Sài Gòn – Gia Định không còn mấy ai chơi liễn đối như hồi “đàng cựu” (thời Pháp chưa qua), hoặc nếu có thì đã quen vào Chợ Lớn mua liễn viết sẵn. Những ông đồ già ngồi trầm ngâm dưới nắng tháng chạp vàng ươm dễ chịu, nhưng trời đất xung quanh vẫn không phải mùa xuân xứ bắc với mưa xuân phơi phới bay mà họ mới rời xa.

Đó là một hình ảnh trong câu chuyện trên tờ báo xuân xưa tôi còn nhớ. Lớp người miền ngoài, vì hoàn cảnh đã rời quê hương vào sống trên đất Sài Gòn. Vượt qua những dị biệt ban đầu và cả nỗi nhớ quê dậy sóng mỗi đêm, họ thành cư dân miền Nam, cư dân Sài Gòn… Họ cảm nhận cuộc sống trên đất mới, tuy xô bồ nhưng dễ sống, tuy ồn ào nhưng thật lòng, tuy thiếu hoa mỹ nhưng biết thưởng thức những điều đẹp đẽ và còn tạo điều kiện cho nó thăng hoa. Tuy vậy, lòng hoài niệm của họ vẫn đầy ăm ắp, nên mới có những vần thơ nhớ bắc của Lê Minh Ngọc, ông chủ quán bánh mì Hòa Mã ở đường Cao Thắng: “Ngoài ấy trời xuân lạnh/rét căm lòng cỏ hoa/em nhìn mây không cánh/bay về phương trời xa/nghẹn ngào em thầm hỏi/người đi có nhớ nhà…”. Mới có những tản văn tuyệt tác của Vũ Bằng trong Thương nhớ Mười Hai với tháng hai nhớ hoa đào, tháng ba cảm nhận “trời chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét của cuối chạp, đầu xuân đã trở về trên cánh gió, giữa một khoảng trời tháng ba nắng ấm”.

Văn hóa mở cõi của đất miền Nam trù phú đã được tiếp thêm màu cổ điển từ những người con đất tổ ngàn năm, tạo dựng nên chất sinh động, đa dạng, thể hiện rõ nhất ở Sài Gòn, thành phố của hội tụ nhân tài tứ xứ.

Họa sĩ Tú Duyên, người con của làng cổ Bát Tràng, Bắc Ninh, từng theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Từ năm 1939, gia đình ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống và đóng góp sắc màu Bắc bộ qua các họa phẩm, trong đó có nghệ thuật sáng tác riêng gắn với tranh dân gian là “thủ ấn họa”

ẢNH: TƯ LIỆU

“Chín giờ mới ra phố”

Tuy nhiên, thuở ban đầu luôn là khó khăn. Giống như tâm tình của những cụ già xứ bắc viết liễn ngày giáp tết ở lề đường sát chợ Hòa Hưng. Có nhiều khác biệt, và có lúc không chịu nổi.

Người mới vào đã có nhiều điều quá bỡ ngỡ trước vùng đất mới đầy nắng gió này. Họ ngạc nhiên khi thấy thuốc lá không được bóc ra ở phần trên bao thuốc, mà dùng tay khoét một lỗ ở phía gần đáy rồi rút điếu thuốc ra; khi uống cà phê lại đổ ra đĩa rồi húp từng ngụm; tờ bạc 1 đồng xé làm hai để thành 5 cắc cho tiện; nữ sinh kẹp tóc cao đến gáy, mặc quần trắng ống rộng gấp đôi bình thường và đi guốc mộc.

Phóng sự Sài thành xài tiền của Hà Việt Phương báo Đời Mới số 68 ra đời tháng 7 năm 1953, có kể một ông ngoài bắc vừa vào Sài Gòn. Khi biết ông định đi thăm người quen lúc 7 giờ sáng, bà chủ nhà trọ liền can ngăn, bảo lúc đó còn sớm quá, phải “chín giờ trở đi thì những người như ngài mới ra phố”. Bà này từ Huế vô nam đã lâu, nói rằng ai ở ngoài bắc vô cũng dậy sớm, đi chơi sớm và ngủ sớm. Nhưng người trong này thức khuya, đời sống về đêm nhiều hơn. Bà lớn giọng: “Tối, ngài ra các tiệm các chợ mà coi, cứ chật nức người là người, phần lớn là anh chị em lao động, kiếm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy. Trong này không biết dành dụm chi cả. Bây giờ mới có người biết vá áo, biết nhặt rau, chứ trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng là “đổ bỏ” không hề chữa chạy bao giờ… Ban ngày kiếm được bao nhiêu tiền đến tối xài cho kỳ hết, mai sẽ kiếm tiền nữa. Lo chi. Không lụt lội, không mất mùa, không thất nghiệp…”.

Bà chủ còn hướng dẫn ông khách: Phu xích lô ở Sài Gòn, ai hay bận quần “cộc” (quần ngắn) thì người ấy phải là người “ngoài ta” (tức là bắc hay trung vào làm việc). Người trong này hoang phí, cái gì cũng ra tiệm. Ăn bận toàn quần áo vải lụa mỏng tanh. Người lao động trong này tiện là ngồi bệt xuống đất không sợ hư áo quần, rách là quăng đi may cái khác, hoang phí đến cả mồ hôi, vì có sẵn quần áo để thay…

Các tờ giới thiệu chương trình của đoàn Kim Chung. Đoàn Kim Chung, một đoàn cải lương của người bắc vào nam năm 1954 và cuối cùng đã có vị trí sáng giá trong làng cải lương miền Nam, thành lập tới sáu đoàn Kim Chung từ 1 đến 6, hòa nhập vào đời sống văn nghệ miền Nam, tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào vừa từ miền Bắc vào và “Nam hóa” dàn diễn viên, mời các cây bút viết tuồng người miền Nam tiếp tay trong việc cung cấp tuồng tích



ẢNH: SƯU TẦM CỦA LÊ HOAN HƯNG

Người Sài Gòn hào hiệp

Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự Hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.

Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu. Mới vào, ông bị lên cơn sốt rét vào nằm Bệnh viện Bình Dân. Vợ con ông và chị giúp việc lên xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn – Gia Định tìm kiếm bà con họ hàng. Tìm mãi không ra, thấy trời đã tối, anh xích lô máy bèn đề nghị về tạm nhà anh ở Vườn Lài. Vừa về tới nhà, anh liền bảo vợ: “Má bầy trẻ đâu, tôi đón được một người làng xóm cũ đây!”. Anh là người bắc, lấy vợ nam và đã lanh trí nhận “người làng” để thêm thân tình, mong vợ trọng đãi khách. Chị vợ, người chất phác, lăng xăng đi quét bộ ván cho ba vị khách nằm nghỉ, đi nấu nước châm trà và còn ra tiệm mua thêm 10 đồng thịt quay về đãi cơm khách nữa. Vợ anh xích lô trong lúc ăn cơm không ngần ngại hỏi: “Chẳng hay anh của chị mần nghề gì?”. Chưa hiểu tiếng Sài Gòn nên chị Thượng Sỹ ngồi yên, anh xích lô đáp thay: “Anh ấy làm “nhật chình”!” (nhật trình: cách gọi báo chí cách nay trên dưới nửa thế kỷ ở miền Nam). Chị vợ gật gù: “Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”. Chị vợ anh xích lô có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen. Sáng hôm sau, anh xích lô tiếp tục chở cả nhà đi thăm nhà văn đang nằm bệnh viện. Ông Thượng Sỹ cảm động về câu chuyện này lắm. Vài ngày sau, ông khỏe nên cả nhà tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm bà con. Ông gặp một nhà văn quen biết nên tá túc nhờ vài hôm. Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: “Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng. Ông bà nói ngay với khách lạ: “Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!”. Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.

Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng: “Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”.

Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật này: “Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần “sa” vào hai cành gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”. Ắt hẳn trong thâm tâm, ông biết rằng còn do tính hào hiệp của người Sài Gòn, luôn sẵn sàng giúp người gặp khó khăn. Như khi xưa họ hoặc cha ông chân ướt chân ráo đến thành phố này đã được người ở đây giúp đỡ. Điều đó khiến ông nói lên ý nghĩ: “Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động”. Đúng như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau, ông tiếp tục đi làm tại một tờ báo chứ không đi dạy học như ý định ban đầu.

Nhà văn Tam Lang, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe, khi vào miền Nam cũng ấp ủ nhiều mộng ước. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông từng vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài báo trên báo Đời Mới. Viết xong, ông bay ra bắc lập một gánh hát chèo. Theo tác giả Trương Thọ Phú, Tam Lang khi vào nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông nói: “Chèo cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam…”. Đây là tâm huyết của vua phóng sự đất bắc, mong phục hồi vốn văn hóa dân tộc trên vùng đất mới Sài Gòn. Tuy nhiên, chuyện đó đã không thực hiện được như chúng ta đã thấy. Trước kia, ông cũng không thực hiện được điều đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, lúc đó lại đang mê tân nhạc và… cải lương miền Nam.

Câu chuyện hội nhập vào cuộc sống Sài Gòn là một câu chuyện dài nhiều tập, nhiều chương. Trong đó, có nước mắt và nụ cười, có sự rộng rãi bao dung và cũng có những khắt khe, thiếu thông cảm và hiểu biết trong cư xử. Qua thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, tính bảo thủ bị pha loãng dần, sự chấp nhận lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ và người ta tìm cách dung hòa những dị biệt, hợp lực xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển. Sự dung hòa đó đã tạo nên chất Sài Gòn, cá tính Sài Gòn ngày hôm nay.

Phạm Công Luận

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *