Từ Dung & Từ Công Phụng

Có nhiều mối tình nghệ sỹ đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tân nhạc Việt Nam. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu mối tình của nhạc sỹ Từ Công Phụng & Từ Dung.

vung-troi-ky-niem--1--tu-cong-phung - Copy

Vùng trời kỷ niệm (Từ Công Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Vùng trời kỷ niệm (Từ Công Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ NHẠC: TỪ DUNG – TỪ CÔNG PHỤNG
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên viết trên ThanhNien.vn)

Trong sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam trước năm 1975, có 3 cặp “uyên ương” thường xuất hiện trên sân khấu. Đó là cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly, cặp Lê Uyên & Phương và cặp Từ Dung – Từ Công Phụng. Hai cặp đầu rất “nổi đình nổi đám”, trái lại cặp sau thì rất… bí ẩn !

Từ Dung và Từ Công Phụng
Từ Dung và Từ Công Phụng

Thực ra thì với khán giả lứa tuổi trung niên, nhiều người vẫn còn nhớ đến cặp song ca Từ Dung – Từ Công Phụng bởi cái “e” nhạc của họ. Không dữ dội, nồng nàn như Lê Uyên Phương hoặc triết lý cao siêu như nhạc Trịnh, nhạc của Từ Công Phụng đầy chất trữ tình, êm ái với ca từ trau chuốt, sang trọng…

Trai tài gặp giai nhân

Từ Công Phụng sinh năm 1942 tại Văn Lâm (Phan Rang, Ninh Thuận), là người dân tộc Chăm, với những tố chất âm nhạc phát triển trong tâm hồn từ rất sớm. Cậu bé họ Từ đã từng ngây ngất khi nghe người anh cả đệm đàn guitar hát Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong) hoặc Trương Chi (Văn Cao)… Mày mò học đàn với người anh rồi Từ Công Phụng trở thành cây văn nghệ nòng cốt của các trường trung học Duy Tân, Phan Rang, Đà Lạt, với giọng hát rất truyền cảm. Không qua một trường lớp chính quy nào, nhưng với năng khiếu bẩm sinh và tâm hồn nhạy cảm, năm học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) anh viết tác phẩm đầu tay Bây giờ tháng mấy lúc mới 18 tuổi (1960). Tuy nhiên do bản tính nhút nhát và không mấy tự tin vào tác phẩm đầu tay nên chỉ khi Từ Công Phụng lên sống ở Đà Lạt, hợp tác với Lê Uyên & Phương trong ban nhạc Ngàn Thông thì ca khúc Bây giờ tháng mấy mới được phát trên Đài phát thanh Đà Lạt và lập tức nổi tiếng… Từ đó, vừa tự học vừa sáng tác, Từ Công Phụng cho ra đời những ca khúc trữ tình mà sang trọng, chen lẫn chút chán chường, chua xót như: Mùa xuân trên đỉnh bình yên, Tuổi xa người, Mắt lệ cho người…

Từ Dung là con gái của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, là cháu ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân). Cô sinh năm 1945, là con út trong số 4 người con (3 gái, 1 trai) của nhà văn. Từ Dung mồ côi cha năm 3 tuổi (Hoàng Đạo lên cơn đau tim và qua đời ngày 22.7.1948 trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu, Trung Quốc). Không biết bà Hoàng Đạo đưa các con vào Sài Gòn lúc nào nhưng người ta cũng đã ghi nhận trong đám tang nhà văn Nhất Linh vào ngày 7.7.1963, cô đội mũ tang đi trong đoàn người đưa tiễn. Năm 1965, Từ Dung tốt nghiệp tú tài toàn phần và đến năm 1969 lấy bằng cử nhân văn chương. Không chỉ học hành đến nơi đến chốn, Từ Dung còn là một giai nhân của Sài Gòn lúc bấy giờ, cô từng đoạt danh hiệu á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp tại miền Nam với vẻ đẹp lộng lẫy và nổi bật làn da trắng…

Từ Dung rất say mê ca hát và được trời ban cho một chất giọng khá hay. Cô theo học thanh nhạc với ca sĩ Châu Hà (vợ của nhạc sĩ Văn Phụng). Chính môi trường này đã đưa đẩy Từ Dung gặp gỡ Từ Công Phụng. Ngoại hình to lớn nhưng phong thái lại rất nghệ sĩ, ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự của Từ Công Phụng đã chinh phục trái tim người đẹp.

Đoạn cuối cuộc tình

Lần đầu họ xuất hiện bên nhau là ở quán Văn trong khuôn viên Đại học Văn khoa với ca khúc Bây giờ tháng mấy vào năm 1967. Họ thường sinh hoạt ở quán Văn cùng thời với cặp Khánh Ly – Trịnh Công Sơn. Sau khi quán Văn đóng cửa thì họ chuyển về quán Gió của Nam Lộc trên đường Võ Tánh.

Năm 1971, Từ Dung bắt đầu xuất hiện trên ti vi và có mặt trong cuộn băng Tơ Vàng 3. Cô song ca với Từ Công Phụng hai bài: Vùng trời kỷ niệm, Mùa thu mây ngàn và đơn ca ba bài: Đêm không cùng, Lời cuối và Đêm độc thoại. Riêng ca khúc Trên ngọn tình sầu được phổ từ bài thơ nổi tiếng của Du Tử Lê Khúc thêm cho Huyền Châu. Đó không phải là bài hát Từ Công Phụng sáng tác riêng cho Từ Dung nhưng đã từng được đôi uyên ương này song ca. Ca từ (lời thơ) lại như viết sẵn, như tiên tri về cuộc tình của hai người: “Hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau, ngoài trời mưa mau. Tay vuốt mặt không cùng. Bầy sẻ cũ hom hem. Chiều mái xám rêu xanh. Trời êm cao chân nhỏ. Cũng không về trên dòng sông tội lỗi… Tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngắt tạnh. Môi thâm khô từ thuở định hôn người. Ngày tháng hạ khi không mà trở rét. Giọt nắng vàng lung linh màu lạnh ngắt. Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu sa…”.

Sau năm 1975, họ hùn vốn với một gia đình khác mở quán cà phê trên đường Trần Quang Khải (quận 1, TP.HCM) lấy tên là “Café Từ Dung”. Quán có cây đàn piano trắng, lâu lâu lại có violin, tức là chơi nhạc sống. Nhạc sĩ, ca sĩ hoặc ai lên hát thì khỏi phải trả tiền cà phê và thường thì hát “nhạc chui” tức là nhạc trước 1975. Trịnh Công Sơn, Lệ Thu và nhiều nghệ sĩ khác từng lui tới quán này…

Sống với nhau có một con gái thì Từ Dung – Từ Công Phụng chia tay, một cuộc chia tay lặng lẽ, chẳng ai biết được nguyên nhân…

Năm 1980, Từ Công Phụng sang Mỹ và lập gia đình với một người phụ nữ tên là Kim Ái. Thời gian này, Từ Dung còn ở lại Việt Nam, bà mướn một căn phòng trong cư xá Ngân hàng (quận 3) và có biểu hiện trầm cảm. Bà ít khi mở miệng nói với ai một lời nào. Đêm đêm, bà thường ngồi lặng lẽ trong bóng tối trước hiên thềm như một pho tượng. Một thời gian sau, Từ Dung qua cơn trầm cảm, cũng sang định cư tại Hawaii (Mỹ) và đã lập gia đình với một người đàn ông Mỹ.

Hà Đình Nguyên

[footer]

Khúc ‘Thụy’ Bí Ẩn Của Một Cựu Phóng Viên Chiến Trường

Trong một bài viết về bản “Khúc Thụy Du” (thơ Du Tử Lê, nhạc Anh Bằng), [dongnhacxua.com] có đề cập đến hình mẫu thật của người con gái có chữ lót “Thụy”. Để người yêu nhạc có thêm thông tin, chúng tôi xin phép đăng lại một bài viết của nhà báo Tùng Duy qua chuyến trở về Hà Nội của Du Tử Lê năm 2014.

KHÚC ‘THỤY’ BÍ ẨN CỦA MỘT CỰU PHÓNG VIÊN CHIẾN TRƯỜNG (CHUYỆN ÍT NGƯỜI BIẾT VỀ THI SỸ DU TỬ LÊ)
(Nguồn: vanvn.net)

Trở lại Hà Nội từ viễn xứ Cali, lần đầu tiên thi sỹ Du Tử Lê kể về khúc đoạn bí ẩn chôn giấu hàng chục năm đã cài sâu trong tuyệt phẩm nổi tiếng “Khúc Thụy du”.

Nhà thơ Du Tử Lê (ảnh: Triết Trần)
Nhà thơ Du Tử Lê (ảnh: Triết Trần)

Du Tử Lê chỉ kịp xách túi đồ nghề của một phóng viên lao về phía cảng. Tiếng súng vọng vào thành phố đến từ khắp hướng. Sài Gòn đã náo loạn lắm rồi. Ngày 29.4.1975 những bước chân và mặt người lên cơn cuồng vội. Đám đông bị cản lại bởi một hàng rào thép có lính cộng hoà ngăn án cả dãy dài ở sân cảng. Còi tàu hú lên sắp rời bến. Tấm vé lên tầu được tính bằng nhãn hiệu vương giả của những gia đình tướng tá và hàng xấp đô la trao tay từ đêm trước. Điểm đến là trại tị nạn ở đảo Guam.

Chỉ là bản năng tác nghiệp của một phóng viên chiến trường, Du Tử Lê không định lên con tầu đó, anh chen được vào sát hàng rào và bắt đầu tốc ký với cuốn sổ nhỏ.

“Chú Lê! Chú Lê! Chú Lê ơi!”. Tiếng gọi như gào lên của một người phụ nữ giữa đám đông náo loạn đang chao đảo, chật cứng. Chị dâu và anh trai của Du Tử Lê dắt theo 6 đứa con đang áp chặt vì bị xô đẩy ở chân rào. Họ không có tấm vé đặc biệt để lên con tàu có thành mạn đen ngòm đó. Người sỹ quan chỉ huy nhận ra nhà báo đẹp trai Du Tử Lê thường hay lên truyền hình phỏng vấn sỹ quan, lính tráng. Và khoảng khắc định mệnh đã đến. Cả gia đình anh trai được lên tàu chỉ sau vài câu nói của chàng phóng viên kiêm thi sỹ nổi danh đất Sài Gòn với vị sỹ quan có khẩu súng ngắn đã mở sẵn nắp bao bên hông. Con tàu hú thét lên gấp gáp lần cuối. Đầu gối trầy xước máu tứa ra khi anh gắng kéo các cháu lên bậc cầu tàu. Vài giây lưỡng lự để nhảy xuống trở lại sân bến đã không kịp nữa. Chị dâu khóc oà víu kéo rất chặt cái túi máy ảnh của anh. “Chú không đi cùng anh chị thì ai sẽ lo cho các cháu! Chú không được quay lại thành phố! Súng nổ khắp nơi kia kìa. Lỡ mệnh hệ nào thì chị biết nói sao với mẹ đây?”. Tàu nhổ neo. Và nó cõng theo Du Tử Lê.

Thuỵ C., vợ anh và nhất là hai đứa con đang ra sao. Lúc anh ra khỏi nhà thì những con người thương nhất ấy vẫn ổn. Hình như cậu con trai lớn loáng thoáng vẫy tay như mọi ngày. Và như mọi ngày anh vẫn mau lẹ và bất chợt ra khỏi nhà như thế. Quen thế rồi. Vợ con của nhà báo cũng đã quen với cái cách chồng bật dậy ra khỏi nhà lúc nào không rõ.

Sài Gòn là nhà. Tổ quốc sẽ bình an thôi, và Thuỵ C. cùng hai con sẽ nhất định được bình an. Mình sẽ sớm trở về. Dọc hải lộ khắc nghiệt đói khát với những đứa cháu nheo nhóc đang say lịm trên sàn tàu lắc lư ướt bẩn chả nhớ là bao ngày cho đến chân đảo Guam, Du Tử Lê quặn lòng nghĩ về vợ con ruột thịt mà xa xót âu lo.

***

Cô sinh viên trường dược Sài Gòn bĩu cái môi xinh như thách đố Du Tử Lê xem tài nào tán đổ. Đấy là Thuỵ C. Một lần gặp gỡ giữa chàng phóng viên từng có thơ tình đăng trên mấy tờ báo ở Sài thành ngày ấy với Thuỵ C. chiều xuân 1968, đã bén lửa duyên đời. Dáng vẻ du tử của chàng trai họ Lê đủ lời thừa chữ lọt tai con gái mà tán tỉnh. Hai người yêu nhau và hứa rằng nên duyên vợ chồng nếu sinh con dù trai dù gái sẽ đặt tên là Thuỵ Du. Con trai Thuỵ Du ra đời có khuôn mặt đẹp như trăng rằm. Con trai đâu biết cái vẫy tay chào bố buổi sáng hôm ấy trước lúc bố lao ra bến tầu năm 1975, đã gửi theo Du Tử Lê một trời ly biệt đến mãi nhiều năm sau… Chiến tranh và số phận đã sắp xếp lại từng gia đình, con người trên mảnh đất quê hương Việt.

Biến cố Mậu Thân khiến cả Sài Gòn giới nghiêm từng cen ti mét. Tờ nguyệt san Tiền Phong (một tờ báo ra đời từ thời Ngô Đình Diệm chuyên viết về giới sỹ quan Cộng hoà, còn tờ Chiến sỹ Cộng hoà thì viết về lính) chỉ định Du Tử Lê đi thực hiện một phóng sự về cuộc giải toả của lính cộng hoà ở Ngã tư Bảy Hiền. Chạy xe dọc đường vắng tanh từ Cục tâm lý chiến đến Ngã tư đã thấy những xác người không toàn thây rải rác, có cẳng tay rời và da thịt tanh lọm còn mắc trên dây điện thật ghê rợn. Khu chợ Bảy Hiền đang giằng co giao chiến giành từng mét phố, từng gian hàng. Một chút thẫn người giữa cảnh hoang tàn chiến tranh, Du Tử Lê đau lòng và ghê tởm cuộc chiến, anh bất giác nhớ đến Thuỵ C.

Tạp chí Văn hồi ấy (Du Tử Lê cộng tác) muốn có một bài của anh về chiến tranh. Du Tử Lê nghĩ mình không thể gửi đến toà báo này một bài thơ tình. Vậy là tối ấy anh ngồi viết ứa một mạch “Khúc Thuỵ Du” – những ám ảnh chấn động và kinh hoàng mà anh rùng mình nhớ lại ở con phố gần Ngã tư Bảy Hiền. Quạ rỉa xác người, những cánh tay chó gặm, ai đi tìm gì đó còn ý nghĩa đã lẫn tan cùng vỏ đạn, hận vì súng nổ mà thấy tim buốt lại như bị dao đâm lút cán. Bài thơ chỉ một tý tẹo gợn về tình yêu. Nó là chiến tranh và phận người.

Chàng phóng viên kiêm thư ký toà soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền Phong cộng hoà (tờ báo cũng chấm dứt sứ mệnh của nó khi Du Tử Lê lên tầu đi viễn xứ) nói Khúc Thuỵ Du có cả trăm câu nhưng đã bị tờ Văn gút lại chỉ còn một phần ba. Du Tử Lê lấy tên lót của người yêu và tên mình xếp lại thành nhan đề. Và, mười bảy năm sau, nhạc sỹ Anh Bằng đã chuốt lên từ những vần thơ ấy thành bài hát thấm đẫm tình yêu. Nói như Du Tử Lê, rằng nhạc phẩm ấy chỉ có chút ngầm nói về chiến tranh như một “background mờ nhạt”. Nhưng ông đã cảm ơn Anh Bằng và muôn vàn khán giả, độc giả qua nó mà Khúc Thuỵ Du càng nổi tiếng, Du Tử Lê cũng càng nổi tiếng.

Nhà thơ Du Tử Lê (bên trái) và nhà báo Tùng Duy tại Hà Nội tháng 6/2014
Nhà thơ Du Tử Lê (bên trái) và nhà báo Tùng Duy tại Hà Nội tháng 6/2014

Chữ “Khúc” nhuốm tràn thơ Du Tử Lê. Giờ đã vượt tuổi thất thập ông vẫn ám ảnh với “Khúc”. Ông nói nó là khúc sông, đoạn đời, khúc đường, đoạn người đi qua bao nhiêu là khúc. Khúc hạnh tuyền núi sông, Đoản khúc ngựa hoang, Khúc tháng hai (và tháng nào trong năm cũng có bài về khúc), Thu khúc, Biệt khúc… Và, “Khúc” lẩn vào thơ ông cả những bài chả có chữ khúc nào.

Lại nói về Thuỵ C. Năm 1976 lá thư đầu tiên Du Tử Lê từ Mỹ gửi về đã đến tay Thuỵ C. Nước mắt người vợ tưởng đã cạn khô vì ngỡ chồng đã chết nay lại trào ra. Mãi đến năm 1978 Du Tử Lê mới đón được vợ con sang Mỹ, khi ấy Thuỵ C. đã kịp đưa hai con sang Pháp – quốc tịch gia đình cô sẵn có trước lúc ra đi . Nhưng…

Sống ở Califonia, nhà thơ, nhà báo Du Tử Lê đã vướng vào một cuộc tình khác dưới anh đèn của làng showbiz đô thị. Một nữ nghệ sỹ đã đốt cháy trái tim loang lổ toàn thơ gắn “Khúc” của Du Tử Lê. Thuỵ C. như muốn lên cơn. Cô viết đơn ly dị. Thi sỹ có tội đã chết lặng không ký. Nhưng cuối cùng nó đã kết thúc bằng văn bản ly hôn do một luật sư soạn ra mà chính Du Tử Lê đưa về nhà. Cả hai người sau đó đã ruổi theo hai con đường có những cuộc hôn nhân mới. Giờ Thuỵ C. vẫn sống ở Cali. Có lẽ câu nói của cô, rằng “không bao giờ được nhắc đến tên tôi nữa” mà Du Tử Lê muốn tác giả bài viết này ém lại bằng một chữ tắt khi muốn nhắc tên cô vào một sáng mùa hạ có ly cà phê vỉa hè Hà Nội tháng 6.2014.

Hà Nội dễ thương. Ly cà phê (ông có thể uống… suốt ngày) ông cảm nhận thật khoái khi nói vậy bên vỉa phố Ấu Triệu. Quần soóc áo phông vàng và dép lê cứ dễ dãi kỳ lạ. Ông vẫn hút thuốc. Ngày 21.6 là Ngày Nhà báo Việt Nam, ông cũng biết. Tôn vinh nghề viết là đúng rồi, ông tâm sự là sau này “về núi” sẽ đắm mình ở TP Hồ Chí Minh. Thành phố đã khác quá rồi. Ngã tư Bảy Hiền cũng khác quá rồi. Nhưng dân tộc thật tuyệt. Ông mong một lần đi thăm Tây Bắc để được đắm mình vào văn hoá đặc biệt qua làn xoè của người Thái hay tiếng khèn gợi tình của người Mông, hay trở lại Plâyku thăm bằng hữu xưa… Giỏ hoa thời mới lớn – tập thơ tặng độc giả Việt đêm giao lưu ở nhà hoạ sỹ Lê Thiết Cương, người phác hoạ tranh bìa của tập thơ, tại Hà Nội mới đây tựa như dòng nhật ký chưa đủ lẽ thôi nôi để lai dắt một “Khúc” Du Tử Lê vẫn còn những bí ẩn…

Hà Nội, tháng 6.2014

Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, sau đổi là Lê Tử Du, sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam, sau theo anh trai lên học ở Hà Nội và vào sinh sống ở Sài Gòn. Thơ Du Tử Lê từng được đăng trên hai nhật báo Los Angeles Times và New York Times, được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở nhiều trường đại học Mỹ, được dịch ra trng nhiều cuốn sách nổi tiếng, và đặc biệt có tới hơn 300 được các nhạc sỹ phổ nhạc.

[footer]

Người Đẹp Và Suối Tóc

Mái tóc của phái đẹp từ lâu đã đi vào dòng nhạc xưa qua nhiều sáng tác bất hủ. Hôm nay, Dòng Nhạc Xưa xin mạn phép đăng lại bài viết có giá trị của ca sỹ Quỳnh Dao.

Ảnh: kontumquetoi.com
Ảnh: kontumquetoi.com

NGƯỜI ĐẸP VÀ SUỐi TÓC
(Nguồn: dactrung.com)

Một thương tóc xõa đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương đôi mắt như sao hiền mùa thu…

Chúng ta đều biết Đông và Tây ít khi gặp nhau và người Việt mình khác dân Tây phương về nhiều lĩnh vực. Chuyện ấy lý luận cả tháng chắc cũng không hết. Trong mục tạp ghi hôm nay, người viết chỉ dám đề cập đến cái rất riêng trong những cái chung của hai thế giới. Cái chung là Đông Tây gì thì cũng yêu cái đẹp và thích ca tụng vẻ đẹp. Cái riêng là cách tán tụng vẻ đẹp. Nói cho “huy hoàng” vào ngày cuối năm thì sự dị biệt của người mình và người ngoại quốc chính là “mỹ quan”.

Bảo rằng huy hoàng để cho vui thôi chứ người ta có nhiều cách so sánh chuyện riêng và chung của hai nếp văn hoá, trong khi Quỳnh Giao chỉ dám thu hẹp vào một lĩnh vực nhỏ xíu… bằng sợi tóc. Đó là những khúc tình ca viết về mỹ nhân với suối tóc.

Ngẫm lại thì nhạc ngoại quốc có lời từ ca tụng nhiều nhất là đôi mắt, ngay sau đó tới… thân hình. Còn các nhà thơ và giới sáng tác của chúng ta chỉ cần mê đôi mắt và.. tụng mái tóc thì “cũng đủ lãng quên đời”. Hèn chi mà Đinh Hùng viết “một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc….”

Vì vậy, xin nói về mái tóc trong các nhạc khúc xa xưa.

Từ thuở phôi thai của nền tân nhạc, Thẩm Oánh có bài “Suối Huyền” nhịp Slow, viết theo giai điệu Hạ Uy Di, nghe lả lướt óng chuốt, tiếc là đã lâu không còn ai hát lại nữa. Người viết thì còn nhớ hình bìa in ảnh cô Tâm Vấn với mái tóc dài, dợn sóng và khóe mắt hồ thu. Cũng theo lời thân mẫu kể lại thì ông viết để tặng mái tóc nổi tiếng ấy.

Suối huyền, lả buông làn tóc
Thướt tha, óng chuốt uốn lưng ong…

Nhớ lại thì cả Thẩm Oánh và Văn Phụng đều cùng thấy mái tóc óng mượt chảy xuôi như môt dòng suối.

Suối Tóc (Văn Phụng – Thy Vân).

Khi kết duyên cùng Châu Hà, nhạc sĩ Văn Phụng viết bài “Suối Tóc”, với lời của Thy Vân. Ca khúc có nét tân kỳ quý phái với điệu Boston dìu dặt như nhịp bước của đôi tình nhân. Không biết tác giả có lời yêu cầu với ông Thy Vân không, mà lời ca thì rõ là để tả mái tóc thời ấy của cô Châu Hà. Buông dài đến tận lưng, mầu nâu nhạt óng ả. Cho đến nay, ca khúc này vẫn còn được hát, đơn ca hay song ca, tam ca đều hay. Và dĩ nhiên người hát bài này tình tứ nhất là Châu Hà. Chứ còn ai nữa!..

Tìm cho thấy liễu xanh xanh lả lơi
Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai…

Cũng có khi ca dao được dùng làm tựa đề như bài “Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài” của Phạm Duy một thời được những người con trong gia đình là ban Dreamers hát hằng đêm tại phòng trà Ritz. Như các tình ca khác của Phạm Duy, đến nay bài này vẫn thịnh hành. Cách hay nhất là song ca nam nữ.

Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc
Thuở ấy anh vừa thôi học xong
Yêu anh yêu anh em làm thơ
Yêu em yêu em anh soạn nhạc…

Nhạc sĩ Nguyển Hiền có nét nhạc bay bướm mềm mại và viết bài “Mái Tóc Dạ Hương” phổ thơ Đinh Hùng rất đạt. Nhịp Boston êm đềm và cung Trưởng trong sáng làm cho ca khúc dễ hát dễ nghe. Ngày xưa Thanh Lan hát bài này trong cassette của Phạm Mạnh Cương rất dễ thương.

Từ giã hoàng hôn trong mắt em
Tôi đi tìm những phố không đèn
Gió mùa thu sớm bao dư vị
Của chút ân tình hương tóc quen…

Cũng trong băng nhạc Phạm Mạnh Cương, Thanh Lan có hát bài “ Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè”. Bài hát có tựa đề giống tên dịch từ một cuốn phim chiếu ở Sài Gòn thời 70.

Ca khúc này được Phạm Mạnh Cương viết trên cung Trưởng, nhịp Boston .

Em buông lơi tóc thề
Tình mình theo cơn lốc về
Em như mưa nắng hạ
Hôn bờ biển xanh sỏi đá…

Hồi còn làm nhân viên cho phòng kỹ thuật cho đài phát thanh Sài Gòn, nhạc sĩ Hoài Linh có sáng tác bài “Về Đâu Mái Tóc Người Thương”, thường được Thanh Thúy trình bầy và thính giả rất thích vì tưởng tượng ngay ra mái tóc rất đặc biệt của người nữ ca sĩ có nét đẹp rất Liêu Trai…

Hồn lỡ sa vào đôi mắt em
Chiều nao xoã tóc ngồi bên rèm…

Ra hải ngoại, Quỳnh Giao được nghe và thích bài “Tóc Mây”, về sau mới biết là của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Bài này thường được các nhạc sinh học hát chọn để trình bầy, vì nét nhạc lên bổng xuống trầm thật thướt tha và lả lướt. Nhịp Slow chậm rãi trên cung Trưởng trong sáng. Người viết nghe nhiều version, nhưng thích nhất là giọng Thái Hiền khi diễn tả ca khúc này. Cô diễn tả được nét bơ vơ, phát âm rõ ràng tròn trịa và không cường điệu.

Như cánh hoa đêm đong đưa nụ tình
Gọi mời cơn gió hôn lá trên cao
Như cánh chim đêm bơ vơ một mình
Trời bao nhiêu gió tóc bao nhiêu tình…

Cũng ở hải ngoại , Thanh Trang của “Duyên Thề” sáng tác thêm nhiều ca khúc trữ tình đẹp cả từ lẫn nhạc. Bài anh viết về mái tóc phổ thơ Hà Nguyên Dũng có tựa đề rất nên thơ là “Tóc Em Vẫn Là Hương Của Mẹ”. Nét nhạc mang âm hưởng cổ kính của đất Thần Kinh.

Trời đang nắng bỗng mưa nào ai biết
Mưa ướt rồi mái tóc xoã phai hương
Anh yêu lắm mùi hương trên làn tóc
Em đi qua thơm ngát cả con đường…

Nhạc sĩ trong giới tubip Phạm Anh Dũng thường sáng tác tình ca, có bài “Tóc Thề Đi Đâu Mà Vội” phổ thơ Hoàng Lan Chi, nhịp Luân Vũ nhịp nhàng, êm ái. Hát lên là nhớ lại thuở mặc áo dài trắng đứng trong sân trường.

Em đi đâu mà vội
Nắng đã xếp hàng chưa?
Tóc còn bờ vai xõa
Cho ai lời hẹn xưa…

Chắc là còn nhiều lắm mà khuôn khổ một bài tạp ghi không cho người viết kể lể nhiều hơn. Người Tây phương ít khi rưng rưng chỉ vì một sợi tóc, chứ người Việt chúng ta lãng mạn mà kín đáo. Thương mái tóc là nhớ cả dáng người. Phải chăng vì mái tóc là biểu tượng của sự dịu dàng thơm tho, và cả nét đẹp của tâm hồn người yêu mái tóc nữa?

Nghĩ lại thì lối ca tụng cái đẹp tinh khiết và thánh thiện đó là một phong cách văn minh mà mình nên gìn giữ.

Tình Khúc Thứ Nhất (Vũ Thành An – Nguyễn Đình Toàn)

Trong một bài viết trước đây về nhạc sỹ Vũ Thành An, [dongnhacxua.com] có nhắc đến sáng tác đầu tiên đưa nhà nhạc sỹ đến với công chúng: bản “Tình khúc thứ nhất”. Hôm nay, chúng tôi mạn phép đăng lại bài viết của nhạc sỹ Tuấn Khanh về nhạc phẩm nổi tiếng này.

Tình khúc thứ nhất (Vũ Thành An - Nguyễn Đình Toàn). Anh: NguoiDoThi.vn
Tình khúc thứ nhất (Vũ Thành An – Nguyễn Đình Toàn). Anh: NguoiDoThi.vn

GHI CHÉP DĂM PHÚT VUI TRẦN THẾ
(Nguồn: nhacsituankhanh.wordpress.com)

Trong tất cả những tác phẩm mà nhạc sĩ Vũ Thành An đã cống hiến cho đời, có lẽ Tình khúc thứ nhất là một tuyệt phẩm lạ thường nhất. Mọi người vẫn nói vậy, khi ngồi với nhau và hát, nhân khi nghe tin nhạc sĩ Vũ Thành An rồi sẽ được chấp nhận xuất hiện ở quê nhà.

Nhà thơ Trần Tiến Dũng thường rất ít khi hát, nhưng trong dăm phút vui trên cõi đời cứ dần cạn, mỗi khi nói về cuộc đời và tình yêu, ông hay xin được hát bài này thay cho ngôn từ của mình. Ông không phải là một giọng hát hay, nhưng khi cất lên giai điệu của Tình khúc thứ nhất, thường thì ai có mặt cũng đều xúc động như lặng nhìn một bức tranh tuyệt đẹp của đời người, đầy những gam màu của bầu trời và vực thẳm.

“Nhiều năm nữa, người ta có thể viết nên những bài thơ hay hơn, nhưng khó mà thương đau cao vút như lời của Nguyễn Đình Toàn và nhạc của Vũ Thanh An”, nhà thơ Trần Tiến Dũng vẫn nói như vậy, trong sự xúc động mỗi khi nghe lại. Nhà thơ có ngôn ngữ hiện đại hiếm hoi của Việt Nam được nhà xuất bản Norton (Mỹ – 2007)* chọn dịch để giới thiệu 100 gương mặt thi ca đương đại Châu Á này, luôn nói ông cứ bị chấn động khi nghe phần ngôn xướng của Tình khúc thứ nhất, như được uống phần suối nguồn tinh hoa của một quá khứ văn nghệ vàng son miền Nam Việt Nam.

Có cái gì đó thật lay động khi người ta lắng nghe ca từ của Tình khúc thứ nhất. Bài hát được viết vào năm 1963, nhân công việc ở Đài Phát Thanh Sài Gòn mà ông gặp được nhà văn Nguyễn Đình Toàn để có được cơ duyên cho ra đời bài hát này. Từ năm 1954, khi đặt chân vào miền Nam, nhạc sĩ Vũ Thành An trãi qua nhiều khó khăn để vào đời, cũng như không dễ dàng thành đạt trong đời sống âm nhạc ở Sài Gòn lúc ấy đang có quá nhiều tên tuổi văn nghệ áp đảo. Nhưng khi nổi lên với Tình khúc thứ nhất, Vũ Thành An lập tức trở thành một cái tên lớn và được ghi nhớ mãi về sau, bất chấp có những nghịch cảnh của thời thế khiến ông phải cắt đứt với âm nhạc bình thường trong một giai đoạn dài.

Trong những cuộc tán gẫu bất tận về sự diệu vợi của nền âm nhạc miền Nam giữa cuối thế kỷ 20, Vũ Thành An vẫn được nhắc đến với nét nhạc luôn buồn bã loay hoay. Ngay cả trong lời hy vọng của ông, nghe như cũng vang lên từ huyệt mộ sâu thẳm. Đôi lúc người nghe phải tự hỏi rằng thương đau nào mà ông đã trãi qua, tận cùng đến mức trong ý nhạc đó, luôn là sự cào cấu của hối tiếc, nghẹn ngào. Lạ lùng, những điều đó làm nên tên tuổi của ông. Không biết liệu hôm nay, đứng trên một sân khấu những người nghe đã rất khác, một cuộc sống rất khác, liệu ông có tìm thấy một chút nắng vàng đẹp đẽ ngày cũ của mình?
“Lời nào em không nói em ơi. Tình nào không gian dối. Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say…” câu hát được đẩy đến những thanh âm cao ngất, như một lời oán thán trong đêm. Vọng âm như một đoạn thánh thi về tình yêu mà tuyệt vọng là cảm giác chiếm hữu duy nhất. Có rất nhiều nhạc sĩ đã viết về nỗi buồn, mỗi người một vẻ, mà thế giới của Vũ Thành An là một điều rất lạ, dường như vẫn sẽ day dứt, giày vò sẽ còn đuổi theo ông suốt hết kiếp người.

Non nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Việt Nam dừng tiếng súng. Nhiều bài hát tưởng chừng khó khăn lắm mới trở lại đời thường, rồi cũng đã dần dần xuất hiện trên sân khấu, truyền hình. Đã nhiều chục năm, nhưng nhiều bài hát nghe đâu như vẫn còn rất tươi mới những nỗi lòng người Việt. Câu chuyện tình yêu đơn sơ ở quê nhà bị lạc mất trên những nẻo đường đô thị đầy cám dỗ, vang vọng sự hối tiếc – như Tình khúc thứ nhất – cũng không phải xa lạ gì trong cuộc sống hôm nay. Những người con trai, con gái Việt Nam giờ đây trong đất nước có tên gọi thanh bình vẫn phải rời bỏ làng quê để đi tìm một cơ hội trong đời, rồi không còn quay lại. Dù ở thế hệ nào, vẫn có thể nao nao như tìm thấy phận mình trong tiếng ca muôn thuở.

Không phải ngẫu nhiên mà Tình khúc thứ nhất hay vô vàn những bài tình ca, những lời hát về cuộc đời… mà hàng ngàn bài hát của nền văn hoá miền Nam trước năm 1975 vẫn sống và lay động lòng người bất chấp rêu phong thời cuộc. Những bài hát đó vẫn góp tiếng vào thị trường thương mãi âm nhạc, nhưng được viết ra bằng sự chia sẻ, bằng cách kết nối sự cảm thông của thành thị và thôn quê, của con người biết đau từng nỗi đau của nhân thế. Khác với mua bán và giải khuây, những bài hát đó là lịch sử và văn hoá của một thời kỳ, nó giảng giải một cách đơn giản về chiến tranh và mất mát, chia sớt nỗi buồn của thân phận và nghịch cảnh quê hương mà không có chương trình lịch sử nào có thể sánh bằng. Vi vậy, dù đã nghe biết bao lần, trái tim ta vẫn diệu vợi khi thưởng thức, như chỉ mới vừa biết một tình khúc nào đó, lần thứ nhất trong đời.

Cuộc đời khép mở bất tận. Hôm qua, có những bài hát bị giày xéo và nguyền rủa, thì hôm nay chúng lại được trang hoàng lộng lẫy, gọi mời trở lại. Không ai có thể tự giày xéo mình đau thương bằng chính mình, cũng như chỉ có chế độ kiểm duyệt mới có thể cắt ứa máu linh hồn và trí tuệ của chính dân tộc mình.

Có người nói rằng dẫu muộn, thì việc chấp nhận phần văn hoá miền Nam Việt Nam đó vẫn còn hơn không. Nhưng ai biết được, rằng cuộc quay lại đó, là huy hoàng đón nhận hay chỉ là lời chào kết thúc.

Nhà thơ Vũ Ngọc Giao cũng viết trong một cuộc rượu, rằng:
Về đâu khi ngày đã tắt
Ngồi đây ta uống rượu chơi
Cuộc đời nằm trong con mắt
Một lần khép mở mà thôi

Ôi… trong một lần khép mở ấy, vô tận ấy biết bao đổi thay, chứa khôn cùng buồn vui trần thế.

[footer]

Khúc Thụy Du (Anh Bằng – Du Tử Lê)

“Khúc Thụy Du” không phải là một bản nhạc xưa nhưng rất được đón nhận bởi hầu hết ca sỹ cũng như công chúng yêu dòng nhạc này. Đó là một nhạc phẩm mà nhạc sỹ Anh Bằng viết tại hải ngoại sau 1975, lấy ý thơ từ bài thơ cùng tên sáng tác năm 1968 của nhà thơ Du Tử Lê. [dongnhacxua.com] còn nhớ lần đầu nghe bản này là vào đầu thập niên 1990 qua tiếng hát đầy cảm xúc của ca sỹ Tuấn Ngọc.
Bản nhạc nổi tiếng thế nào thì chắc có lẽ chúng ta không cần nói thêm. Thế nhưng rất ít người yêu nhạc biết rằng tựa bài thơ là sự kết hợp giữa chữ lót của người yêu nhà thơ (bà Thụy Châu) và chữ đầu trong bút danh Du Tử Lê.

VỀ BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU”
(Nguồn: DuTuLe.com)

Du Tử Lê. Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Du Tử Lê. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Khi biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.

Đầu tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả khu Ngã tư Bảy Hiền.

Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền, ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân chúng, binh sĩ hay bộ đội CS.

Khi tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.

Khi tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh mạng cho tôi, dù là bạn cũ….

Trên đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại gây chấn động dữ dội trong tôi…

Giữa tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục bản.

Gọi là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại –  – Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá lâu.

Sau khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.

Tôi nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa…

Cuối cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.

Viết xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung!

Bài thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ.

Thời đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách, tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.)

Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ – bày quả rỉa xác người – (của tươi đời nhượng lại) – bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân… 

Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?

Như đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ.

Bài thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972).

Cuối năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 973.

Nhạc sỹ Anh Bằng. Ảnh: sbtn.tv
Nhạc sỹ Anh Bằng. Ảnh: sbtn.tv



Năm 1983, tôi cho tái bản cuốn thơ này sau khi được một độc giả du học tại Mỹ trước năm 1975, cho lại. Cô nói, tôi phải hứa in lại và dành bản đầu tiên cho cô…

Sau đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc ngay ngã tư đường Trask và Fairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh: “Tôi có thể chỉ cho người đó hát…”

Thời gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.

Khi ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà, không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.

Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca khúc “Khúc Thuỵ Du”…

Nhưng, hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…

(1-30-2010.) 

NGUYÊN VĂN BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU”
(Nguồn: DuTuLe.com)

1.

như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời

như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được

như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay

trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình

trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi ?

2.

mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài

ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thụy ơi và thụy ơi

tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thụy ơi và thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết

tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
thụy ơi và thụy ơi

 không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể

anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển

(3-68)

[footer]

Đồi Thông Hai Mộ (Hồng Vân)

Trong một bài viết về bản “Người ấy” của nhạc sỹ Trần Quý, tức Hồng Vân, chúng tôi có nhắc đến sáng tác có lẽ là nổi tiếng nhất của ông: “Đồi thông hai mộ”. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, chúng tôi xin giới thiệu bản nhạc này.
[dongnhacxua.com] không có nguồn tư liệu chính xác về thực hư của câu chuyện tình buồn “Đồi thông hai mộ” nhưng nếu đúng như truyền thuyết kể lại thì chúng tôi cầu mong linh hồn của hai nhân vật sẽ được an lạc nơi chốn vĩnh hằng “như lời xưa thề ước”!

Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Đồi thông hai mộ (Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

doi-thong-hai-mo--1--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com doi-thong-hai-mo--2--hong-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ CÂU CHUYỆN “ĐỒI THÔNG HAI MỘ”
(Nguồn: wikipedia.org)

Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.
Cổng vào Đồi Thông Hai Mộ.

Thắng cảnh Đồi thông hai mộ thường được gắn với những câu chuyện ly kì, tuy nhiên có một câu chuyện được cho là trung thực nhất kể rằng: chàng tên Vũ Minh Tâm, nàng tên Lê Thị Thảo. Chàng quê ở Gò Công, Tiền Giang, sinh trong một gia đình đại điền chủ giàu có, là sinh viên Trường Võ bị Đà Lạt. Nàng:

        “… năm ấy khi tuổi vừa đôi chín
        Tâm hồn đang trắng trong
        Như chim non khi ăn còn chưa no
        Khi co còn chưa ấm”

Họ gặp nhau tâm đầu ý hợp, yêu nhau tha thiết và thề non hẹn biển. Tốt nghiệp, chàng về xin cha mẹ trầu cau cưới hỏi… nhưng bị gia đình phản đối kịch liệt vì gia đình nàng không “môn đăng hộ đối” và bắt đi cưới người con gái mà chàng không hề yêu. Chàng đã xin chuyển đến một vùng tuyến đầu lửa đạn để tìm quên… Và rồi, nàng nhận được tin báo tử của chàng từ chiến trường. Đau khổ tột cùng:

        “nàng buồn thơ thẩn chẳng còn ngồi
        trang điểm qua màu phấn
        Để phai úa đến tàn cả hương sắc
        tháng ngày luôn héo hon”

Sau đó, nàng tìm đến khu đồi thông bên bờ hồ Sương Mai (sau tình sử này được gọi là hồ Than Thở), nơi hai người xưa kia từng hò hẹn, tự vẫn chết vào ngày 15 tháng 3 năm 1956. Thuận theo nguyện vọng, gia đình đã chôn cất nàng ngay dưới khu đồi thông. Nhưng thật ra người ta đã nhầm khi báo tử, chàng không tử trận và đang trở về thăm nàng. Hay tin nàng chết, Tâm tìm đến mộ nàng vật vã khóc than, sau đó cũng tự tử chết theo để giữ trọn lời thề[6]. Trước khi chết, chàng để lại bức thư tuyệt mệnh với mong ước được yên nghỉ bên cạnh mộ nàng để hai người mãi mãi được gần nhau. Và:

        “… mộ chàng đã được ở cạnh nàng
        Như lời xưa thề ước
        Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc
        dưới mộ sâu đất khô
        Qua bao năm rêu xanh phủ che kín…”

Hai ngôi mộ trên đồi thông.
Hai ngôi mộ trên đồi thông.

Tuy nhiên, sau năm 1975, do tuổi cao sức yếu, không thể thường xuyên lên thăm mộ con, cha mẹ chàng đã cho bốc mộ anh đưa về quê. Dù hài cốt chàng đã được dời đi nhưng cảm thương mối tình của hai người, người thân của nàng vẫn để ngôi mộ đôi. Và sau này ngôi mộ được tôn tạo khang trang lại, trở thành điểm tham quan du lịch độc đáo như hiện nay.

Nhân dịp Festival hoa Đà Lạt 2012, Ban tổ chức đã cho trồng toàn hoa tím chung quanh khu mộ.

[footer]

Người ấy (Trần Quý, tức nhạc sỹ Hồng Vân)

Chúng tôi vừa nhận được email của một người yêu nhạc xưa hỏi về bản “Người ấy” của nhạc sỹ Trần Quý. Trước hết [dongnhacxua.com] xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị xa gần. Chúng tôi cũng xin chia sẻ thật lòng đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe nói đến bản “Người ấy” và nhạc sỹ Trần Quý.
Tìm hiểu nhiều nguồn thông tin trên internet, chúng tôi tạm đi đến kết luận Trần Quý chính là một bút hiệu khác của nhạc sỹ Hồng Vân, tác giả bản “Đồi thông hai mộ” nổi tiếng. Thông tin chúng tôi có được về nhạc sỹ quá ít. Hiện chúng ta cũng không rõ nhạc sỹ sinh sống ở đâu hay đã ra đi về nơi xa.
Qua bài viết này, [dongnhacxua.com] xin tri ân nhạc sỹ Trần Quý và mong bạn bè xa gần nếu có thêm thông tin thì cung cấp cho chúng tôi để bổ sung cho thế hệ sau.

Người ấy (Trần Quý, tức nhạc sỹ Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Người ấy (Trần Quý, tức nhạc sỹ Hồng Vân). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

nguoi-ay--1--tran-quy--amnhacmiennam--dongnhacxua.com nguoi-ay--2--tran-quy--amnhacmiennam--dongnhacxua.com nguoi-ay--3--tran-quy--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

Ảnh: thanhthuy.me
Ảnh: thanhthuy.me

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ HỒNG VÂN
(Nguồn: wikipedia.org)

hong-van-nhac-sy--wikipedia--dongnhacxua.comHồng Vân (Trần Quý) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là tác giả bài “Đồi thông hai mộ” nổi tiếng và nhiều ca khúc dành cho tầng lớp bình dân tại Sài Gòn trước 1975.

Ông tên thật là Trần Công Quý. Không rõ thân thế cũng như năm sinh và năm mất của ông. Bút danh Hồng Vân là tên thật người vợ của ông. Nhiều bài hát của ông được ký tên Hồng Vân – Trần Quý. Ngoài ra ông còn dùng một bút danh khác là Dạ Lan Thanh.

Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam và sinh sống tại Đà Lạt. Khoảng thập niên 1960, ông vào Sài Gòn lập nghiệp bằng nghề viết nhạc. Ngoài viết nhạc, ông còn mở thêm lớp nhạc Hồng Vân tại Chợ Quán do ông trực tiếp dạy nhạc lý và Trung Chỉnh luyện hát. Một số ca sĩ nổi tiếng từ lớp nhạc này gồm có Thủy Tiên, Thanh Hương, Tuyết Linh… Ngoài ra, ông còn làm trưởng ban Nhạc thời trang Đài truyền hình Việt Nam, ban nhạc Hồng Hà, và điều khiển nghệ thuật của hãng đĩa Continental.

Ông có người vợ cũng viết nhạc là Như Phy – tác giả một số bài như Hai Đứa Nghèo, Người Mang Tâm Sự, Đường Tình…

Sau 1975, không còn ai biết tung tích Hồng Vân & gia đình ở đâu.

[footer]

Em đến thăm anh đêm 30 (Vũ Thành An – Nguyễn Đình Toàn)

Theo ý thơ của thi sỹ Nguyễn Đình Toàn, nhạc sỹ Vũ Thành An đã góp một nhạc phẩm bất hủ vào kho tàng nhạc Xuân. [dongnhacxua.com] muốn trân trọng nhắc đến “Em đến thăm anh đêm 30”. Một điểm khá lý thú là nhạc phẩm này không dùng một chữ “xuân” như nhiều ca khúc khác mà thay vào đó chúng ta chỉ thấy “tết”.

Em đến thăm anh đêm 30 (Nguyễn Đình Toàn - Vũ Thành An). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Em đến thăm anh đêm 30 (Nguyễn Đình Toàn – Vũ Thành An). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

em-den-tham-anh-dem-30--1--vu-thanh-an--nguyen-dinh-toan--amnhacmiennam--dongnhacxua.com em-den-tham-anh-dem-30--2--vu-thanh-an--nguyen-dinh-toan--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

EM ĐẾN THĂM ANH ĐÊM 30
(Nguồn: yume.vn)

Những ngày cuối năm.

Khuya. Khi còn lại một mình trên mạng, tôi hay treo blast : Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?

Một bạn tình cờ ghé lại, hỏi : Có niềm vui rồi à? Chúc mừng nhé !

Bạn chúc mừng, sao lòng bỗng ngổn ngang trăm mối. Tết đang đến rất gần, chắc chắn rồi mùa cũng sẽ rộn ràng những thời khắc chuyển giao. Nhưng ta, ta có còn những đêm ba mươi đầy háo hức?

Khi nghe và yêu thích một ca khúc nào đấy, thì bạn đã thực sự gắn hồn mình vào trong giai điệu và ca từ của bài hát. Chỉ vì tiếng guitar solo nồng nàn, một đoạn piano gõ thánh thót hay đôi khi, chỉ là một thoáng ngẫu hứng saxophone đầy phiêu lãng… Nhưng chắc chắn vẫn phải là ca từ, ca từ êm ái và mượt mà như thơ ấy. Chúng là những lời nhắc nhớ chân thành, cứ thủ thỉ bên ta mãi…

Em đến thăm anh đêm ba mươi
Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi ?
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…

Xưa, khi nhạc sĩ Vũ Thành An bắt đầu phổ nhạc những câu thơ này từ thi sĩ Nguyễn Đình Toàn, chắc có lẽ, ông đã không dụng công lắm để trao chuốt chúng thành những giai điệu ấm áp và tình cảm thế. Bởi tôi, bạn và tất cả những người đã từng yêu đều có thể dễ dàng bật lên thành câu hát. Khi khắc khoải về một vùng kí ức đẹp. Khi tiếc nuối mơ hồ về một kỉ niệm tình đã cắt cớ ngủ yên.

Có thể ta không có những đêm ba mươi cùng em vô ưu, lang thang trên những con phố mòn mỏi bước. Là con đường Duy Tân, là con đường Gia Long, là con đường Tú Xương… xa lắc trong nỗi nhớ. Và có lẽ, chúng chỉ còn là giấc mơ u hoài, lê thê kéo từ thế kỉ trước. Nơi có những đêm ba mươi, vào thời khắc giao mùa thiêng liêng vẫn còn những người phu quét lá bên đường. Miệt mài và cần mẫn. Và ta , ta có dừng lại xin một chiếc lá vàng, để làm bằng chứng yêu em?

Người phu quét đường…
Chiếc lá vàng…

Khung cảnh im lắng. Đẹp một cách mộc mạc, đơn sơ. Một bức tranh huyền thoại về tình yêu, lồng hờ hững vào trong phố. Yên bình, trong vắt. Nhưng tình yêu có thực sự cần những nhân chứng và vật chứng ấy không? Ta đã ngô nghê đặt lại câu hỏi ấy, có nghĩa là ta cũng đang dần quên đi một thời yêu đương phóng khoáng, cuồng say…

Tay em lạnh để cho tình mình ấm
Môi em mềm cho giấc ngủ em thơm
Sao Giao Thừa xanh trong đôi mắt ngoan
Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?

Thì là Tết đấy. Những con đường đang nhộn nhịp quá những người qua. Phố xá dần đông vui lên, rộn ràng những sắc màu nghênh tiếp năm mới. Với lòng người, có quá nhiều điều để háo hức, chờ mong…

Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?

Mà có phải khi ai vu vơ thốt lên câu hát bất chợt ấy, cũng là đang thực sự có niềm vui đâu…
Tháng ngày đã trôi qua
Tình đã phôi pha
Người khuất xa
Chỉ còn chút hương xưa
Rồi cũng phong ba
Rụng cùng mùa…

Tác phẩm đầu tay nổi tiếng của nhạc sĩ Vũ Thành An, “Tình khúc thứ nhất”, cũng là một bài hát phổ từ thơ của thi sĩ Nguyễn Đình Toàn : “Có yêu nhau xin ngày thơ ngây Lúc mắt chưa nhạt phai Lúc tóc chưa đổi thay Lúc môi chưa biết dối cho lời…”. Đấy là những câu thơ rưng rức đầy tiếc nuối. Mờ. Phai.

Nỗi buồn ở đây dường như đã đi đến cùng tận. Khi “chỉ còn chút hương xưa” rồi cũng đã “phong ba”, và cuối cùng, “rụng cùng mùa” ?

Không. Với kỉ niệm đẹp, nỗi buồn ấy như là một thú vui tao nhã. Những khi thấy lòng mình chùn xuống, ta thong thả mang ra gặm, nhắm…

Dòng sông đêm hồn đen sâu thao thức
Ngàn vì sao mọc hay lệ khóc nhau?
Đá buồn chết theo sau
Ngày vực sâu
Rớt hoài xuống hư không
Cuộc tình đau…

Đã có rất nhiều ca sĩ trình bày ca khúc này. Nhưng được yêu thích nhất có lẽ là Khánh Ly và Nguyên Khang. Nếu Khánh Ly với giọng hát nữ tính, đầy chất ma mị của mình đã tình tự khôn nguôi về một thời yêu thương say đắm, thì Nguyên Khang bằng sự ấm áp cố hữu, lại đem đến một hoài niệm buồn. Một nỗi buồn sang trọng và cần thiết.

Giao thừa đang sắp đến. Gần, đã gần lắm rồi…

Và trong cái thời khắc mong manh ấy, khi trời đất đang bắt đầu trở mình cho một cuộc chuyển giao, thế nào tôi cũng để cho cái ngày xưa của mình quay lại. Rằng :

Em đến thăm anh đêm ba mươi Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi ?
Anh nói với người phu quét đường Xin chiếc lá vàng, làm bằng chứng yêu em…
.
(*) Nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.

Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên (Từ Công Phụng)

Cũng viết về xuân xưa, những mùa xuân khi đất nước còn vương khói lửa chiến tranh nhưng “Mùa xuân trên đỉnh bình yên” là một bức tranh với sắc màu hoàn toàn khác mà trong đó chúng ta như bước vào một thế giới thoát tục để tâm hồn thật sự tĩnh lặng mà đón một mùa Xuân bình an. Hòa trong không khí Xuân Bính Thân 2016, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu sáng tác đặc sắc này của nhạc sỹ Từ Công Phụng.

mua-xuan-tren-dinh-binh-yen--1--tu-cong-phung--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

Mùa xuân trên đỉnh bình yên (Từ Công Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Mùa xuân trên đỉnh bình yên (Từ Công Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

TÂM TÌNH VỚI NHẠC SỸ TỪ CÔNG PHỤNG
(Nguồn: tác giả Nguyễn Phước Nguyên trò chuyện cùa Từ Công Phụng)

Nguyễn Phước Nguyên: Trong bài “”Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên”” có đoạn: “Xin đỉnh yên bình, một mùa xuân ôm kín chân trời của tuổi thơ thôi rã, thôi rời. Xin đừng làm bão tuổi đôi mươi, một vòng tay khắc khoải buông xuôi. Từng niềm vui bay theo biển gió. Hãy ôm trọn, ôm trọn tuổi Xuân…”
Nhạc của Từ Công Phụng chuyên chở rất nhiều những tiếc nuối, những xót xa vời vợi như thế. Từ những nỗi buồn xa xưa của “Bây Giờ Tháng Mấy” cho đến trong CD mới nhất – “Mưa Trên Ngày Tháng Đó”, xin cho biết Từ Công Phụng nhìn và nói về nỗi buồn của mình trong âm nhạc ngày xưa và ngày nay ra sao? Giống nhau chỗ nào, khác nhau chỗ nào?

Nhạc sỹ Từ Công Phụng. Ảnh: saigonocean.com
Nhạc sỹ Từ Công Phụng. Ảnh: saigonocean.com

Từ Công Phụng: Ở cái tuổi quá 50 của tôi hiện nay, không còn là cái tuổi mộng mơ của thuở hồng hoang, mà cũng chưa phải là cái tuổi nhìn thấy bóng hoàng hôn dưới chân đồi. Chúng tôi lớn lên và sống trong hoàn cảnh của đất nước đã trải qua quá nhiều biến động vì chiến tranh. Không phải đợi đến lúc xế chiều chúng tôi mới nhận thức được những mất mát lớn lao của tuổi trẻ trong thời ấy, mà ngay từ lúc bấy giờ chúng tôi đã nhìn thấy những mong manh, những ngơ ngác, những mất mát đớn đau theo dòng đời mà chúng tôi đã bị cuốn hút vào trong ấỵ. Từ đó tôi mới có một niềm mơ ước thật nhỏ nhoi dành riêng cho những đôi tình nhân trong thời tao loạn thể hiện qua bản “Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên”. Tôi mơ ước có một nơi chốn thật bình yên cho đôi tình nhân dung thân, không còn những muộn phiền vây quanh, ở đó họ sẽ tận hưởng một mùa Xuân thật nồng ấm để tiếp nối dòng đời tự ngàn xưa. Và qua bài này tôi cũng có ý nhắn nhủ những đôi tình nhân hãy nâng niu cái hạnh phúc của tuổi trẻ, vì cuộc đời không là bao mà hạnh phúc thật mong manh như một giọt nắng tan. Dường như những người bạn cùng viết nhạc một thời với tôi đều có man mác một nỗi buồn như nhau, vì chúng tôi cùng sống trong cùng một bối cảnh quê hương mang nhiều vết hằn chiến tranh. Cho nên bài hát nào trong thời ấy cũng len lén những nỗi buồn mà nhịp độ tùy theo ấn tượng của mỗi người. Trong khoảng hơn 30 năm chiều dài sáng tác, dĩ nhiên những nỗi buồn trong các ca khúc của tôi có những sự khác biệt. Ở thập niên 60, là những giòng nhạc lãng mạn thời mới lớn, mới chớm biết yêu, hàm chứa những nỗi buồn man mác nhẹ nhàng như Bây Giờ Tháng Mấy, như Mùa Thu Mây Ngàn, như Bài Cho Em, như Tuổi Xa Người, Đêm Độc Thoại, Lời Cuối, Trời Về Đêm Mưa hay Còn Một Buổi Chiều… “

[footer]

Bến Xuân Xanh (Dương Thiệu Tước)

Nhạc xuân của Việt Nam chúng ta thật đa dạng cả về giai điệu và phong cách. Nhiều bài có giai điệu dễ nghe và ca từ bình dị, đi sâu vào đại chúng như “Câu chuyện đầu năm” của Hoài An hay “Xuân này con không về” của Nhật Ngân. Hôm nay Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu đến người yêu nhạc xưa một bản nhạc đầy tính “bác học”, viết theo thể điệu valse bay bổng của cố nhạc sỹ Dương Thiệu Tước: bản “Bến xuân xanh”, sáng tác năm 1949 .

ben-xuan-xanh--1--duong-thieu-tuoc--cothommagazine.com--dongnhacxua.com

ben-xuan-xanh--2--duong-thieu-tuoc--cothommagazine.com--dongnhacxua.com ben-xuan-xanh--3--duong-thieu-tuoc--cothommagazine.com--dongnhacxua.comCA SỸ QUỲNH GIAO VIẾT BỀ BẢN NHẠC “BẾN XUÂN XANH” CỦA DƯƠNG THIỆU TƯỚC
(Nguồn: trích trong bài viết “Xuân Ca Ngày Cũ ” của Quỳnh Dao – 13.02.2008)

” Một bậc sư trong nghệ thuật dung hợp cái rất Tây và rất Ðông trong tân nhạc là Dương Thiệu Tước. Ông vua của tiết điệu bán cổ điển Tây phương trong nhạc Việt đã cống hiến cho chúng ta bản luân vũ được coi là hay nhất của Việt Nam, ca khúc “Bến Xuân Xanh”.

Dương Thiệu Tước sáng tác “Bến Xuân Xanh” rất công phu. Tác phẩm dài tổng cộng 180 trường canh (gấp ba một bài luân vũ trung bình có 64 trường canh, như “Thu Vàng” của Cung Tiến) và được viết bằng âm giai “Do trưởng”, loại âm giai được coi là “sáng”. (Xin có đôi lời về nhạc thuật ở đây: giới sáng tác nhạc cho âm giai “Ré giáng trưởng” và “La giáng trưởng” là âm giai “dịu” nhất. Âm giai “Sol thứ” và “Si thứ” là âm giai “buồn” nhất. Âm giai “Do trưởng” và “Fa trưởng” là âm giai “sáng” nhất)

Vì thế, “Bến Xuân Xanh” đòi hòi ca sĩ phải trình bày đúng âm giai nguyên thủy. Khi nghe một người trình bày không đúng “ton” (thí dụ người hát không lên được những nốt cao nhất của bài hát, phải hạ xuống một hay hai “cung”) thì ông hơi hơi buồn. Ðoạn biến khúc của “Bến Xuân Xanh” được Dương Thiệu Tước chuyển sang âm giai “La giáng trưởng” trở nên êm dịu lạ thường trước khi về lại cung “Do trưởng” trong sáng.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước còn soạn phần nhạc mở đầu (introduction) và kết thúc (Coda) thật vi vút, du dương. Lời ca trong “Bến Xuân Xanh” tràn đầy thơ, nhạc, hoa, nắng, gió và sóng nước: toàn những biểu tượng lung linh rực rỡ của Mùa Xuân. Khi Dương Thiệu Tước vừa tạ thế ở trong nước, trong dịp tưởng niệm ông ở hải ngoại, 12 năm về trước, nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi đã nhắc tới bản luân vũ này với lòng khâm phục. Không thua kém gì các nhạc khúc về sông nước nổi tiếng của Tây phương!

Ngoài “Bến Xuân Xanh” độc đáo nói trên, Dương Thiệu Tước có soạn ba bài khác về Mùa Xuân, là “Vui Xuân”, “Vườn Xuân Thắm Tươi”, và “Tìm Xuân”. Nhưng chỉ cần viết một “Bến Xuân Xanh” thôi, Dương Thiệu Tước đã xứng đáng với một chỗ đứng sáng chói trong nền tân nhạc Việt Nam …”