Với những người yêu nhạc xưa thì giai điệu mượt mà và ca từ nhẹ nhàng, khắc khoải của bản ‘Tình lỡ’ đã trở nên quá quen thuộc hơn 50 năm nay: “Thôi rồi còn chi đâu em ơi …” Tác giả của ca khúc bất hủ này là nhạc sỹ Thanh Bình. Chắc cũng như [dongnhacxua.com], bạn sẽ tự hỏi: Thanh Bình là ai? Hiện giờ nhạc sỹ thế nào? Thật may mắn, chúng tôi đọc được một bài viết của anh Hà Đình Nguyên mới đăng trên báo Thanh Niên ngay ngày hôm qua, 10/11/2013. Thế là mọi việc được sáng tỏ nhưng qua đó cũng hé mở một câu chuyện đau lòng về hoàn cảnh hiện tại của nhà nhạc sỹ!
Hàng chục năm qua, nhiều thế hệ người yêu nhạc đã mê đắm ca khúc Tình lỡ của nhạc sĩ Thanh Bình, nhưng lại rất ít người biết thông tin về tác giả.
Nhạc sỹ Thanh Bình thời trẻ. Ảnh: Hà Đình Nguyên.
Người viết đã bỏ ra suốt 2 tuần để đi tìm nhạc sĩ Thanh Bình từ tin nhắn của một bạn đọc cho biết ông đang ở một căn nhà trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, TP.HCM. Tới đúng địa chỉ này hỏi thì người ta lắc đầu, không biết nhạc sĩ Thanh Bình là ai. Hóa ra, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có một đoạn ở phía bên kia vòng xoay Điện Biên Phủ (gần kênh Nhiêu Lộc).
Cho người con gái Hải Phòng
Tôi đến và bắt gặp một ông già trên 80 tuổi, khuôn mặt thật hiền lành, mặc bộ pyjama đang ngồi trên chiếc ghế nhựa trước cửa nhà. Hỏi: Chú là nhạc sĩ Thanh Bình phải không ạ? Ông cười hiền: Đúng rồi! Tôi tặng ông cuốn Chuyện tình nghệ sĩ do tôi biên soạn và nói với ông là mình rất thích bài Tình lỡ của ông, ông hỏi: Bài đấy hay không? – Hay chứ ạ, cháu hát cho chú nghe nhé: “Thôi rồi còn chi đâu em ơi. Có còn lại chăng dư âm thôi, trong cơn thương đau men đắng môi. Yêu rồi tình yêu sao chua cay. Men nào bằng men thương đau đây. Hỡi người bỏ ta trong cơn mưa bay… Phương trời mình đi xa thêm xa. Nghe vàng mùa thu sau lưng ta. Em ơi em ơi thu thiết tha…”. Ông ngồi gật gù nghe tôi hát, thỉnh thoảng hỏi xen vào “Bài này hay không?”. Cơ khổ, đầu óc của một ông già hơn 80 tuổi đã không còn minh mẫn, ngoài tên thật: Nguyễn Ngọc Minh, sinh năm 1930 tại Bắc Ninh, còn lại là những khoảng ký ức ít ỏi…
Nhạc sỹ Thanh Bình hiện nay. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Người viết phải cố gợi lại trong trí nhớ của ông từng chi tiết nhỏ. Ông cho biết mình học nhạc với một ông thầy ở Thanh Hóa dạo tản cư thời kháng chiến chống Pháp (1946-1947), rồi sau đó tự học và phát triển thêm…
Hỏi về bóng hồng nào đã khiến ông phải đau khổ để viết nên tác phẩm ‘Tình lỡ’, ông bảo: “Ca khúc này tôi viết cho một người con gái ở Hải Phòng. Lúc đó tôi 24 tuổi và rất thiết tha với người này. Ngày tôi xuống tàu ở cảng Hải Phòng vào nam, đứng trên boong tàu, tôi nhìn thấy nàng đang hối hả chen lấn, vạch đám đông người đưa tiễn để mong kịp chia tay tôi, nhưng tôi lại đứng lẫn vào đám đông trên boong tàu, còn nàng thì chạy dọc theo bờ cảng và không nhận ra tôi… Chẳng nói được với nhau câu nào.
Tôi vào nam, ít lâu sau hay tin bố mẹ nàng ép lấy chồng. Tôi buồn lắm, khoảng 1 tháng sau tôi viết được bài Tình lỡ (1954)…”.
Theo tìm hiểu của người viết thì ‘Tình lỡ’ là ca khúc chính được sử dụng trong phim ‘Nàng ‘ do đạo diễn Lê Mộng Hoàng thực hiện năm 1970 (dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Bùi Hoàng Thư, phim đoạt giải Tượng vàng tại Đại hội Điện ảnh Á châu ở Đài Loan lần 17). Góp mặt trong phim này có: Thẩm Thúy Hằng, Trần Quang, La Thoại Tân và cả ca sĩ Phương Hoài Tâm… Ở cuối phim, Vân (Thẩm Thúy Hằng) đi dọc bãi biển trong buổi chiều lộng gió, tà áo dài bay phất phơ lồng trong tiếng hát của Khánh Ly: “… Một vầng trăng lỡ đã thôi không theo nhau. Cuộc tình đã lỡ với bao nhiêu thương đau. Hết rồi thôi đã không còn gì thật rồi. Chỉ còn hiu hắt cơn sầu không nguôi… Con đường mình đi sao chông gai. Bước vào đời nhau qua bao nay. Em ơi, em ơi! sao đắng cay…”.
Chỉ còn hiu hắt cơn sầu không nguôi
Tôi đang cố khơi gợi lại trí nhớ của ông thì chị chủ nhà đi công chuyện về. Chị tên Phượng và là cháu gọi nhạc sĩ Thanh Bình bằng cậu ruột. Qua chị, tôi biết thêm một số điều. Quả thật câu hát “Nghe vàng mùa thu sau lưng ta” khắc khoải như số phận đầy đau khổ của nhạc sĩ.
Sau 1954, nhạc sĩ Thanh Bình lấy vợ người Sài Gòn. Hai vợ chồng có một con gái và mở một tiệm cơm mà thực khách phần đông là những viên chức người Pháp. Rồi cô vợ bỏ chồng đi theo một người trong số họ về Pháp, bỏ lại đứa con gái cho ông. Vậy là “gà trống nuôi con” suốt mấy chục năm, cho đến lúc gả chồng cho con. Ông ở với vợ chồng người con gái trong một căn nhà nhỏ ở Gò Vấp. Tuổi già, lại đeo thêm những chứng bệnh về tim mạch và cao huyết áp. Thỉnh thoảng các nghệ sĩ ở nước ngoài (ca sĩ Thanh Thúy, diễn viên Giang Kim…) gửi biếu ông chút tiền chữa bệnh. Rồi người con gái phải lâm vào vòng lao lý, chị Phượng đưa người nhạc sĩ già này về nhà mình nuôi dưỡng… Hằng ngày ông bắc ghế, ngồi nhìn ra đường, giữ nhà cho con cháu đi làm ăn, học hành. Chắc ông chẳng còn nhớ, chẳng bận tâm rằng mình một thời từng sáng tác được những ca khúc khiến bao trái tim thổn thức. Và nếu như có ai nhắc lại, ông gật gù hỏi: “Bài ấy có hay không?”.
Thanh Bình không chỉ có mỗi ca khúc Tình lỡ, mà ông còn là tác giả của những ca khúc: ‘Còn nhớ hay quên?’, ‘Đừng đến rồi đi’ (1959), ‘Tiếc một người’ (1972)… Những cái tựa của các ca khúc kể trên khiến người ta tự hỏi: nhạc sĩ Thanh Bình viết cho ai đây, người yêu đầu đời hay người vợ tuyệt tình…?
Trong gia tài sáng tác đồ sộ của Trịnh Công Sơn, nhà nhạc sỹ đã ưu ái có đến hai bản nói về hoa quỳnh: Quỳnh Hương (1974) và Chuyện Đóa Quỳnh Hương (1982). Theo thiển ý của [dongnhacxua.com], quỳnh hương hay quỳnh hoa là một loài hoa đặc biệt. Hoa đâm ra từ lá chứ không phải từ thân cây như nhiều loài hoa khác. Quỳnh chỉ nở về đêm, khoảng 8h-9h tối và tàn lúc 11h-12h đêm. Mùi hương rất dễ chịu, làm ngất ngây nhưng không quá nồng nàn như hoa sữa. Rất lâu mới nở một lần nhưng rồi lại tàn nhanh. Khi tàn, nhìn cánh hoa buồn và đầy tâm trạng, như chất chứa một điều gì đó còn vương vấn, giống một sắc đẹp tận hiến cho đời rồi lặng lẽ tàn phai. Dù lòng rộn rã như “Quỳnh Hương” hay sâu lắng trong “Chuyện Đóa Quỳnh Hương”, cầu chúc bạn có được những phút giây thật sự thanh thản để cảm nghiệm món quà đơn giản nhưng nhiều giá trị mà Trời Đất ưu ái ban tặng cho chúng ta!
Theo lời kể của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: “Lúc viết bản này mình không đặt tên là Quỳnh hoa hay Hoa quỳnh chẳng hạn, vì nó … không hay, cho nên có nảy ý Quỳnh hương, không ngờ có người con gái cũng có tên Quỳnh Hương, và khi nàng nghe bản này, nàng phải lòng rồi tìm tới làm quen và làm thân… Một hôm, trước khi ra đi, nàng đến từ giã, cắm một lá quỳnh trong bồn balcon cạnh phòng, và đêm nay là lần đầu tiên Quỳnh nở…”
“Đêm nay” mà Trịnh Công Sơn tâm sự trên đây là một đêm của năm 1982, khi Trịnh Công Sơn đàm đạo cùng vài người bạn văn nghệ. Cũng có thể từ cảm hứng này mà nhà nhạc sỹ viết “Chuyện đóa quỳnh hương” chăng?
Chuyện đóa quỳnh hương (Trịnh Công Sơn). Ảnh: tcs-home.org
Đầu những năm 1990, [dongnhacxua.com] đã nghe qua ‘Có phải em, mùa thu Hà Nội’ qua giọng hát Thu Phương và Hồng Nhung. Ngày đó, cùng với ‘Hà Nội, đêm trở gió’ hay ‘Hà Nội mùa vắng những cơn mưa’ … đã làm nên một làn sóng mới thật trẻ trung và đậm chất nghệ thuật về dòng nhạc trẻ nói chung và dòng nhạc về Hà Nội nói riêng. Thế nhưng xung quanh bản ‘Có phải em, mùa thu Hà Nội’ có nhiều điều thú vị mà hôm nay chúng tôi muốn giới thiệu với quý vị.
Những điều tôi viết dưới đây thực ra cũng chẳng phải là những điều tôi thực sự viết. Hay nói cách khác, nó là một dạng đạo lại những bài viết tôi vừa tìm đọc được và bạn có thể tìm thấy chúng ở những đường dẫn ở cuối cái cập nhật trạng thái dài lê thê này.
Đầu tháng tám, thấy nhiều người nhắc lại câu hát này. Tôi cũng định vậy nhưng lại thôi vì không muốn bỗng dưng trở thành kẻ bắt chước.
“Tháng tám mùa thu, lá khởi vàng chưa nhỉ?”
Nghe ‘Có phải em mùa thu Hà Nội’ qua giọng của Hồng Nhung hay nhiều ca sĩ khác, tôi vẫn nhầm lẫn một từ rất quan trọng trong câu hát, “khởi vàng” thành “rơi vàng”. Nhà thơ Tô Như Châu khi viết bài thơ này đầu năm 1970, cũng chính vào những ngày tháng tám. Hè vừa qua, thu mới chớm. Sự thay đổi của tiết trời lúc ấy chỉ đủ khiến những chiếc lá trên những tán cây đổ sang màu vàng óng. Vì lẽ ấy, ông mới dùng chữ “khởi” – bắt đầu, chứ không phải “rơi”.
Trong bài thơ còn có câu: “Lệ mừng gặp nhau ngàn phím dương cầm”. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên Tô Như Châu đưa tiếng đàn piano vào một ca khúc trữ tình mà rất đỗi hào hùng như vậy. Có giai thoại kể rằng giữa lúc bom đạn chiến tranh, thi sĩ khi ấy ở Đà Nẵng tình cờ gặp được một thiếu nữ Hà Nội xóa tóc thề bên chiếc đàn dương cầm. Rồi chính vẻ đẹp của cô gái, của tiếng đàn thánh thót đã khơi dậy những trang sử hào hùng của “hồn Trưng Vương sông Hát” hay “Quang Trung vó ngựa biên thùy”. Tôi thì vẫn ngờ ngợ về tính xác thực của giai thoại này. Nhưng cũng có thể tại tâm hồn thô kệch của tôi chẳng bao giờ nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc đến thế, và vậy nên khó mà đặt mình vào tâm hồn của một thi sĩ.
Một câu chuyện khác cũng khá đặc biệt về bài thơ sau khi nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc cho nó vào năm 1972. Bài hát đã có mặt trong một băng nhạc miền Nam nhưng phải đến đầu những năm 90 mới bắt đầu trở nên phổ biến qua giọng hát của Hồng Nhung, Thu Phương. Cũng khi ấy, Tô Như Châu bắt đầu công việc phát báo trên chiếc xe đạp cũ kĩ của mình. Bài hát được phổ thơ ông giờ được phát đi phát lại trên phố, tạo niềm cảm hứng để ông sáng tác bài thơ “Đi bỏ báo nghe thơ phổ nhạc” với những câu thơ rất thú vị:
“Có phải em Mùa thu Hà Nội Mùa thu trong veo mùa thu tuyệt vời Sống đẹp âm thầm và khát vọng Bỏ báo đọc thơ nghe nhạc đã đời”
Nhưng niềm vui sướng của Tô Như Châu bỗng quay ngoắt 180 độ khi ông phát hiện ra ca khúc được Trần Quang Lộc phổ nhạc gần như không hề có thông tin tên tác giả bài thơ gốc. Trần Quang Lộc ban đầu lấp liếm, giả vờ như không biết Tô Như Châu là ai. Nhưng rồi với những bằng chứng xác đáng, cuối cùng cái tên Tô Như Châu cũng được ở vị trí xứng đáng của nó. Tuy nhiên thật buồn vì ông không được nhận nhuận bút bản quyền như đã hứa cho tới tận lúc qua đời vì bạo bệnh năm 2002.
Tuy vậy, đó vẫn chưa phải là điều bất ngờ nhất. Tô Như Châu lẫn Trần Quang Lộc, hai con người sinh ra tại mảnh đất miền Trung Đà Nẵng và Quảng Trị, lại chưa từng có dịp đặt chân tới Hà Nội khi tạo ra bài thơ và ca khúc bất hủ này, cho tới tận bây giờ.
http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=2691 http://www.anninhthudo.vn/Loi-song/La-khoi-vang-chua-nhi/412623.antd http://quannhac.net/tan-man/thang-tam-mua-thu Posted 7th August 2012 by Hoan Do
THÁNG TÁM MÙA THU, LÁ KHỞI VÀNG CHƯA NHỈ? (Nguồn: nhạc sỹ Phạm Anh Dũng)
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc sáng tác nhiều. Trong số đó, nổi tiếng là Về Đây Nghe Em và Có Phải Em Là Mùa Thu Hà Nội. Trước 1975, Trần Quang Lộc nổi tiếng với nhạc phẩm Về Đây Nghe Em bài nhạc phổ thơ Anh Khuê:
Về đây nghe em Về đây nghe em Về đây mặc áo the đi guốc mộc Kể chuyện tình bằng lời ca dao Kể chuyện tình bằng lời ngô khoai Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu…
CD Đêm Màu Hồng của danh ca Thái Thanh do Diễm Xưa phát hành có bản Về Đây Nghe Em do Thái Thanh, Ý Lan và Quỳnh Dao (tức là Quỳnh Hương về sau này) hợp ca. CD hay, bài hát hay nhưng bìa CD có một sơ suất nhỏ, đề sai tên tác giả thành ra là Lê Quang Lộc. Và không thấy có ghi tên thi sĩ.
Nhạc phẩm Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội (thơ Tô Như Châu, nhạc Trần Quang Lộc) thấy lưu hành sau 1975. Bài này có Hồng Nhung đã hát trong CD Chiều Phủ Tây Hồ, do trung tâm nhạc Mưa Hồng phát hành. Bìa CD có tên Trần Quang Lộc là tác giả nhưng cũng không thấy nhắc đến tên thi sĩ Tô Như Châu.
Đoạn đầu của Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội, nhạc nằm trong âm giai Trưởng, nhạc và lời rất quyến rũ:
Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ Từ độ người đi thương nhớ âm thầm Có phải em là mùa thu Hà Nội Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm Có phải em mùa thu xưa
Đoạn 2, nhạc cũng gần giống hệt như đoạn đầu, ngoại trừ mấy chữ cuối:
Có bóng mùa thu thức ta lòng son muộn Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn Có phải em là mùa thu Hà Nội Ngày sang thu anh lót lá em nằm Bên trời xa sương tóc bay
Câu “Ngày sang thu anh lót lá em nằm” nghe thật là giản dị nhưng đầm thắm.
Sang đoạn thứ 3 là đoạn điệp khúc, hai câu đầu, vẫn ở hợp âm trưởng:
Thôi thì có em đời ta hy vọng Thôi thì có em sương khói môi mềm Và sau đó, nhạc chuyển sang âm giai Thứ, buồn hơn: Có phải em là mùa thu Hà Nội Nghe đâu đây lá úa và mi xanh Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát
Có một điểm nhiều người cho hơi lạ là ở khi bản nhạc lên đến cực điểm cao vút: “Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát”. Họ không hiểu ở đây tác giả muốn nói gì vì Hai Bà Trưng tự vẫn ở sông Hát thuộc tỉnh Sơn Tây thì có liên hệ gì đến mùa Thu Hà Nội!
Lý do có lẽ như sau: Hai Bà Trưng nhảy xuống dòng sông Hát tự vận, tại tỉnh Sơn Tây. Sông Hát là giòng nước thượng lưu của sông Hồng (sông Nhị). Hồ Hoàn Kiếm và hồ Tây tại Hà Nội ngày xưa đều có nguồn từ Hồng Hà.
Đoạn thứ 4 là đoạn kết nhạc lại trở về âm giai trưởng giống như đoạn 1 và 2:
Có chắc mùa Thu lá rơi vàng tiếng gọi Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm Có phải em là mùa Thu Hà Nội Nghìn năm sau ta níu bóng quay về Ôi mùa Thu của ước mơ
Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội phải nói là một bài nhạc haỵ
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. CD Đêm Màu Hồng, Thái Thanh Hải Ngoại 3, Diểm Xưa 16 (714)540-7537 ở Hoa Kỳ. 2. CD Chiều Phủ Tây Hồ, Mưa Hồng 342 (714)531-7692 ở Hoa Kỳ, Kim Nga 01-45-829045 ở Pháp.
Phạm Anh Dũng Santa Maria, California USA
BÀI THƠ ‘CÓ PHẢI EM, MÙA THU HÀ NỘI’ CỦA TÔ NHƯ CHÂU? (Nguồn: ThiVien.net)
Tháng 11-2000 Tô Như Châu từ Đà Nẵng có gửi tặng NK tập thơ “Có phải em mùa thu Hà Nội” nxb Đà Nẵng – 1998 gồm 36 bài. Tô Như Châu (Đặng Hữu Có) sinh 1934, quê An Hải, Sơn Trà, Đà Nẵng – cư trú ở 136 Trần Phú-TP Đà Nẵng, dt.3897798; Hội Viên Hội VHNT Đà Nẵng. Nhà anh ở bên kia Sông Hàn. Năm 2000,tuy đã tren 60 xuân Thi sĩ vẫn cưỡi chiếc Honda 67 màu Bordeaux đã cũ vù vù đi “bỏ báo” kiếm cơm”: anh con ngựa già chưa mỏi vó / vẫn thênh thang bược nhẹ quanh đời / đi tung bờm tóc gió / quẳng gánh hương xa lên tiếng gọi mời / em cầu vồng bao nhiêu sắc / tháng giêng hồng rất mỏng rất mênh mông”.
Bài thơ”Có phải em mùa thu Hà Nội” anh viết vào tháng 8-1970,lúc Đà nẵng còn bời bời bom lửa chiến tranh,tình cờ anh gặp một cô gái Hà Nội chính gốc. Qua vài lần tiếp xúc & thưởng thức tiếng dương cầm thánh thót từ bàn tay trắng trẻo nuột nà mềm mại như thiên thần, lời nói dịu dàng như gió thoàng của Nàng, bỗng dưng đánh thức dậy trong lòng thi sĩ cả lịch sử hào khí của ông cha , của hồn Trưng Vương sông Hát Giang. Và thế là bài thơ ra đời…Bài thơ được Nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc năm 1972, sau này được các Ca sĩ Hồng Nhung, Thu Phương hát trở nên nổi tiếng. Nhạc Sĩ đươc giải thưởng, nhưng tên người sáng tác “lời”(thơ)thì bị “quên” một cách hữu ý ? Công luận (báo chí & dư luạn xã hội) đã nói về sự bội bạc của người bạn một thời bên xóm chài nhỏ ven bờ sông Hàn cùng anh !
Bài thơ nguyên tác như sau :
CÓ PHẢI EM MÙA THU HÀ NỘI Tháng tám mùa thu Lá khởi vàng em nhỉ Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Chiều vào thu nghe lời ru gió Nắng vàng lơ lửng ngoài hiên Mắt nai đen mùa thu Hà Nội Nghe lòng ấm lại tuổi phong sương
May mà có em cho đường phố vui May còn chút em trang sức sông Hồng Một sáng vào thu bềnh bồng hương cốm Đường Cổ Ngư xưa bắt bước phiêu bồng
thôi thì có em đời ta hy vọng Thôi thì có em sương khói môi mềm Có phải em mùa thu Hà Nội Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát Lững thững Hồ Tây một dáng Kiều Có phải em mùa thu Hà Nội Nghìn năm sau níu bóng quay về
Phải nơi đây miền Thanh Nghệ Tĩnh Phải nơi đây Hồng Lĩnh-Ba vì Phải nơi đây núi Nùng sông Nhị Lớn đậy con người đất Tổ Hùng Vương Anh sẽ đi Cả nước Việt Nam yêu dấu Đẹp quê hương gặp lại tình người Bước nhỏ long lanh hồn nghệ sĩ Mơ Quang Trung vó ngựa biên thuỳ Ngày anh đi Nhất định phải có em đường cỏ thơm giong ruổi Sẽ ghé lại Thăng Long thăm Hoàng Thành- Văn Miếu chắc rêu phong đã in dấu bao ngày
Đã nghe bập bùng trống trận Ngày chiến thắng Điện Biên Sáng hồn lửa thiêng Xuôi quân về giữ quê hương Hôm nay mùa thu Gió về là lạ Bỗng xôn xao con tim lời lá Bỗng xôn xao rơi vàng tiếng gọi Lệ mừng gặp nhau ngàn phím dương cầm Có phải em mùa thu Hà Nội Ngày sang thu lót lá em nằm Bên trời xa sương tóc bay Hà Nội ơi em có hay Quê hương thần thoại hiển linh hồn sông núi Nắng thu muôn màu rực rỡ trong hồn anh.
Tiếp nối dòng nhạc Hà Phương, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Mưa đêm tỉnh nhỏ’ mà nhạc sỹ cùng sáng tác chung với nhạc sỹ Anh Việt Thanh. Bản này, cùng với ‘Mùa mưa đi qua’ đã gắn liền tên tuổi của Hà Phương (tức Du Uyên) với những cơn mưa buồn, như chính tâm sự của ông: “Tình yêu đầu đời là những kỷ niệm sâu sắc. Đó là những đêm trên sân khấu tôi đệm đàn cho nàng hát tình khúc do tôi sáng tác. Sau đó, hai đứa dìu nhau dưới những đêm mưa buồn nơi tỉnh lẻ, ánh đèn mờ ảo, phố vắng thưa người… Ôi nhớ sao là nhớ!”.
Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương – Anh Việt Thanh). Ảnh: QuanNhacVang.com
HÀ PHƯƠNG: NHẠC SỸ CỦA MIỆT VƯỜN NAM BỘ (Nguồn: tác giả Trương Trọng Nghĩa đăng trên TienGiang.gov.vn)
Nhạc sỹ Hà Phương. Ảnh: TienGiang.gov.vn
Con hẻm ngoằn nghèo dưới chân Cầu Đỏ nằm trên Quốc lộ 60 (phường 6, thành phố Mỹ Tho) dẫn tôi vào một khu vườn nhỏ yên tĩnh, mát mẻ và trong lành. Ở đó, có một nhạc sĩ nhiều năm qua vẫn âm thầm sáng tác những ca khúc viết về quê hương, đất nước mang đậm âm hưởng dân ca Nam bộ. Đó chính là nhạc sĩ Hà Phương – tác giả của ca khúc “Bông điên điển” từng làm rung động biết bao trái tim, đặc biệt là với những người con xa xứ.
Nhạc sĩ Hà Phương tên thật là Dương Văn Lắm. Ông sinh năm 1938 tại xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang. Sinh ra trong một gia đình không có truyền thống hoạt động văn học nghệ thuật nhưng chính niềm đam mê là động lực mạnh mẽ giúp ông tìm đến với âm nhạc. Ca khúc đầu tay mang tên “Đường khuya” được nhạc sĩ Hà Phương viết năm ông 19 tuổi, bằng điệu tango nhẹ nhàng, chất chứa một nỗi buồn man mác: Đường về đêm nay buồn vắng, lạnh lùng cô đơn một bóng, nghe mưa buốt trong tâm hồn. Đường về không quen một bóng, tìm về trong hơi lửa ấm, thương ai nhớ ai vẫn còn… Chẳng rõ chàng thanh niên trẻ Dương Văn Lắm khi đó, vốn đã mang trong mình một trái tim đa sầu đa cảm hay sớm vận vào mình cái buồn của người nghệ sĩ mà đã viết lên những dòng nhạc đầy tâm trạng đến thế. Đường mưa rơi lạnh buốt, ngại ngùng chân ai nhịp bước mưa ơi thấu chăng nỗi buồn. Đường về khuya thêm lạnh giá, chuyện tình xưa chưa mờ xóa. Tâm tư gởi trao một người ấm lòng nhau tiếng cười.
Ngay từ sáng tác đầu tay, ông đã chọn cho mình bút danh Hà Phương. Cái tên ấy không gắn liền với những kỷ niệm nào đó mà là ước mơ được tung hoành rài đây mai đó, hà phương hà xứ cho thỏa chí tang bồng. Mà xem ra cuộc đời của ông cũng lắm phen sóng gió, nhiều lần phiêu bạt thật. Năm 07 tuổi, từ vùng quê nghèo khó, ông đã phải theo gia đình đến Mỹ Tho sinh sống. Và rồi ông đã trải qua thời thanh niên nơi Sài Gòn hoa lệ. Có lúc ông dạy nhạc ở Long An, đôi khi lại về Bến Tre – quê hương người bạn đời của ông, hay lang thang khắp nơi chỗ vài tháng, chỗ đôi năm để rồi hiện nay ông đã về xây nhà sống hẳn tại Mỹ Tho. Có lẽ nhờ đi nhiều nơi, gặp nhiều người nên ca khúc của ông hết sức sinh động, giàu hình ảnh và luôn phập phồng hơi thở cuộc sống.
Ông viết không nhiều nhưng khá chắc tay. Hơn 30 năm sáng tác nhạc, ông chỉ trình làng khoảng trên dưới 80 ca khúc. Phần lớn ca khúc của ông viết về đề tài tình yêu, số còn lại viết về vẻ đẹp con người và vùng đất Nam bộ.
Nhiều ca khúc trữ tình mang đậm âm hưởng dân ca của ông đã được các thế hệ thanh niên đón nhận và yêu thích như: Bông điên điển, Em về miệt thứ, Hương rừng Cà Mau… Ông tâm sự: “Từ những cánh đồng lúa mênh mông, từ dòng sông, bến nước – tôi bước chân vào đời với hành trang là tiếng ru ca dao ngọt ngào, sáu câu vọng cổ, nói thơ Bạc Liêu, điệu lý, câu hò thấm đẫm lòng tôi. Đó là những gì làm cho ca khúc quê hương trữ tình mang đậm sắc thái, âm hưởng dân ca của người đất phương Nam…” Trong ca khúc của mình, ông khéo léo đưa vào nhiều câu ca dao, nhiều câu thành ngữ khiến nó trở nên gần gũi, dễ nhớ và giàu tính biểu cảm. Cho đến nay, ông vẫn là một trong số ít những nhạc sĩ gặt hái được nhiều thành công khi khai thác mảng này.
Tình yêu trong nhạc của Hà Phương thường được ông diễn tả ở những cung bậc trong sáng, mộc mạc, đôi lúc trĩu nặng nỗi buồn nhưng không sa vào bế tắc, bi lụy. Trong bài “Con sông tình yêu” ông viết: Anh ở bên này sông nhà em bên bờ đó, hai đứa ngó mặt nhau. Bờ dừa nhớ hàng cau, lao xao chiều qua ngõ, cùng chung những chuyến đò. Ngày ngày qua sông tóc bềnh bồng theo gió, em có biết có hay anh ngất ngây say áo màu bà ba trắng rung rinh vờn hoa nắng nhẹ hôn gót chân son”. Hay như: Anh dìu em về, đường về nhà em qua phiến lá xanh xao. Con đường buồn heo hút mắt em sâu. Mưa nhạt mưa nhòa, mưa đổ mưa ngâu. (bài “Mùa mưa đi qua”).
Điều đặc biệt là có rất nhiều cơn mưa và nhiều loài hoa dân dã đã đi vào nhạc của ông, chẳng hạn như: Mùa mưa đi qua, Mưa qua phố vắng, Tình trong mưa, Mưa trên cuộc tình, Chiều mưa qua sông… và rồi: Bông lục bình, Bông điên điển, Dưới giàn hoa giấy, Hai sắc hoa tigôn, Bông mua tím,… Chính vì thế mà có người đã gọi ông là Nhạc sĩ của mưa và hoa. Rất nhiều tác phẩm đã viết về những cơn mưa nhưng đã có ai nỗi cô đơn trống vắng trong một đêm mưa gió nơi tỉnh nhỏ: Trời đổ mưa cho phố vắng mênh mông, khơi lòng cao nỗi nhớ. Trời làm mưa cho ướt áo em thơ, mưa rơi từ bao giờ .Và nơi đó những đêm trời mưa gió, thấu chăng người tỉnh nhỏ nuôi nấng trong đời mối tình thời xa ấy giờ đây đường hai lối mưa gió về buồn nào nguôi. (Mưa đêm tỉnh nhỏ). Có lần ông đã tâm sự: “Ấn tượng về tình yêu dang dở dưới cơn mưa cứ tái hiện trong tiềm thức mỗi khi tôi cầm bút và ông đàn sáng tác”. Chính những cảm xúc chân thành ấy đã mang đến cho người yêu nhạc niềm đồng cảm sâu sắc. Trong khi đó, những ca khúc viết về hoa của Hà Phương lại thường được gắn với hình ảnh những người con gái mang nhiều gian truân trắc trở trong cuộc sống. Ca khúc của ông luôn thấp thoáng bóng hình của những người phụ nữ Nam bộ dịu dàng, đằm thắm chịu thương chịu khó. Đó có thể là nỗi lòng của một cô gái Tiền Giang phải theo chồng xa xứ: Từ ngày xa đất Tiền Giang, em theo anh về xứ Cạnh Đền, muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh. Em yêu anh nên đành xa xứ, xuôi ghe chèo về miệt thứ Cà Mau… (Em về miệt thứ). Đó cũng có thể là một cô gái chèo đò mà tác giả đã gặp đâu đó trên bước đường phiêu bạt: Chiều năm xưa qua đò sang sông vắng. Nghiêng bóng dừa bờ trắng cỏ lau thưa. Áo bà ba em khua chèo vượt sóng. Má em hồng soi bóng nước Cửu Long (Chiều mưa qua sông). Đó còn là hình ảnh của bà mẹ quê tần tảo, cả một đời hy sinh cho chồng con: Tháng năm dài tóc mẹ hơi sương. Mái nhà tranh ấm lạnh tình trường. Sớm hôm đời tất tả ngược xuôi. Đổi buồn gian khổ thành vui, khi thấy con nên người. (Một thời của mẹ)
Nhạc sĩ Hà Phương được nhiều người nhớ đến với ca khúc “Bông điên điển”. Bài này được ông viết vào năm 1998 và ngay sau đó đã trở thành một bài hát được nhiều người yêu thích lúc bấy giờ. Với những ca từ gần gũi, dễ hiểu và đầy cảm xúc: Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa. Giờ đây nhớ mẹ thương cha, còn đâu mà thong thả để về nhà thăm. Xa xăm nơi chốn bưng biền, ăn bông mà điên điển nghiêng mình nhớ đất quê, chồng xa em khó mà về, ca khúc này đã đánh động vào ký ức quê hương của mọi người và để lại những ấn tượng sâu sắc.
Ông thường phổ thơ vì thế mà hầu hết ca khúc của ông đều giàu chất thơ. Ông đã phổ thơ của rất nhiều tác giả như: Cao Vũ Huy Miên, Lê Ái Siêm, Võ Tấn Cường, Nguyễn Kim, Kim Quyên… Tôi rất thích những ca từ đầy khí khái trong bài “Hương rừng Cà Mau”được Hà Phương phổ từ thơ Sơn Nam: Từ bên này sông Tiền, qua bên kia sông Hậu. Mang theo chiếc độc huyền, điệu thơ Lục Vân Tiên. Với câu chữ: Kiến nghĩa bất vi vô dỏng giã tới Cà Mau Rạch Giá cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng.
Gần 30 năm gắn bó, nhạc sĩ Hà Phương cũng có nhiều ca khúc hay viết về vùng sông nước Tiền Giang. Ca khúc “Về Tiền Giang quê em” viết chung với Anh Việt Thanh là một trong số đó. Về Tiền Giang quê hương em nghe tiếng hò đêm trăng lộng gió. Về Gò Công thăm biển Đông, con tàu tôm cá đầy. Về Trung Lương khắp nẻo đường, thơm ngát màu xanh lúa đầy bông mùa vui đã đến. Với lưu luyến tình yêu hò lan trong gió chiều.
Năm 1996, Trung tâm Băng nhạc Vafaco đã phát hành ablum riêng của nhạc sĩ Hà Phương với tên gọi Hai sắc hoa tigôn. Album này gồm 10 tình khúc quen thuộc của ông. Như vậy, Hà Phương là một trong số ít nhạc sĩ ở Tiền Giang hiện nay đã phát hành album riêng.
Không thích phô trương, không thích chạy theo những trào lưu âm nhạc thời thượng, không thích tạo áp lực cho mình bằng số lượng tác phẩm, Hà Phương là thế, cứ lặng lẽ sống giữa cuộc đời bề bộn và âm thầm viết nhạc một cách tài tử. Ông giống như một người bộ hành không lấy gì làm vội vã, cứ thong thả dạo bước trên con đường nghệ thuật. Có thể nhạc của ông không chinh phục được số đông những bạn trẻ nghe nhạc hiện nay nhưng lại bắt mạch với những ai biết hướng tâm hồn về với quê hương, nguồn cội.
Ngược dòng thời gian về với nhạc xưa, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến những giọng ca lẫy lừng đã để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của nhà báo Nguyễn Minh viết trên Thể Thao & Văn Hóa về hai chị em Thái Hằng (tức người vợ hiền của nhạc sỹ Phạm Duy) và Thái Thanh (tức thân mẫu của danh ca Ý Lan).
NHỮNG TIẾNG HÁT MỘT THƯỞ: THÁI HẰNG LÀ CHỊ, EM LÀ THÁI THANH (Nguồn: Thể Thao & Văn Hóa)
Gần đây có thông tin nữ danh ca Thái Thanh mắc căn bệnh Alzheimer (một chứng mất trí phổ biến) và tình trạng sức khỏe đang ngày một yếu đi. Ở tuổi gần 80, dù đang chạy đua với quỹ thời gian mỗi lúc một cạn dần nhưng những ảnh hưởng từ giọng hát của bà còn rất lớn, Thái Thanh vẫn luôn được xem là một trong những diva hàng đầu của tân nhạc Việt Nam.
Hai nàng Kiều ở phố Neo
Thái Hằng, Thái Thanh là con gái của ông bà Phạm Đình Phụng. Thái Hằng (nghệ danh được nhà thơ Thế Lữ đặt) là con gái đầu lòng, tên thật là Phạm Thị Quang Thái. Còn Thái Thanh là con gái út trong nhà, tên thật là Phạm Băng Thanh. Việc anh chị em Thái Hằng đều trở thành những nghệ sĩ tên tuổi không phải là một điều lạ vì bởi song thân của họ là hai người rất sành nhạc cổ: thân phụ là một nghệ sĩ chơi đàn nguyệt có tiếng tăm, trong khi thân mẫu thì đánh đàn tranh, đàn tỳ bà, hát ả đào nổi tiếng ở đất Bắc. Bởi vậy dường như máu văn nghệ, mà cụ thể là máu âm nhạc hầu như đã có sẵn trong huyết quản của tất cả anh em Thái Hằng.
Nữ danh ca Thái Hằng và Thái Thanh. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Năm 1949 gia đình ông bà Phạm Đình Phụng tản cư về khu chợ Neo (Thanh Hóa) lúc bấy giờ thuộc Liên khu IV. Tại đây, gia đình ông đã mở tiệm phở Thăng Long và chỗ này nhanh chóng trở thành chỗ tụ họp đông đảo của các văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến thời đó, nhất là khi tiệm phở lại có bóng dáng mấy cô Kiều là hai chị em mà sau này sẽ nổi tiếng dưới hai tên hiệu Thái Hằng và Thái Thanh. Tại đây, nhạc sĩ Canh Thân làm những bài nhưCô hàng cà phê và nhạc sĩ Phạm Duy, lúc bấy giờ đang còn là một ca sĩ nổi tiếng, thường qua lại ve vãn cô chủ tiệm Thái Hằng, người có đôi mắt buồn muôn thuở.
Thái Thanh cùng Hoài Trung (trái) và Hoài Bắc trong ban Hợp ca Thăng Long. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Cũng từ đây ban Hợp ca Thăng Long ra đời với thành phần phần ban đầu gồm: Thái Hằng, Thái Thanh, Hoài Trung (tức Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), sau đó có thêm Phạm Duy và Khánh Ngọc. Sau này, khi vào miền Nam, đây là ban hợp ca được xem là nổi tiếng nhất với trụ cột là tiếng hát Thái Hằng – Thái Thanh. Cần phải nói thêm rằng ở miền Nam trước đó, ngoài ban Hợp ca Thăng Long thì nổi nhất là tam ca Ngọc Lê Hà (Hoàng Lê và Khánh Ngọc là hai chị em ruột). Sau họ còn có thêm đôi song ca Tâm Vấn và Thịnh Thái. Nhưng dưới ánh đèn sân khấu, không ai sáng hơn Thái Hằng – Thái Thanh, những tiết mục của họ đều là những tiết mục ăn khách nhất, nhiều người đánh giá tiếng hát của hai chị em nhà họ Phạm là song phẩm, Thái Hằng kiều diễm, đoan trang còn Thái Thanh sắc sảo duyên dáng, chưa kể kỹ thuật thanh nhạc gần như là vô song và diễn ý tình bản nhạc trên sân khấu lại vô cùng quyến rũ.
Ban Hợp ca Thăng Long chuyên hát những ca khúc vui tươi: Ngựa phi đường xa (Lê Yên), Sáng rừng, Hò leo núi(Phạm Đình Chương)… với cách hòa thanh khi ấy như một làn gió tiên phong, mở đường cho phong cách hát nhiều bè, hát đuổi cho nhiều ban hợp ca sau này trên sân khấu ca nhạc. Hoài Bắc – Phạm Đình Chương còn là người viết nhiều ca khúc bất hủ: trường ca Hội trùng dương, Ly rượu mừng… Họ cũng là ban hợp ca trình bày ca khúc sử thi đồ sộ Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương với lối trình bày rất lạ thời ấy: xen trên nền nhạc, giọng diễn ngâm của Thái Hằng, Thái Thanh đưa Chinh phụ ngâm khúc vào, biến trường ca bi tráng của Lê Thương trở nên gần với thể loại nhạc kịch. Hai chị em Thái Hằng – Thái Thanh còn được thính giả Đài phát thanh Sài Gòn rất hâm mộ khi ngâm thơ trong chương trình Tao Đàn do thi sĩ Đinh Hùng phụ trách cũng như những bản song ca mà giờ này nhiều người vẫn còn nhớ đến.
Tuy vậy đến đầu thập niên 1970 thì Thái Hằng và Phạm Duy tách khỏi Hợp ca Thăng Long và lúc này ban hợp ca cũng tan rã, các nghệ sĩ trong nhóm đi theo những hướng riêng trên con đường âm nhạc của mình.
Thái Hằng – Tiếng hát thùy dương
Giọng hát của Thái Hằng từng được một nhà văn miền Nam mô tả: “Dẻo mềm như nhánh thùy dương, dù có bị gió lay động nhưng nó không lả lơi đùa cợt cùng gió như loại nhược lan, lệ liễu, cỏ bồng cỏ bồ” và quan trọng hơn là “ánh sáng trong giọng hát của chị là ánh trăng mát mẻ dịu hiền chứ không phải là ánh sáng bình minh rực rỡ huy hoàng trong giọng hát Thái Thanh”.
Thái Hằng được nhớ rất nhiều qua những ca khúc như Gánh lúa, Bà mẹ quê, Tình hoài hương hay Về miền Trung, Tiếng hát Thiên Thai, Dòng sông xanh (lời Việt của Phạm Duy)… Giọng hát của bà được đánh giá đạt đến mức điêu luyện hiếm có, chưa ai vượt qua được.
Suốt nhiều thập niên trước năm 1975, Thái Hằng còn là giọng ngâm thơ được yêu mến trong các chương trình thơ văn và thoại kịch trên Đài phát thanh Sài Gòn. Cho đến nay giới thưởng ngoạn âm nhạc Việt Nam còn nhớ giọng ca của bà qua những bản Tiếng sáo thiên thai, Tình hoài hương, Tình ca… của Phạm Duy.
Ngoài vai trò một người mẹ của 8 người con, bà còn là người vợ mà nhạc sĩ Phạm Duy vô cùng kính trọng. Trong suốt nửa thế kỷ hôn nhân với Phạm Duy, dù vẫn biết ông là người đào hoa bậc nhất bà vẫn chưa bao giờ có một lời nói nặng nào. Nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi bà là vị thần hộ mệnh của mình, ông viết: “Bà là sự nâng đỡ của tôi trong phen sa ngã, là sự thanh bình của tôi trong nhiều sóng gió, là sự thành công của tôi trong cơn vật vã với đời, là nụ cười của nàng Mona Lisa kín đáo”…
Ca sĩ Thái Hằng không được nhắc đến nhiều bằng cô em Thái Thanh nhưng vẫn luôn nhận được sự kính trọng bằng giọng hát phi thường của mình. Sau năm 1975 bà vẫn đi hát nhưng chỉ là để giữ giọng phụ cho hai cô con gái là Thái Hiền và Thái Thảo hát chính. Và khi ca sĩ Duy Quang định cư hẳn ở Mỹ thì Thái Hằng hoàn toàn lui vào hậu trường và không bao giờ đi hát nữa.
Bà mất năm 1999 vì ung thư phổi. Thời gian đó, khi hay tin vợ mắc nan y, nhạc sĩ Phạm Duy đã bỏ tất cả mọi dự án âm nhạc để ở bên cạnh bà những ngày cuối đời. Ông nói rằng trong suốt cuộc hôn nhân này ông luôn chịu ơn bà và cho dù cuộc đời ông nhiều trắc trở nhưng tình nghĩa vợ chồng chưa bao giờ sóng gió, ông chưa bao giờ vắng nhà qua đêm và Thái Hằng chưa hề phải xa chồng, dù chỉ một ngày.
Thái Thanh – Tiếng hát trên trời
Nhà văn Thụy Khuê viết rằng: “Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ”. Quả thực trong gia đình họ Phạm, Thái Thanh là nữ danh ca có tiếng tăm và để lại nhiều ảnh hưởng nhất, bà được xem là diva số một của làng nhạc Sài Gòn thời ấy.
Tên tuổi Thái Thanh lẫy lừng trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh cũng như truyền hình, từ hãng đĩa nổi tiếng cho đến các phòng trà tiếng tăm ở Sài Gòn. Nói về “ngôi vị” của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 1975 có lẽ không ai chính xác bằng người trong giới, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thời ấy, Lệ Thu. Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời báo chí rằng: “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục”. Được xem là đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước Thái Thanh.
Những gì thuộc về Thái Thanh rất khó bị lặp lại bởi những ca khúc mà bà ngân lên, kể cả những bài đã từng có người hát trước đó, như thể bà khoác lên cho chúng một chiếc áo mới, một cuộc đời mới. Nhiều người vẫn không thể thích ai khác ngoài Thái Thanh qua những ca khúc như Chuyện tình buồn, Kỷ vật cho em, Ngày xưa Hoàng Thị, Đêm màu hồng, Ru ta ngậm ngùi hay những sáng tác của Phạm Đình Chương và đặc biệt, là những nhạc phẩm của Phạm Duy. Ngay từ những ngày đầu tiên cất tiếng hát (khoảng 13, 14 tuổi) trong vùng hậu phương của thời toàn dân kháng chiến chống Pháp, Thái Thanh cũng đã hát nhiều nhất là nhạc của Phạm Duy. Sau khi hồi cư về Hà Nội rồi di cư vào Sài Gòn (khoảng giữa năm 1950) cùng gia đình, Thái Thanh bắt đầu nổi tiếng như cồn khắp Trung – Nam – Bắc qua những sáng tác của người nhạc sĩ đa tài này.
Nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng: “Nếu không có Thái Thanh thì nhạc Phạm Duy cũng không được hay và nổi lên được như vậy”. Ông nhận xét: “Thái Thanh là giọng ca duy nhất hát nổi hai cao độ chạy dài tới 2 bát âm trong nhạc của tôi. Không những thế, cô có giọng hát rất truyền cảm”. Cũng như Khánh Ly làm nổi bật tên tuổi Trịnh Công Sơn, Thái Thanh đã đóng góp rất nhiều trong việc đưa nhạc Phạm Duy lên ngôi vị cao nhất tại Sài Gòn trước đây.
Lập gia đình với tài tử điện ảnh Lê Quỳnh năm 1956 và cuộc hôn nhân này tồn tại trong 9 năm, trong khoảng thời gian ấy bà sinh được 5 người con. Sau khi sinh con, Thái Thanh vẫn tiếp tục ca hát và ngày càng trở thành một đệ nhất danh ca của nền tân nhạc Việt Nam. Bà giữ cho mình một nhịp độ hoạt động rất quy tắc, như một vận động viên điền kinh, bền bỉ và dai sức. Bà luôn có trách nhiệm và rất coi trọng nghề nghiệp. Chính vì lẽ đó mà suốt một thời gian bà không cho phép con mình đến với nghiệp hát vì bà sợ đi trên con đường này phải trả giá và kiên trung ghê gớm. Phải đến khi qua Mỹ bà mới cho phép ái nữ Ý Lan, khi đã gần 30 tuổi, được đi trên con đường âm nhạc giống mình.
Thái Thanh sang Mỹ năm 1985 và năm 1995 bà đi hát lại, ở tuổi 61. Tuy vậy, đến năm 2002 thì bà quyết định kết thúc sự nghiệp. Đây đó cũng vài lần Thái Thanh đi hát nhưng chỉ mang tính chất giao lưu còn thì bà gần như không còn hoạt động âm nhạc nữa. Trong suốt sự nghiệp của mình, Thái Thanh gần như là ca sĩ có số lượng đĩa hát đồ sộ (với rất nhiều hãng đĩa lớn nhỏ) và số ca khúc mà bà thể hiện cũng đã hơn 500 bài và trong đó rất nhiều bài vẫn còn được yêu mến. Những cuốn băng cối Thái Thanh luôn là gạch đầu dòng đầu tiên của những người mê sưu tầm đồ cổ.
Người yêu nhạc dễ nhận ra ở bản ‘Đời đá vàng’ của nhạc sỹ Vũ Thành An nét nhạc bay bổng và ca từ đầy chất tự sự thường thấy của dòng nhạc xưa. Chúng tôi không có cơ hội gặp gỡ nhạc sỹ Vũ Thành An cũng như không có nhiều thông tin về quá trình nhà nhạc sỹ cho ra đời ‘Đời đá vàng’ nhưng chắc chắn ca khúc này là những tâm tình chất chứa trong tận cùng sâu thẳm của một người đã trả qua nhiều thăng trầm của cuộc sống và giờ đây đã tìm được sự thanh thản đích thực trong tâm hồn.
[dongnhacxua.com] trân trọng gởi lời chúc bình an đến nhạc sỹ Vũ Thành An và cũng qua bài viết này xin gởi một làn gió mát thoảng nhẹ để vỗ về an ủi những tâm hồn còn ‘buồn phiền’ sẽ được ‘tháng ngày bình yên’!
Đời đá vàng (Bài không tên số 40) – Vũ Thành An. Ảnh: http://my.opera.com/ngsinh/blog/?startidx=140
BÀI VIẾT CỦA NHẠC SỸ HOÀNG THANH TÂM VỀ ‘ĐỜI ĐÁ VÀNG’ CỦA VŨ THÀNH AN (Nguồn: HoangThanhTam.blogspot.com)
Thân tặng Tăng Huỳnh Mai
Nhạc sĩ Vũ Thành An phải cần tới ……. 27 năm để viết và … hoàn tất nhạc phẩm “Đời Đá Vàng”! Vũ Thành An bắt đầu viết nhạc phẩm “Đời Đá Vàng” từ năm 1974 tại Việt Nam và cho biết bài hát này đã không được ông phổ biến cho mãi đến năm 1994, khi ông qua Mỹ, định cư tại Portland, tiểu bang Oregon ông mới viết thêm lời cho bài hát này với những câu sau:
“Có một lần mất mát mới thương người đơn độc, có oằn mình đớn đau mới hiểu được tình yêu, qua dầm dề mưa tuyết mới vui ngày nắng về, có một thời khóc than mới hiểu đời đá vàng”.
Và cho tới năm 2001, ông lại viết thêm lời sau cho bản nhạc này:
“Xuống tận cùng dưới đáy mới thấy mênh mông rộng đất trời, hãy mở lòng chúng ta đón nhận niềm tin yêu. Có nghìn lần tha thứ cũng chưa là ái từ, hãy cảm tạ biết ơn có được đời đá vàng”.
Đó là những lời ông đã viết để hoàn tất nhạc phẩm này sau khi chọn con đường theo đạo và chấm dứt sự nghiệp viết tình ca của mình để chỉ viết Thánh Ca mà thôi ….
Mời bạn thưởng thức nhạc phẩm đã trải qua biết bao biến thiên và sự chiêm nghiệm về con người và cuộc đời, để NS Vũ Thành An có thể viết lên những lời lẽ ông đã “ngộ” được bằng chính sự thăng hoa từ những tân cùng sinh tử của bản thân mình để đạt đến niềm tin yêu và cuộc sống mới của một …. ĐỜI ĐÁ VÀNG
Xin cảm ơn nhà báo Hà Đình Nguyên, cây bút lâu năm của nền nhạc xưa, đã có một bài viết về nhạc sỹ Hà Phương. Qua đó [dongnhacxua.com] mới biết được tác giả Du Uyên của ‘Mùa mưa qua mau’ không ai khác hơn là Hà Phương của ‘Mưa đêm tỉnh nhỏ’ hay ‘Mưa qua phố vắng’. Du Uyên là cách chơi chữ từ Duyên’, người yêu đầu đời của nhà nhạc sỹ. Qua bài viết bày, chúng tôi kính chúc nhạc sỹ Hà Phương được nhiều sức khỏe và vui hưởng tuổi già.
Mùa mưa đi qua (Du Uyên, tức Hà Phương). Ảnh: wikipedia.com
MƯA VÀ HOA VÀ NHẠC SỸ HÀ PHƯƠNG
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên, đăng trên Thanh Niên)
Mới đây, trong đám giỗ 5 năm của nhà văn Sơn Nam tại TP.Mỹ Tho (Tiền Giang), chủ nhà có giới thiệu: “Nhạc sĩ Hà Phương sẽ hát một ca khúc do mình sáng tác trước năm 1975, bài Mùa mưa đi qua”. Rồi một người ôm cây đàn guitar đứng lên, ông có dáng to lớn lực lưỡng, tuổi tuy đã ngoài thất thập nhưng trông vẫn còn phong độ, đặc biệt là giọng hát – có vẻ như thời gian không mấy tác động đến chất giọng thiên phú, truyền cảm của ông: Tôi dìu em về, đường về nhà em qua phiến lá xanh xao. Con đường buồn hun hút mắt em sâu, mưa nhạt mưa nhòa, mưa đổ mưa ngâu… Tuy phục giọng hát của ông nhưng về tác giả thì người viết có chỗ ngờ ngợ, bèn nói thầm với chủ nhà: “Bản Mùa mưa đi qua là của Du Uyên chứ!”. Chủ nhà hứa sẽ hỏi lại… Ít lâu sau chủ nhà gọi điện thoại xác nhận Mùa mưa đi qua đúng là của Du Uyên, nhưng Du Uyên là một bút danh khác của Hà Phương và cho tôi số điện thoại của nhạc sĩ.
Nhạc sỹ Hà Phương. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Thế rồi chúng tôi gặp nhau, tôi gọi ông bằng “anh”, ông kêu tôi bằng “chú”. Ông tên thật là Dương Văn Lắm, sinh năm 1938 tại Chợ Gạo (Bến Tre). Tuổi thơ của ông theo gia đình dịch chuyển nhiều nơi, có lúc lên Sài Gòn và may mắn được học nhạc với nhạc sĩ Lâm Tuyền. 19 tuổi, ông sáng tác ca khúc đầu tay Đường khuya với bút danh Hà Phương – cái tên hình thành từ cuộc sống “rày đây, mai đó” của mình. Từ đó, cái tên Hà Phương luôn gắn bó với sự nghiệp sáng tác hơn nửa thế kỷ của ông. Chỉ trừ một lần ông ký tên Du Uyên như đã nói. Hóa ra, bút danh này được tách ra từ tên người yêu đầu đời của ông: Duyên… Càng ngạc nhiên hơn khi biết ngoài Mùa mưa đi qua, Hà Phương còn là tác giả của Mưa đêm tỉnh lẻ – ca khúc mà một thời chúng tôi thường ngâm nga: Trời đổ mưa, cho phố vắng mênh mông, khơi lòng bao nỗi nhớ. Trời làm mưa, cho ướt áo em thơ, mưa rơi tự bao giờ. Tình yêu đó, phôi pha vào sương gió. Những đêm mưa tỉnh nhỏ, gợi nhớ tuổi học trò, tâm tình thường hay ngỏ. Trường tan về chung phố những lúc trời chiều đổ mưa… Ông tâm sự: “Tình yêu đầu đời là những kỷ niệm sâu sắc. Đó là những đêm trên sân khấu tôi đệm đàn cho nàng hát tình khúc do tôi sáng tác. Sau đó, hai đứa dìu nhau dưới những đêm mưa buồn nơi tỉnh lẻ, ánh đèn mờ ảo, phố vắng thưa người… Ôi nhớ sao là nhớ!”.
Có lẽ “mưa và hoa” đã như một đề tài định mệnh gắn bó với những sáng tác của Hà Phương, mưa rơi trong tác phẩm đầu tay: Đường về mưa rơi lạnh buốt. Ngại ngùng chân ai nhịp bước. Mưa ơi thấu chăng nỗi buồn… (Đường khuya, 1957), hoa cũng có mặt trong giai đoạn này khi ông phổ nhạc bài thơ bất hủ của T.T.KH Hai sắc hoa Ti gôn, rồi tiếp tục là Mưa trên phố vắng, Tình mùa hoa phượng… Đó là những nhạc phẩm ông viết trước năm 1975.
Sau một thời gian dài tạm quên đi chuyện nghệ thuật để xoay sở mưu sinh, mãi đến những năm 1990 Hà Phương mới sáng tác trở lại. Đó là giai đoạn ông cùng người bạn thân là nhạc sĩ Thanh Sơn được Trung tâm băng nhạc Vafaco mời về hợp tác. Ông bộc bạch: “Kể từ đó chúng tôi chuyển sang viết ca khúc mang đậm phong cách dân ca Nam bộ và cho ra đời những ca khúc Bông điên điển, Em về Miệt Thứ, Nhớ đất quê, Chiều mưa qua sông, Đồng sâu xứ lạ, Bông lục bình, Chuyện tình hoa cát đằng… Điều đó cũng phù hợp với tâm tư, tình cảm dành cho quê hương miền Tây, nơi mà chúng tôi lớn lên bên dòng sông, bến nước thấm đẫm những câu hò điệu lý, những làn điệu dân ca đã nuôi nấng tâm hồn chúng tôi. Mỗi ca khúc ra đời là sự thật phát xuất từ tâm hồn do thường xuyên lang bạt, gắn bó với miền đất phương Nam: Láng Linh, An Giang bạt ngàn bông điên điển với bóng hình những cô gái chèo xuồng hái bông đẹp làm sao. Có những đêm nơi Miệt Thứ, Cạnh Đền mà những sinh hoạt về đêm đều diễn ra trong mùng bò (mùng lớn) mới tránh khỏi muỗi đốt…”.
Thật vậy, những ca sĩ chuyên hát dòng nhạc trữ tình, âm hưởng dân ca Nam bộ như: Hương Lan, Phi Nhung, Cẩm Ly, Hương Thủy, Bích Tuyền… hiện nay đều rất thích thể hiện những ca khúc của Hà Phương. Mảng ca khúc này không chỉ thành công trong nước mà còn nhanh chóng lan tỏa ra cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, và đã để lại trong ông những kỷ niệm ngọt ngào. Ông kể: “Năm 2009, gia đình sa sút, tôi rời bỏ Mỹ Tho về quê vợ, một xã xa xôi hẻo lánh thuộc tỉnh Bến Tre. Vậy mà, ca sĩ Trường Vũ từ Mỹ về vẫn lặn lội tìm thăm, bởi ở Mỹ anh hát rất thành công bài Mưa đêm tỉnh nhỏ. Sau đó, ca sĩ Phi Nhung cũng từ Mỹ về gặp tôi nói lời cám ơn, vì cô cũng đã nổi tiếng qua bài Bông điên điển…”. Đây cũng là niềm động viên ấm áp cho những nghệ sĩ miệt mài sáng tác như ông: “Tôi chỉ viết được vài chục bài nhưng mỗi ca khúc viết ra đều thể hiện được điều mình muốn gửi gắm nên dù viết ít, vẫn được mọi người mến mộ, yêu thích. Tuy nhiên, dù sao tôi vẫn tâm đắc với những ca khúc Mùa mưa đi qua, Mưa đêm tỉnh nhỏ hơn vì nó thể hiện được tâm trạng, tiếng lòng thời trai trẻ và làm sống lại kỷ niệm về những cuộc tình trong quá khứ nhưng vẫn luôn hiện hữu trong tôi.
Trong nền tân nhạc Việt Nam, có nhiều nhạc sỹ đặt trùng tên cho những ‘đứa con tinh thần’ của mình. Nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến bản ‘Tình ca’ của nhạc sỹ Hoàng Việt (1928-1967) (tức Lê Trực của ‘Tiếng còi trong sương đêm’) và bản ‘Tình ca’ của Phạm Duy (1921-2013). Có nhiều nét khác biệt nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng xung quanh ‘Tình ca’ và hai nhà nhạc sỹ khả kính.
Phạm Duy sinh năm 1921 tại Hà Nội. Sau khi Pháp quay trở lại Đông Dương, ông tham gia kháng chiến. Năm 1951 ông bỏ về Hà Nội và di cư vào Sài Gòn. Hoàng Việt sinh năm 1928 tại Sài Gòn. Ông cũng tham gia kháng chiến. Năm 1954 tập kết ra Bắc. Vậy là sau hiệp định Geneva, người trong Nam thì sống ngoài Bắc mà người miền Bắc thì lại chọn miền Nam làm quê hương.
Chúng tôi không có tư liệu nào đáng tin cậy nhưng theo nhiều tài liệu thì ‘Tình ca’ của Phạm Duy ra đời năm 1953. Còn ‘Tình ca’ của Hoàng Việt viết năm 1957 trong một dịp cảm xúc dâng trào khi ông lần đầu tiên nhận được “lá thư miền Nam” từ người vợ hiền.
Ra đời trong cảnh binh đao khói lửa nên đâu đó trong cả hai bản ‘Tình ca’ chúng ta còn thấy thấp thoáng ‘hận thù’ hay ‘vận nước nổi trôi’ nhưng vượt lên trên tất cả là tình người, tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương sông núi. Mỗi nhạc sỹ một cách khác nhau đã khắc họa nét đẹp của lòng thủy chung và tính cách yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Một điểm thú vị khác là cả Hoàng Việt và Phạm Duy trong những năm tháng cuối đời đều muốn quay về và ra đi trên quê Mẹ, chỉ khác nhau đôi chút là Hoàng Việt mất còn khá trẻ vào năm 1967 khi hai miền còn chia cắt còn Phạm Duy ra đi năm 2013 khi quê hương không còn ‘chiến tranh đẫm máu’.
Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có TÌNH YÊU là còn lại.
[dongnhacxua.com] qua bài viết này gởi lời tri ân và cầu chúc linh hồn của nhạc sỹ Phạm Duy và Hoàng Việt thật sự an nghỉ nơi không còn ‘đau khổ và chia ly’!
Tình ca (Phạm Duy). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Về với dòng nhạc xưa, chúng tôi rất vui khi mỗi ngày có thêm một phát hiện thú vị. Hôm nay, thật tình cờ, [dongnhacxua.com] biết được nhạc sỹ Lê Trực của bản ‘Tiếng còi trong sương đêm’ cũng chính là nhạc sỹ Hoàng Việt của những ‘Tình ca’ hay ‘Lên ngàn’.
Nhạc sỹ Lê Trực (hay Hoàng Việt sau này) sinh ngày 26/10/1928 tại Chợ Lớn. Ông tên thật là Lê Chí Trực. Ông là con trai út và cũng là người con trai duy nhất trong một gia đình có 6 người con. Quê cha ở Bà Rịa và quê mẹ ở Cái Bè, tỉnh Tiềng Giang. Trước khi theo Việt Minh đi kháng chiến năm 19 tuổi, ông chơi nhạc ở Sài Gòn và lấy nghệ danh Lê Trực. Và có lẽ bản ‘Tiếng còi trong sương đêm’ là bản nhạc duy nhất còn lưu truyền với bút danh Lê Trực, được nhà xuất bản An Phú phát hành cuối năm 1953 đầu năm 1954.
Nhạc sỹ Lê Trực, tức Hoàng Việt. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Thời gian rồi sẽ làm xóa nhòa đi ranh giới của chính kiến và bất đồng trong nhận thức nhưng chân giá trị của những bản nhạc bất hủ còn mãi. Qua bài viết này, [dongnhacxua.com] xin gởi cầu chúc đến linh hồn của nhạc sỹ Lê Trực – Hoàng Việt được bình an nơi chốn vĩnh hằng
Tiếng còi trong sương đêm (Lê Trực). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
[dongnhacxua.com] chúng tôi vừa có chuyến ghé thăm Phan Thiết và không khỏi bùi ngùi khi chứng kiến cảnh hoang tàn và xuống cấp của địa danh “Lầu Ông Hoàng”, nơi đón bước chân của thi sỹ Hàn Mặc Tử và cũng là nơi được lưu dấu gần 50 năm nay qua nhạc phẩm ‘Hàn Mặc Tử’ bất hủ của nhạc sỹ Trần Thiện Thanh. Cũng nằm trong tâm tình ghi lại những cảm xúc về nhạc xưa, chúng tôi xin mạn phép đăng lại bài viết của tác giả Duy Khiem đăng trên diễn đàn của Trung Tâm Asia
VIẾT VỀ CA KHÚC “HÀN MẶC TỬ” CỦA TRẦN THIỆN THANH (Nguồn: TrungTamAsia.com)
Bài hát Hàn Mặc Tử đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác vào năm 1965. Đây là một trong những ca khúc rất thành công của ông, khi kể về cuộc đời tình ái sự nghiệp của một thiên tài trong thi ca Việt Nam, là thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940).
Bài hát bắt đầu bằng các câu thơ của HMT, được ngâm lên cho đoạn dạo đầu (prélude):
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò ”
Sau đó thì tác giả chuyển qua điệu nhạc Bolero :
“Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
LẦU ÔNG HOÀNG đó, thuở nao chân HÀN MẶC TỬ đã qua.
Ánh trăng treo nghiêng-nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người
Tìm về giữa đêm buồn …
“Đường lên dốc đá, nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm, xót xa cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên, chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngư điên cuồng cho trời đất cũng tan thương
Mà khổ đau niềm riêng …”
Bài hát “Hàn Mặc Tử” này đã trở nên thật nổi tiếng ở Việt Nam kể từ lúc được ca sĩ Trúc Mai trình bày ở Đại nhạc hội tại rạp hát Thanh Bình, Sài Gòn vào năm 1965. Sau đó bài hát này được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi cho đến tận ngày hôm nay. Đi đâu cũng nghe người ta hát “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” từ nhà hàng, quán cà-phê, bến xe đò, bến phà, các xe bán hàng rong khắp hang cùng ngõ hẻm. Ca sĩ Trúc Mai đã bắt đầu đi hát từ năm 1959. Cô là một trong bốn ngôi sao của phòng trà Hòa Bình, gồm Bạch Yến, Bích Chiêu (chị của Khánh Hà), Thùy Nhiên và Trúc Mai. Giọng hát của cô rất ngọt ngào, đầm ấm. Cô diễn tả bài hát thật nhẹ nhàng, thoải mái như ru nhè nhẹ vào tai người nghe. Nhờ vậy mà Trúc Mai đã tiếp tục sự nghiệp ca hát của cô trong hơn ba mươi năm. Sau một thời gian dài vắng bóng, cô đã tái ngộ khán giả khắp nơi ở chương trình Paris By Night 78 “Đường Xưa” khi song ca với Phương Hồng Quế trong liên khúc “Giọt lệ đài trang”. Đến với chương trình Asia 50 để tưởng niệm Nhật Trường, ca sĩ Trúc Mai sẽ kể lại các kỷ niệm vui buồn của cô trong những năm trình diễn bài hát Hàn Mặc Tử này. Nhưng hôm nay cô không hát lại ca khúc này, mà để cho giọng ca trẻ Y Phụng ngợi ca Hàn Mặc Tử. Trước đây cũng có vài ca sĩ ở hải ngoại đã hát bài “Hàn Mặc Tử” này. Trong đó có cô ca sĩ mang hai dòng máu Việt-Mỹ là Thúy Hằng đã hát bài này đúng 6.41 phút trong CD “Thúy Hằng 3: Tình Thiên Thu” do Mây Productions sản xuất năm 1998.
Cuộc đời ngắn ngũi 28 năm của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã được không biết bao nhiêu người nhắc đến. Từ những bài báo, tiểu thuyết, cải lương, thoại kịch, phim truyện và hiện nay ở các đài truyền hình bên Việt Nam cũng đang cho trình chiếu một bộ phim truyện vài chục tập về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Ông đúng là một thiên tài bất hạnh trong làng thi ca Việt Nam.
Tên thật của ông là Nguyễn Trọng Trí, sanh tại làng Lệ Mỹ , Đồng Hới, Quảng Trị vào ngày 22 tháng 9 năm 1912, trong một gia đình theo đạo Công giáo. Vóc mình ốm yếu, tính tình ông hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Thân phụ ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở. Vì vậy, Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926). Năm 1930 thì Hàn Mặc Tử thôi học vào Qui Nhơn sống với mẫu thân và năm 1932 thì ông xin được việc làm ở sở Đạc Điền tại đó. Trong thời gian này ông có yêu một thiếu nữ tên là Hoàng Cúc ở gần nhà, nhưng mộng ước không thành. Người yêu theo chồng ra Huế sống. Buồn tình, năm 1935 HMT xin thôi việc vào Sài Gòn viết báo. Từ nhỏ Hàn Mặc Tử đã làm thơ đăng báo khắp nơi và ký các bút hiệu như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử (người ở sau tấm rèm lạnh: hàn là lạnh, mạc là bức rèm) và cuối cùng là Hàn Mặc Tử (anh chàng với bút mực: hàn là cây viết, mặc là mực) .
Rất nhiều người vẫn thắc mắc là Hàn Mặc Tử có tất cả bao nhiêu người yêu chính thức?
Có người từng nói rằng “thi nhân muôn đời luôn luôn là giống đa tình”, nên Hàn Mặc Tử cũng có rất nhiều người yêu và cũng có rất nhiều độc giả yêu thơ của chàng, viết thư làm quen. Trong số đó có Mộng Cầm (tức Huỳnh Thị Nghệ) là một thiếu nữ xinh đẹp từ Quảng Ngải vào và trọ học ở nhà người cậu nơi tỉnh Phan Thiết. Sau nhiều lần trao đổi thơ từ, thì họ cùng hẹn nhau để gặp mặt. Cuối tuần, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn đi Phan Thiết bằng xe lửa để tìm thăm Mộng Cầm. Họ đã dạo chơi khắp các thắng cảnh của Phan Thiết, trong đó có “Lầu Ông Hoàng”. Trần Thiện Thanh đã viết: “Lầu Ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua“. Ai đã ở tỉnh Phan Thiết thì chắc cũng đã có lần nghe nhắc đến Lầu Ông Hoàng. Đó là một dinh thự to lớn, nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn tược, cây cảnh rất xinh đẹp và nằm trên một ngọn đồi nhìn ra biển xanh. Lâu đài này do một ông hoàng (công tước) người Pháp tên là De Montpensier mua khu đất này và xây cất lên vào năm 1911 để làm nơi nghỉ hè, vui chơi cho gia đình ông. Năm 1917 thì một doanh nhân Pháp mua lại để làm khách sạn cho du khách thuê. (Trong thời chiến tranh sau này, khu Lầu Ông Hoàng này đã bị bom đạn phá hũy hoàn toàn, nay chỉ còn cái nền cao mà thôi). Thuở xa xưa đó, những cặp tình nhân thường hẹn hò nhau đến khu vực này để ngắm cảnh và tâm tình với nhau nơi các băng ghế đá xung quanh vườn, nhứt là trong những đêm trăng sáng. Qua Mộng Cầm, HMT làm quen với cậu của nàng là Thi sĩ Bích Khê (1916-1946) và hai chàng thi sĩ này trở nên thân nhau như tri kỷ. Cuối tuần nào HMT cũng tới ở trọ nhà Bích Khê và hẹn gặp Mộng Cầm (Mộng Cầm ở trọ nhà một người cậu khác). Thời gian đó, không rõ vì lý do gì mà HMT bị bịnh phong cùi (leprosy), hai vành tai ửng đỏ, ngứa ngái khắp nơi. Tuy vẫn thơ từ qua lại, nhưng Mộng Cầm lãng tránh dần thi sĩ, ít khi hò hẹn với nhau. Hàn Mặc Tử âm thầm tìm thầy chạy chửa thuốc men, bịnh tình cũng thuyên giảm dần dần, và thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ, viết báo ở Sài Gòn.
Nhưng qua năm 1938, căn bịnh quái ác này trở nên nặng hơn, nên thi sĩ bèn quay về Qui Nhơn thuê một căn nhà nhỏ trên đồi, sống biệt lập cách xa thành phố, tuyệt giao với tất cả bạn bè. Hàng ngày có một tiểu đồng về nhà mẹ của HMT gần đó lãnh cơm nước, thuốc men đem đến cho chàng. Trần Thiện Thanh đã viết:
“HÀN MẶC TỬ xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang,
MỘNG CẦM hởi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi,
Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi,
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.”
Từ khi phát bịnh, cơ thể đau nhức đến phát điên, nhứt là vào những đêm trăng sáng. Hàn Mặc Tử lại càng làm thơ hay hơn, như những câu thơ mà Trần Thiện Thanh đã phổ nhạc:
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng! Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
Bao giờ đậu trạng, vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ
Không, không, không ! Tôi chẳng bán hòn trăng
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt là anh dại quá
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang ?”
Có đêm ông nằm mơ thấy Đức Mẹ hiện về, nên ông đã viết bài “Thánh nữ Đồng Trinh” để tạ ơn:
“Maria! Linh hồn con ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến…
…
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
…
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn Thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi ..”
Trong lúc cô đơn, tuyệt vọng chán chường, thi sĩ lại nhận được tin Mộng Cầm đi lấy chồng, nên HMT lại càng đau khổ hơn:
“Trời hởi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẳn làm sao ăn ?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?”
Trần Thiện Thanh đã viết lời ca:
“Tìm vào cô đơn, đất Qui nhơn gầy đón chân chàng đến.
Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa,
Chốn hoang liêu tiêu sơ HÀN âm thầm nghe trăng vỡ .”
Hình như cái bịnh phong cùi này thường làm cho Hàn Mặc Tử đau đớn nhiều hơn trong những đêm có trăng. Thi sĩ đã thức trọn đêm để làm thơ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi …
Có lúc thi sĩ Bích Khê ghé thăm, thấy HMT buồn, nên giới thiệu chàng làm quen với người chị của BK là Lê Thị Ngọc Sương (tức là dì ruột của Mộng Cầm) để hai người thơ từ qua lại. HMT đã làm liền một bài thơ sau khi nhìn vào tấm ảnh của Ngọc Sương:
“Ta đề chữ NGỌC trên tàu chuối
SƯƠNG ở cung thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắn phải môi”
Đây chỉ là một mối tình đơn phương, vì Ngọc Sương không hề yêu HMT nhưng cô cũng khiến thi sĩ sáng tác được nhiều bài thơ hay. Lúc đó lại có nữ thi sĩ Mai Đình (tên thật Lê Thị Mai) yêu HMT tha thiết, tình nguyện đến ở bên chàng săn sóc, lo thuốc men. Nhưng thi sĩ đã từ chối và chỉ tiếp chuyện với cô được vài lần. Tuy vậy HMT cũng đã làm những bài thơ trong đó có câu:
“Đây MAI ĐÌNH tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt …
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật …”
Thơ từ qua lại với Mai Đình trong hai năm (1938-1939) rồi HMT tuyệt giao. Có lúc tưởng như bớt bịnh, bạn bè đến thăm, lại mang thơ độc giả ái mộ cho HMT xem (1940). Trong đó có một nữ sinh trung học tên Thương Thương đã làm cho HMT cảm động, và thi sĩ lại tìm được tình yêu trong mộng, như:
“Sầu lên cho tới ngàn khơi
Ai lau ráo lệ cho lời nói ra
chiều nay tàn tạ hồn hoa
nhớ THƯƠNG THƯƠNG quá, xót xa tâm bào …”
Gần cuối năm 1940, căn bịnh của HMT trở nên nặng hơn. Gia đình đành phải đưa ông vào nhà thương phung cùi Qui Hòa, cách Qui Nhơn 5 cây số, nơi có các dì phước người Pháp săn sóc cho bịnh nhân. Lúc này thi sĩ đã bớt điên loạn và dần dần chấp nhận cái chết gần kề. Ông đã mơ ước:
“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm !”
Ông luôn luôn nhớ đến Phan Thiết, nhớ đến Mộng Cầm và những kỷ niệm thời hoa bướm ngày xưa. Thi sĩ đã viết những câu thơ dưới đây như những lời trăn trối sau cùng trong đớn đau tuyệt vọng:
‘… Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông-Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương tha thiết
Ôi ! Trời ơi ! là Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi
Ta đến nơi : nàng ấy vắng lâu rồi !
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ !
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận cung Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết.
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư !”
Rời túp lều hoang không đầy hai tháng, thì Hàn Mặc Tử yếu dần và tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, ngày 11 tháng 11 năm 1940. Được tin ông mất, các tờ báo trên khắp nước đã viết bài, đăng tin, ra số đặc biệt tưởng niệm thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh này. Bạn bè, người yêu, độc giả khắp nơi đều thương tiếc, nhưng không một ai đến đưa đám tang thi sĩ HMT. Trần Thiện Thanh đã kết thúc bài hát Hàn Mặc Tử bằng:
“Xót thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia
Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao
MẶC TỬ nay còn đâu !
Khi sáng tác ca khúc “Hàn Mặc Tử” này cách đây đúng 40 năm (1965-2005), có lẽ nhạc sĩ Trần Thiện Thanh không ngờ rằng sau này cuộc đời ông cũng có nhiều điểm giống như thi sĩ tài hoa bạc mệnh này. Nơi tỉnh nhà Phan Thiết, từ nhỏ Trần Thiện Thanh đã cùng bạn bè dạo chơi ở những nơi mà ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm từng in dấu. Nên ông đã viết: “Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa, Lầu ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua”.
Vào Sài Gòn lập nghiệp, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã mang theo ông những kỷ niệm này và sáng tác nên “Hàn Mặc Tử”. Trong khoảng thời gian bắt đầu ca hát và viết nhạc từ năm 1958 cho đến năm 1975, ca sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh đã cống hiến cho đời những lời ca tiếng nhạc thật tuyệt vời. Tên tuổi và danh vọng của ông đã sáng rực lên khắp mọi nơi. Đã có không biết bao nhiêu thiếu nữ, khán giả ở mọi lứa tuổi yêu nhạc và yêu thương ông tha thiết. Nhưng kể từ sau năm 1975, thì sự nghiệp của ông dần dần đi xuống, kể cả khi ra hải ngoại, những sáng tác mới của ông cũng không còn xuất sắc được như ngày xưa. Cuối cùng thì ông lại mắc phải một chứng bịnh nan y là ung thư phổi. Những tháng ngày cuối cùng của ông thật là cô đơn, hiu quạnh. Đâu còn thấy lại “ánh đèn sân khấu”, đâu còn thấy lại những khán giả thân thương, những bạn bè xưa, người yêu cũ. Ngay cả bà mẹ già 82 tuổi và cô em gái Như Thủy trong ban Tứ ca Nhật Trường ngày xưa, những đứa con, đứa cháu của ông vẫn còn ở bên Việt Nam nghìn trùng xa cách. Những tuần lễ sau cùng, khi đã tuyệt vọng, ông không chịu nằm trong bịnh viện mà muốn trở về nằm nghỉ nơi nhà riêng. Bên cạnh ông trong giờ hấp hối chỉ có người vợ sau là ca sĩ Mỹ Lan và đứa con trai út mới vừa 3 tuổi, tên là Trần Thiện Anh Chí. Ông đã ra đi trong âm thầm lặng lẽ sau mấy tháng chịu nhiều đau đớn, dày vò vì căn bịnh quái ác này. Cho đến ngày 13-5-2005 thì “trời đất như quay cuồng, khi hồn phách vút lên cao”. Trần Thiện Thanh đã thực sự vĩnh biệt chúng ta khi vừa đúng 62 tuổi đời, là cái tuổi vẫn còn rất trẻ trên đất tạm dung Hoa Kỳ.
*Tài liệu tham khảo để viết bài này:
-Tuyển tập nhạc “Bao giờ anh quên” (25 tác phẩm TTT)
-CD nhạc Thúy Hằng 3 : “Tình Thiên Thu”, Mây Productions, USA, 1998
-Theo chân những tiếng hát, Hồ Trường An, Hoa Kỳ, 1998
-Hàn Mạc Tử (thân thế & thi văn), Trần Thanh Mại, Tân Việt, 1957
-Đôi nét về Hàn Mặc Tử, hồi ký Quách Tấn, Quê Mẹ, Paris, 1988
-Văn Thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ, Khai Trí, Saigon, 1969
-Thơ Hàn Mặc Tử, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988
-Website : http:// vietlove.com (viết về Nhật Trường).
-Website : http:// phanthiet.com (di tích, thắng cảnh)