Còn Hai Con Mắt Khóc Người Một Con

Bùi Giáng | Trịnh Công Sơn || 29/03/2013 | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

“Còn hai con mắt khóc người một con” là câu hát được lặp lại nhiều lần trong bài “Con mắt còn lại” của Trịnh Công Sơn mà [dongnhacxua.com] đã nghe khá lâu, có lẽ cũng gần 15 năm rồi. Thế nhưng chúng tôi ôm thắc mắc về ý nghĩa của câu hát mà chưa có câu trả lời cho đến hôm nay khi chúng tôi tình cờ đọc được một bài viết về hoa hậu đầu tiên của Việt Nam, bà Thu Trang (tên thật là Công Thị Nghĩa), đăng trên vnExpress. Thì ra nhạc sỹ   Trịnh Công Sơn đã mượn một câu trong bài thơ “Mắt buồn” của Bùi Giáng, một người bạn  văn nghệ thân thiết với nhà nhạc sỹ.

Nhà thơ Bùi Giáng đã làm tặng bài này cho hoa hậu Thu Trang. Câu cuối cùng trong bài thơ là “Còn hai con mắt khóc người một con” mà trong đó “khóc người một con” là khóc cho “gái một con trông mòn con mắt”.

BÀI THƠ “MẮT BUỒN” CỦA BÙI GIÁNG (1963) 
(Nguồn: http://poem.tkaraoke.com/10114/Mat_Buon.html)

Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con

BẢN “CON MẮT CÒN LẠI” CỦA TRỊNH CÔNG SƠN (1992)
(Nguồn: http://www.trinh-cong-son.com/conmat_nb.html)

Xem thêm: Cuộc đời hoa hậu đầu tiên tại Việt Nam“Con mắt còn lại” – gợi hứng từ đâu?

[footer]

Tình Quê Hương (Đan Thọ – Phan Lạc Tuyên)

Đan Thọ | Phan Lạc Tuyên || 23/03/2013 | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

Theo thiển ý của [dongnhacxua.com], trong số các sáng tác rất ít của nhạc sỹ Đan Thọ, đứng sau “Chiều tím” về mức độ nổi tiếng có lẽ là bản “Tình quê hương”. Một trong những lý do làm “Tình quê hương” nổi tiếng và thậm chí trở nên “lận đận” là do tác giả của bài thơ cùng tên mà nhạc sỹ đã phổ năm 1956 là Phan Lạc Tuyên, tức người đại úy trẻ tuổi mà sau này  tham gia cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm bất thành vào ngày 11/11/1960.

Phan Lạc Tuyên (thời trẻ)

[dongnhacxua.com] xin đứng ngoài tất cả các góc nhìn chính trị, bên này cũng như bên kia chiến tuyến để nhận định về Phan Lạc Tuyên cùng rất nhiều thăng trầm trong cuộc sống và sự nghiệp của ông. Nếu chỉ dừng lại trong phạm trù âm nhạc thì Phan Lạc Tuyên đã để lại cho chúng ta một bài thơ thật hay về tình người, tình yêu quê hương giúp thế hệ sau hiểu hơn về một thời binh đao khói lửa của dân tộc Việt Nam.

Cũng qua bài viết này, được biết Phan Lạc Tuyên, pháp danh Nguyên Tuệ, từ trần lúc 19g15 ngày 10-11-2011 tại Sài Gòn, hưởng thọ 84 tuổi, [dongnhacxua.com] không có gì hơn là cầu xin linh hồn ông sẽ mau về miền cực lạc.

Nguồn: link

[footer]

Đan Thọ (1924): Chiều Tím

Đan Thọ (trái) và Trường Kỳ

Nhắc đến Đan Thọ chắc hẳn chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm bất hủ Chiều Tím. [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến quý vị yêu nhạc xưa bài viết của cố nhạc sỹ Trường Kỳ trong một chương trình “Nghệ sỹ & Đời sống” phát trên đài VOA Hoa Kỳ. 

Chắc chắn nhạc sĩ Đan Thọ đã lặng người đi khi nhìn thấy cây đàn vĩ cầm thân yêu được vớt lên từ căn nhà gồm 3 phòng ngủ ngập nước của ông tại New Orleans do trận bão Katrina gây nên khi vợ chồng ông được người trưởng nam là Đan Thành chở về nơi hai ông bà cư ngụ khi từ nam California về đây vào năm 1997.

Hình ảnh của một ngày trong tháng 9 năm 2005 đó thật khó phai mờ trong ký ức già nua của người nhạc sĩ đã có một quá trình họat động âm nhạc từ trên 60 năm nay. Cây kèn tenor sax hiệu Selmer mạ vàng của ông đã không được tìm thấy, nên ông đành phải ngậm ngùi bỏ lại nơi xứ sở của nhạc Jazz, là thể lọai nhạc mà ông và vài ba người bạn cùng thời đã được coi như những người tiên phong trình diễn tại vũ trường Đại Nam của Sài Gòn vào đầu thập niên 60.

Khi quay trở lại Houston là nơi hai vợ chồng ông cư ngụ hiện nay, sau khi căn nhà ở New Orleans bị tàn phá bởi trận bão Katrina, nhạc sĩ Đan Thọ đã nhờ cậy nhiều chuyên viên sửa đàn phục hồi cho ông cây vĩ cầm từng gắn bó với cả cuộc đời âm nhạc của mình.

Nhưng chuyên viên tài giỏi nhất cũng chỉ sửa sang được lại bề ngoài cây đàn từng sống với ông những giây phút thăng trầm trong thế giới âm nhạc.  Trong khi đó âm thanh của nó chẳng còn được réo rắt như xưa, cũng như tiếng nói của chủ nhân nó bây giờ cũng đã giảm đi nhiều năng lực khi tuổi đời đã tới con số 84.

Cây vĩ cầm quí giá của một đời nghệ sĩ đó giờ đây đang được trưng bầy ở một nơi trang trọng nhất trong cái apartment xinh xắn và gọn gàng có 2 phòng ngủ của cặp vợ chồng già, quấn quít bên nhau từ 63 năm nay. Mỗi lần nhìn cây vĩ cầm quen thuộc, Đan Thọ cảm thấy như cả một dĩ vãng ngày nào hiện về rõ mồn một với ông…

THỜI NIÊN THIẾU

Nhạc sĩ Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh năm 1924 tại Nam Định, là nơi ông mới trở về thăm mồ mả tổ tiên và họ hàng ngoài Bắc, vào tháng 4 năm 2008.  Đây là lần thứ hai ông trở về quê hương sau lần đầu tiên vào năm 2006 để thăm gia đình và người em ruột của ông là nhạc sĩ Đan Phú, năm nay cũng đã ngoài 80, từng có thời kỳ cùng với ông cộng tác với phòng trà Bồng Lai ở Sài Gòn trong thập niên 60.

Cũng tại nơi ông sinh trưởng, trong những năm từ 1936 đến 1942, Đan Thọ theo học chữ và học nhạc tại trường Saint Thomas D’Aquin do các sư huynh thành lập, trong số có sư huynh Maurice là người hướng dẫn ông về vĩ cầm.  Ngoài ra, ông còn biết xử dụng nhiều nhạc khí khác như Hạ uy cầm và Tây ban cầm.

ĐẾN VỚI ÂM NHẠC

Qua năm 1942, ông bắt đầu theo học về hòa âm và sáng tác với các giáo sư Tạ Phước và Vũ Đình Dự cho đến năm 1945, là năm ông bắt đầu đàn violin cho phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng, cũng ở Nam Định.  Và cùng năm đó ông lập gia đình với một thiếu nữ Hà Nội mới 16 tuổi,  là người vợ đoan trang và đảm đang của ông cho tới bây giờ, qua sự giới thiệu của chính người em họ của bà mà ông quen biết trước.

Thoạt tiên, gia đình bên vợ  không bằng lòng  vì “sợ ông ấy đánh đàn rồi ông ấy hư, quen  nhiều gái“, như chính lời bà Đan Thọ kể. Nhưng sau trên 63 năm chung sống, tư cách và cuộc sống mực thước của ông đã phá vỡ được tất cả những e ngại ban đầu đối với một người nghệ sĩ, suốt đời tận tụy với âm nhạc nhưng luôn luôn giữ được vai trò người chồng và người cha gương mẫu trong gia đình…

Khi đưa ra nhận xét về người bố của mình, trưởng nam nhạc sĩ Đan Thọ là Đan Thành –một kiến trúc sư, hiện cư ngụ ở Tampa, Florida– cho biết, như mọi người cha Việt Nam thuộc thế hệ ông, nhạc sĩ Đan Thọ luôn giữ một khỏang cách rõ ràng giữa cha và con.  Vì theo nền hóa và phong tục Việt Nam thời đó vẫn còn khắc nghiệt và nghiêm minh. Nên việc trò chuyện thân mật giữa cha và con là điều hãy còn hiếm hoi.

Mặc dù là một nghệ sĩ, nhưng nhạc sĩ Đan Thọ không khuyến khích các con của ông, gồm 1 trai và 3 gái, theo con đường âm nhạc. Tất cả đều được ông dạy dỗ rất nghiêm khắc. Và ông đã từng dùng đến roi vọt đối với trưởng nam của mình, mặc dù anh đã học ở bậc trung học.

Đối với những người trong giới, Đan Thọ còn được coi là một người nghệ sĩ mẫu mực mặc dù từng lăn lộn hàng chục năm trong một môi trường có nhiều quyến rũ, nhất là đối với những người có nhiều tình cảm như ông.

Năm 1954, Đan Thọ gia nhập ban quân nhạc Đệ Tam Quân Khu Hà Nội cùng với các nhạc sĩ Nguyễn Túc, Nhật Bằng, Văn Phụng, Nguyễn Khắc Cung, Nguyễn Cầu, Nguyễn Hiền, vv… cho đến khi chia đôi Nam-Bắc vào năm 1954.

Trong thời gian phục vụ trong nhành quân nhạc, ông đã được quân nhạc trưởng Schmetzler  hướng dẫn về kèn.  Sau đó ông cùng ban quân nhạc di cư vào Nha Trang trong cùng năm 1954. Đến khi vào Sài Gòn năm 1956, Đan Thọ lại tiếp tục theo học kèn với nhạc sĩ Phi Luật Tân  Mano Umali.

Với hai nhạc khí sở trường là violin và kèn tenor sax, nhạc sĩ Đan Thọ từ khi vào Sài Gòn đã liên tục cộng tác với nhiều chương trình nhạc trên Đài Phát Thanh Tiếng Nói Quân Đội, trên đài Truyền Hình VN và tại các vũ trường cùng phòng trà ở Sài Gòn.

Ông cũng đã từng là trưởng Ban Nhạc Nhẹ Đài Phát Thanh Quân Đội trong một khoảng thời gian dài từ năm 56 đến năm 65,  gồm các nhạc sĩ nổi danh như: Xuân Tiên, Xuân Lôi, Văn Ba, Nguyễn Ích và Canh Thân.

Ban nhạc của ông có thêm một đặc điểm là được một nhạc sĩ người Philippines tên Alano Badin soạn hòa âm cho những nhạc phẩm Việt Nam thu thanh, nhờ đó đã mang lại cho người nghe những âm thanh mới lạ. Một tuần có khoảng 5 bài được soạn hòa âm như vậy và Đan Thọ đã thu thanh cũng như lưu trữ tất cả bài vở để làm tài liệu và còn giữ được cho đến nay như một kỷ niệm quí.

Cũng với những nhạc phẩm đó, ông và ban nhạc đã từng mang  đi biểu diễn ở  Bangkok vào năm 56 và Manila năm 61, gặt hái được nhiều thành công đáng kể.

NHỮNG SÁNG TÁC

Về mặt sáng tác, Đan Thọ không có một gia tài đồ sộ, mà ông chỉ cho ra đời vọn vẹn không quá 10 nhạc phẩm.  Ông chủ trương không chú trọng nhiều đến số lượng mà đặt trọng tâm vào chất lượng của từng sáng tác của mình.

Tuy nhiên giá trị của những nhạc phẩm đó đã là những đóng góp giá trị vào thế đứng vững vàng của ông trong số những nghệ sĩ có công với âm nhạc Một điểm đặc biệt cần ghi nhận quá nửa sáng tác của mình, Đan Thọ đã phổ nhạc từ thơ và mang đến cho những thi phẩm đó những nét quyến rũ bằng âm thanh và giai điệu.

Nguồn cảm hứng đến với Đan Thọ kể từ khi ông rời nơi chôn nhau cắt rốn của mình ở miền Bắc để di cư vào Nha Trang với ban quân nhạc. Nỗi nhớ nhà và một tình quê hương canh cánh bên lòng khi phải rời bỏ quê cha đất tổ đã khiến ông dâng lên một cảm xúc dạt dào để cùng với người bạn cùng phục vụ trong ban quân nhạc là Nhật Bằng viết thành hai nhạc phẩm đầu tiên là “Bóng Quê Xưa” và “Vọng Cố Đô” tại Nha Trang.  Vẫn còn mang nặng tình quê hương, một thời gian ngắn sau, Đan Thọ lại cho ra đời nhạc phẩm “Tình Quê Hương”, phổ từ một bài thơ của Phan Lạc Tiếp.

CHIỀU TÍM

Một thời gian ngắn sau khi vào đến Sài Gòn năm 1956, Đan Thọ đã trở thành nổi tiếng ngay sau khi ông phổ nhạc thành ca khúc một thi phẩm của  Đinh Hùng mang tựa đề “Chiều Tím”.  Nhạc phẩm này cho đến nay đã được rất nhiều ca sĩ thuộc nhiều thế hệ ở hải ngọai cũng như trong nước trình bầy.  Và đó cũng là nhạc phẩm đã gắn liền với tên tuổi Đan Thọ với âm điệu du dương và tình tứ đã làm say mê bất cứ ai có dịp thưởng thức.

“Chiều Tím” cũng còn có thể được coi là một trong những nhạc phẩm đặc sắc của nền tân nhạc Việt Nam. Trước khi xẩy ra biến cố tháng 4 năm 75, Đan Thọ chỉ còn viết thêm 2 nhạc phẩm nữa ở trong nước là “Mimosa Thôi Nở”, phổ thơ Nhất Tuấn và  Xa Quê Hương, sọan chung với Xuân Tiên.

HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN

Trong lãnh vực vũ trường,  Đan Thọ là một trong những nhạc sĩ kỳ cựu nhất. Trước ngày đất nước chia đôi, ông đã từng với nhạc sĩ  Nguyễn Túc trình diễn tại nhiều phòng trà ở Hà Nội.  Vừa vào đến Sài Gòn, ông đã được mời cộng tác ngay với vũ trường “Grand Monde” tức “Đại Thế Giới”.  Năm 57 ông qua vũ trường Đại Nam cộng tác với ban nhạc gồm nhiều nhạc sĩ nổi tiếng.

Đến năm 62,  vì lệnh cấm khiêu vũ nên ban nhạc này đổi qua trình diễn nhạc Jazz với một thành phần gồm các nhạc sĩ nổi danh như: Văn Hạnh, Lê Văn Thiện và Huỳnh Anh. Đối với khán giả Việt Nam thời đó, trình diễn nhạc Jazz là một điều mới mẻ.  Do đó ban nhạc của vũ trường Đại Nam đã lôi cuốn được rất nhiều người đến thưởng thức.

Một thời gian sau ông về vũ trường “Croix Du Sud” , sau đó đổi tên là “Tự Do”.  Tại đây ông cộng tác với các nhạc sĩ Hoài Trung, Hoài Bắc cùng với  Lê Văn Thiện,  Huỳnh Anh, Nguyễn Văn Thanh, Văn Ba, vv…  Sau đó ông được giải ngũ vào năm 1969 để sang cộng tác với vũ trường Mỹ Phụng cho đến năm 72 và sau đó là phòng trà Bồng Lai.

Tại miền  Nam trước biến cố tháng 4 năm 75, trong rất nhiều năm, bóng dáng Đan Thọ với cây vĩ cầm hoặc với cây kèn saxo đã là một hình ảnh quen thuộc với những người lui tới các phòng trà và vũ trường về đêm.

Sinh hoạt hàng ngày trong thời gian cộng tác với đài quân đội của Đan Thọ song song với việc chơi nhạc tại các dancing đã chiếm gần như hết cả thời gian dành cho gia đình. Từ 8 giờ sáng cho đến trước 12 giờ trưa ông ở đài Quân Đội, sau đó chạy sang đài Sài Gòn thu thanh trực tiếp với nhiều ban nhạc, mỗi ban nửa tiếng.

Sau đó về nhà ăn cơm, rồi lại trở về đài quân đội cho đến 5 giờ 30, rồi lại chạy sang đài Sài Gòn chơi cho những ban Vũ Huyến, Mạnh Phát, Võ Đức Tuyết, Võ Đức Thu.  Sau đó trở về nhà ăn cơm vào khoảng 7, 8 giờ, nghỉ ngơi đến 9 giờ tối ông lại bắt đầu đi làm tại dancing Đại Nam cho đến 2 giờ sáng.

Qua đến những năm cuối thập niên 60, Đan Thọ trở thành một thành viên nồng cốt của ban nhạc The Shotguns do nhạc sĩ Ngọc Chánh thành lập để trình diễn tại vũ trường cũng như thu băng cho trung tâm thực hiện băng nhạc của nhạc sĩ này.  Sau này tại hải ngọai, Đan Thọ chỉ viết một ca khúc độc nhất mang tựa đề “Dương Cầm”, dựa trên ý thơ của người con rể là Mùi Quý Bồng.  Cảm hứng đã đến với ông khi nhìn cô cháu ngoại lướt những ngón tay nhỏ nhắn trên phím dương cầm.

Sau năm 75, Đan Thọ cộng tác vơi ban nhạc của  Đoàn Kịch Nói Kim Cương gồm trên 10 nhạc sĩ.  Trong đó, ngoài ông, còn có những nhạc sĩ Xuân Tiên, Lâm Thoại Nguyên, Ngọc Chánh,  Lê Văn Thiện, Phạm Văn Phúc, Đài Trang, Đặng Văn Hiền, vv… Ông từng cùng với Đoàn Kịch Nói Kim Cương ra Hà Nội trình diễn vào năm 1980 trong vòng một tháng với nhiều thành công tốt đẹp.

Trong thời gian còn ở lại Việt Nam, ông đã cùng với ban nhạc này đi diễn ở nhiều nơi  như Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, vv… Cho đến năm 80 ông quyết định xin nghỉ. Có thể nói đúng hơn là nhạc sĩ Đan Thọ đã không còn tìm thấy được nguồn vui trong nghệ thuật sau khi ông ngưng cộng tác với đoàn Kim Cương vào năm 1980, để sau đó ông dành cả thì giờ của mình cho gia đình cùng với thú nuôi chim yến của ông và đã từng đoạt giải thưởng.

Tuy không còn đi lưu diễn nhưng Đan Thọ chưa có thể xa rời sân khấu. Mặc dù sống dưới những sự đổi thay của xã hội, nhưng thời gian này đối với ông có những kỷ niệm khó quên. Cùng với nhạc sĩ Cao Phi Long và một số nhạc sĩ khác như Trí, Hòa, vv…, ông được mời cộng tác với vũ trường Maxim’s ở trên lầu.

Tại địa điểm này Đan Thọ và các nhạc sĩ trong ban đã khiến khán giả thích thú với nghệ thuật trình bầy loại nhạc Zigane, trong số có rất nhiều khán giả người ngoại quốc thuộc các nước xã hội chủ nghĩa. Đêm cuối cùng trước khi ngưng cộng tác với Maxim’s  để ngày hôm sau rời khỏi Việt Nam, phái đoàn Hungary thường đến nghe ban nhạc của ông biểu diễn đã mang hoa lên tặng ông và hôm sau còn đến tận nhà ông tặng thêm, vì ban nhạc thường đàn bài “Danse Hongroise No 5”  của Brahms rất được người Hungary ưa thích.

CUỘC SỐNG NƠI HẢI NGOẠI

Sau khi rời Việt Nam qua đến Bangkok vào cuối tháng 2 năm 85, Đan Thọ cũng nhờ chơi nhạc mới được sang New Orleans, tiểu bang Louisiana vào khoảng đầu tháng 3 cùng năm.

Louisiana là nơi vợ chồng người con gái ông cư ngụ từ lâu trong khi đáng lẽ gia đình ông phải đi Washington D.C.  do một người em của vợ ông bảo lãnh. Đan Thọ lấy lý do sợ cái lạnh của vùng đông bắc Hoa Kỳ nên đã xin với phái đoàn phụ trách sắp xếp chuyến bay để qua sống tại New Orleans trước khi dời qua California một thời gian ngắn sau, trước khi quay trở lại sống ở New Orleans vào năm 1997.

Với hai nhạc phẩm “Red Eyes Are Smiling” và “Lòng Mẹ”, tiếng đàn vĩ cầm của Đan Thọ đã khiến cho những nhân viên Mỹ cũng như Việt của phái đoàn này cảm động để sau đó chiều theo lời đề nghị của ông.

Những năm tháng ở Orange County, nhạc sĩ Đan Thọ với số tuổi lúc đó đã ngoài 60, nhưng vẫn cùng với vợ xông xáo đi làm.  Trước đó, ông từng hy vọng sau khi ra đến hải ngoại sẽ tìm lại được hứng thú với những bạn bè cùng thời.  Nhưng với cuộc sống chạy theo kim đồng hồ ở một xã hội máy móc và do sự đòi hỏi của cuộc sống, cả hai ông bà cũng đã phải trải qua một giai đoạn vất vả với những công việc mưu sinh.

Ông làm việc trong công ty General Ribbon chuyên hãng sản xuất “ruy-băng” cho máy điện toán.  Vợ ông, sau khi thất bại trong việc khai thác một tiệm ăn, cũng đã vào làm cùng hãng với ông một thời gian trước khi cả hai ngưng nghỉ sau khi đã tỏ ra là những nhân viên siêng năng và cần mẫn. Riêng ông, cuối tuần vẫn chơi nhạc tại vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh.

Đến năm 95, Đan Thọ chính thức tuyên bố giải nghệ trong một đêm văn nghệ, tổ chức vào tối 30 tháng 6 tại vũ trường Ritz để đánh dấu quá trình hoạt động âm nhạc của ông.  Vì theo Đan Thọ, sự cống hiến cho âm nhạc của ông đã quá đủ.  Hơn nữa tuổi tác và sức khỏe của ông không còn cho phép ông đi theo con đường nghệ thuật.

Nhớ lại khoảng thời gian dài hoạt động không ngưng nghỉ của người chồng nghệ sĩ, bà Đan Thọ cũng đã phải khâm phục sức làm việc của ông.  Điều đó cũng đã chứng tỏ được sự thông cảm lớn lao của bà khi Đan Thọ dấn thân vào con đường phục vụ âm nhạc.

Đáng ghi nhận hơn cả là thời gian ông còn ở Sài Gòn: “Chưa bao giờ ông ấy có mặt ở nhà trước 2 giờ sáng… Từ sáng cho đến 2 giờ đêm, ông ấy ở đâu chứ không ở nhà”. Với một vẻ âu yếm, bà nói thêm “Ông ấy muốn làm gì ông ấy cứ việc làm, nhưng mà 2 giờ tôi cứ ngồi đợi cửa.  Không bao giờ tôi đi ngủ trước, mấy chục năm như vậy.  Thành ra ông ấy đâu có dám đi đâu vì biết tôi ngồi đợi cửa mà!”, như lời kể của bà Đan Thọ.

Một điều không ai ngờ là trong suốt quá trình hoạt động của Đan Thọ, hầu như  chưa hề ai thấy mặt vợ ông tại vũ trường cũng như tại các đài phát thanh ông cộng tác.  Hai vợ chồng nhạc sĩ Đan Thọ hiện đang hưởng những chuỗi ngày nhàn hạ, nương tựa nhau trong lúc xế chiều tại Houston với sự thường xuyên liên lạc hay gặp gỡ con cháu từ Tampa đến Houston.

Khá nhiều bạn bè nghệ sĩ cùng thời với ông đã nhắm mắt xuôi tay.  Riêng Đan Thọ còn đây trong những buổi chiều tím của cuộc đời. Chắc hẳn người  nhạc sĩ lão thành đang mỉm cười mãn nguyện với những gì ông đã cống hiến cho nền âm nhạc Việt Nam, trong vai trò một nhạc sĩ sáng tác và nhất là một nhạc sĩ trình diễn bên cạnh cây vĩ cầm, giờ đây đã im tiếng.  Còn chăng chỉ còn là vang vọng dư âm của những ngày xưa cũ…

Nguồn: Nghệ sỹ & Đời sống – Trường Kỳ – VOA

[footer]

Những Ngày Xưa Thân Ái (Phạm Thế Mỹ)

Trong số những nhạc sỹ sống ở miền Nam viết về đề tài lính và chiến tranh, nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ đã để lại những dấu ấn sâu đậm khó phai mờ. Ông không quá thi vị đời lính như Trần Thiện Thanh, cũng không phản chiến mạnh mẽ như Trịnh Công Sơn. Thế nhưng với “Trăng Tàn Trên Hè Phố” hay “Những Ngày Xưa Thân Ái”, một thế hệ thanh niên miền Nam và ngay cả thế hệ sau 1975 như chúng tôi phần nào cảm nhận được thế nào là chiến tranh, là hy sinh mất mát nhưng trên hết là tình người, tình anh em.

Nhưng ít người biết rằng bản “Những Ngày Xưa Thân Ái” nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ đã lấy ý trong một bài thơ của chính người anh ruột là nhà thơ Phạm Hổ.

PHẠM THẾ MỸ & PHẠM HỔ: HAI ANH EM Ở HAI BÊN CHIẾN TUYẾN
(Theo TuoiTre.vn)

Phạm Hổ đi tập kết ra miền Bắc, hoạt động văn chương, trở thành nhà thơ, có đóng góp đặc biệt trong văn học viết cho thiếu nhi. Còn Phạm Thế Mỹ ở lại miền Nam, viết nhạc, làm thơ, là một khuôn mặt được yêu mến trong phong trào văn nghệ phản chiến, đòi hòa bình, thống nhất đất nước.

Công chúng Sài Gòn những năm tháng đó còn nhớ những ca khúc rất phổ biến của Phạm Thế Mỹ như Áo lụa vàng, Tóc mây, Thuyền hoa, Bông hồng cài áo, Bóng mát, Đưa em về quê hương, Hoa vẫn nở trên đường quê hương, Nắng lên xóm nghèo, Tàu về quê ngoại, Người về thành phố…; cùng tập nhạc Trái tim Việt Nam và hai trường ca Lửa thiêng, Con đường trước mặt.

Khi Phạm Hổ in tập thơ Những ngày xưa thân ái ở miền Bắc thì ở miền Nam Phạm Thế Mỹ cũng sáng tác một bài hát cùng tên với ca từ rất đẹp: “Tôi về qua xóm nhỏ. Con đò nay đã già. Nghe tin anh gục ngã. Dừng chân quán năm xưa. Uống nước dừa hay nước mắt quê hương”.

Phạm Thế Mỹ đem thơ Phạm Hổ đăng cạnh thơ mình trên báo Đối Diện, còn thơ của chính ông thì có lần bị tịch thu và bị đưa ra tòa. Sau ngày đất nước đoàn tụ, Sài Gòn và Hà Nội chứng kiến cuộc tái ngộ của anh em Phạm Hổ – Phạm Thế Mỹ.

Bài thơ “Những Ngày Xưa Thân Ái” của Phạm Hổ

Tôi bắn hắn rồi 
Những ngày xưa thân ái 
Không ngăn nổi tay tôi
Những ngày xưa thân ái 
Chắc hắn quên rồi 
Riêng tôi, tôi nhớ: 
Đồng làng mênh mông biển lúa 
Sương mai đáp trắng cỏ đường 
Hai đứa tôi, 
Sách vở cặp chung 
Áo quần nhàu giấc ngủ 
Song song bước nhỏ chân trần 
Gói cơm mo mẹ vắt xách tùng tơn 
Nón rộng hỏng quai 
Trong túi hộp diêm nhốt dế 
Những ngày xưa êm đẹp thế 
Không đem chung hai đứa một ngày mai
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay 
Tôi buồn tôi giận, 
Đêm nay gặp hắn, 
Tôi bắn hắn rồi 
Những ngày xưa thân ái 
Không ngăn nổi tay tôi
Xác hắn nằm bờ ruộng 
Không phải hắn thuở xưa 
Tôi cúi nhìn mặt hắn 
Tiếc hắn thời ấu thơ. 

BẢN NHẠC “NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI” CỦA PHẠM THẾ MỸ

Dòng Nhạc Xưa không bình luận gì về bài thơ mà xin để quý vị tự nhận xét. Theo thiển ý của chúng tôi thì qua nét nhạc tài hoa của Phạm Thế Mỹ, nhạc phẩm “Những Ngày Xưa Thân Ái” trở nên lãng mạn và dạt dào tình người hơn bài thơ rất nhiều.

Những ngày xưa thân ái (Phạm Thế Mỹ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Những ngày xưa thân ái (Phạm Thế Mỹ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
nhung-ngay-xua-than-ai--1--pham-the-my--pham-ho--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
nhung-ngay-xua-than-ai--2--pham-the-my--pham-ho--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
nhung-ngay-xua-than-ai--3--pham-the-my--pham-ho--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Sầu Lẻ Bóng (Anh Bằng): Vài Điều Thú Vị

Trong những ngày xuân Quý Tỵ – 2013, [dongnhacxua.com] nhận được nhiều chia sẻ qua trang web cũng như những hỏi thăm qua điện thoại. Chúng tôi xin cảm ơn tất cả tấm thịnh tình của quý bằng hữu yêu nhạc xưa. Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu bản “Sầu Lẻ Bóng” của nhạc sỹ lão thành Anh Bằng cùng với một nhận xét tinh tế của bạn có nickname là “võ hương”

Trích nhận xét của “Võ Hương: ” … một trong những ca khúc được nhiều người ưa thích là bài Sầu Lẻ Bóng, trong đó có những câu bị nhiều ca sĩ sửa lời làm mất hết ý nghĩa, ví dụ như câu … Mùa thu thương nhớ bao lần đi về với tôi … = Đã nhiều năm (mùa thu) tôi sống một mình lẻ loi trong niềm thương nhớ người … bị sửa thành: Mùa thu thương nhớ bao lần đi về … “có đôi” … trở nên vô nghĩa, không kết nối với câu kế tiếp …mà người còn vắng bóng mãi! Câu tiếp theo “Hay duyên nồng thắm ngày ấy nay đã phai rồi” = câu hỏi: hay là mối tơ duyên mặn nồng ngày xưa ấy nay đã bị lãng quên? bị sửa thành : tơ duyên nồng thắm ngày ấy nay đã phai rồi = câu khẳng định, mất hay!”

Bản nhạc in roneo mà chúng tôi sưu tầm được trên internet cũng có 2 chỗ chưa đúng: (1)  “tơ duyên nồng thắm” nên sửa lại thành “hay duyên nồng thắm” và (2) “thầm che đôi mắt” đáng lý nên là “buồn che đôi mắt”

Nghe “Sầu lẻ bóng” qua tiếng hát của “nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh. Theo thiển ý của chúng tôi, đây là bản ghi âm này trung thành nhất với bản nhạc gốc của nhạc sỹ Anh Bằng.

Ca sỹ Lệ Quyên, một tiếng hát trẻ cũng đã có một lỗi nhỏ trong bản thu âm này (xem từ giây 2:16): “có đôi” thay vì “có tôi”

Chuyện những bản nhạc xưa hơn 30-40 năm có nhiều dị bản hay bị ca sỹ hát sai lời cũng là chuyện dễ hiểu. Chúng ta hãy cùng nhau góp ý trên tinh thần xây dựng để thế hệ mai sau có thông tin chính xác nhất về “dòng nhạc của một thời xa xưa”.

[footer]

Từ Công Phụng: 50 năm ‘Bây Giờ Tháng Mấy’

Từ Công Phụng || 18/01/2013 | Sài Gòn | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

Nhân dịp nhạc sỹ Từ Công Phụng về Việt Nam thực hiện đêm nhạc vào đêm 19/01/2013, [dongnhacxua.com] xin chúc anh nhiều sức khỏe và có một đêm nhạc thật thành công.

Photo: vnExpress.net

Sinh năm 1942 tại Ninh Thuận, nhà nhạc sỹ năm nay đã bước sang tuổi “thất thập”. Từng chiến đấu cam go với hai chứng bệnh ung thư, sức khỏe của anh đã yếu đi nhiều trong những năm gần đây. Cho nên anh nhiều lần tâm sự từng giây từng phút với anh bây giờ rất đáng quý, để anh còn làm được thêm một cái gì đó cho đời, cho người yêu nhạc.

Nhân dịp này [dongnhacxua.com] gởi đến quý vị yêu nhạc đôi dòng về nhân thân mà anh cho đăng trên website http://www.tucongphung.net/blog/tac-gia

Sinh ngày 27.7.1942 tại Văn Lâm Ninh Thuận. Cử nhân luật, cựu biên tập viên đài phát thanh VOF. Rời Việt Nam vào tháng 10.1980 hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Viết nhạc từ năm 1960.

Tình ca của Từ Công Phụng với những nét đặc biệt mang tính chất lãng đãng, bàng bạc nhẹ nhàng đã trở nên thật gần gũi với những người yêu nhạc từ 40 năm qua, kể từ khi anh cho ra đời nhạc phẩm đầu tiên Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 60. Không những thế anh còn có một giọng hát thật trầm ấm như những lời tâm sự chân tình, dễ gây cảm xúc bằng lối diễn tả bằng tất cả chiều sâu của tâm hồn. Với Bây Giờ Tháng Mấy Từ Công Phụng đã thành công ngay từ bước đầu khi người nhạc sĩ sinh quán ở Ninh Thuận này đang theo học lớp đệ nhị nhưng đã mon men đến với âm nhạc bằng cách tự học.

Trước đó Từ Công Phụng thường nghe những loại nhạc hòa tấu qua những chương trình phát thanh với những nhạc phẩm cổ điển hay nhẹ nhàng như của Mantovani, Paul Mauriat. Do sở thích nghe nhạc, anh đã từ từ tìm hiểu về điểm đặc biệt của từng nét nhạc, song song với việc nghên cứu cách viết của những nhà soạn nhạc quốc tế. Về các ca sĩ, anh cho biết thường nghe Andy Williams, Perry Como và Pat Boone. Còn về nhạc khí, anh biết sử dụng guitar và piano, riêng nhạc khí sau anh cho đó là nhạc khí có sức lôi cuốn mãnh liệt nhất đến từ những âm thanh thánh thót.

Về nhạc Việt Nam, Từ Công Phụng thích nghe những bài của Đoàn Chuẩn-Từ Linh. Sau đó anh để ý đến nhạc tình của Phạm Duy. Riêng với nhạc phẩm Bây Giờ Tháng Mấy khi được hỏi có chịu ảnh hưởng gì nơi những nét nhạc anh đã nghe từ trước, người nhạc sĩ họ Từ cho nếu có cũng chỉ là một sự vô tình đến từ sự thẩm thấu của trí nhớ gom góp từ những làn gió của bốn phương tới. Nó thẩm thấu cho mình, mình đâu có biết được. Nhưng mà theo tôi thấy nó vẫn có những nét bẩm sinh riêng.?

Bây Giờ Tháng Mấy sau đó được nhà xuất bản Minh Phát mua và tung ra thị trường. Chỉ trong một thời gian ngắn nhạc phẩm này đã trở nên rất quen thuộc. Sự phổ thông mạnh mẽ của nó đã khiến tựa đề của nhạc phẩm này được truyền khẩu thành Bây Giờ…Mấy Tháng? Từ Công Phụng cho biết đã không hài lòng lắm khi tên đứa con đầu đời của anh bị đổi tên một cách châm biếm như vậy. Nhưng dù sao anh cũng thừa nhận nhờ đó mà tác phẩm đầu tay của anh được nhắc nhở tới nhiều hơn. Một điểm đặc biệt là trước đó, Từ Công Phụng không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống với việc sáng tác mà chỉ muốn coi âm nhạc là một thú tiêu khiển thanh tao. Anh đến với âm nhạc hoàn toàn bằng năng khiếu, cộng với sự chịu khó tìm tòi, học hỏi, hoàn toàn không được ai nâng đỡ trong bước đầu. Sự kiện này lại được anh coi là một sự may mắn để tạo riêng cho mình một nét nhạc đặc thù…

Sau thành công ở bước đầu, trong thập niên 60, Từ Công Phụng đã sáng tác thêm được nhiều nhạc phẩm khác, trong số này có nhiều bài trở thành quen thuộc như Bài Cho Em, Lời Cuối, Mùa Thu Mây Ngàn, v.v. Tổng cộng trong thời gian này, anh sáng tác dược trên 20 bài. Tổng cộng cho đến nay số lượng sáng tác phẩm của Từ Công Phụng đã lên đến khoảng 100 bài, tuy nhiên anh chỉ xuất bản những bài nào anh còn nhớ được lời, sau đó chép lại nhạc.

Những nhạc phẩm được nhiều người ưa thích của anh đã được đưa vào bốn tuyển tập, tuyển tập gần đây nhất mang tựa đề Một Góc Đời Phôi Pha, ra đời cùng một lúc với CD mang cùng tên do chính Từ Công Phụng trình bầy. Trong CD mới nhất này, có một số nhạc phẩm viết từ lâu nhưng chưa được phổ biến như Xứ Thâm Trầm, Một Thoáng Nhìn Nhau, Hóa Kiếp, v.v.

Xứ Thâm Trầm, được hoàn thành vào năm 1968, phổ nhạc từ một bài thơ của Đông Duy, một người bạn thời sinh viên. Về trường hợp ra đời của bài Một Thoáng Nhìn Nhau, Từ Công Phụng viết vào năm 77, từ một bài thơ của Phong Sơn, trong lần gặp gỡ tại buổi sinh hoạt ở Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi các anh em nhạc sĩ đang bàn thảo để tìm một chiều hướng mới thích hợp với chế độ mới. Sau khi phổ bài thơ này của Phong Sơn, Từ Công Phụng đã hát cho tác giả bài thơ nghe. Phong Sơn đã tỏ ra rất xúc động và bật khóc vì đã từ lâu không được nghe những dòng nhạc tình như vậy.

Từ Công Phụng cho biết anh phổ thơ là do kỷ niệm với bạn bè, thật sự anh không chủ trương phổ thơ. Anh cũng không hề đặt ra một tiêu chuẩn nào để phổ nhạc từ thơ, ngoài sự cảm xúc.

Vào năm 79, Từ Công Phụng phổ nhạc một bài thơ của một người bạn là nhà văn Nguyễn Đông Ngạc sau khi được nhà văn này tâm sự về một biến chuyển trong đời sống tình cảm của mình. Đó là bài Hóa Kiếp.

Riêng về phương diện phổ nhạc từ thơ của bạn bè, Từ Công Phụng đã hoàn tất được khoảng 10 bài, trong số đó nhạc phẩm mang tựa đề Giữ Đời Cho Nhau đã trở thành một trong những nhạc phẩm rất được ưa chuộng. Tuy nhiên tựa đề của nhạc phẩm đã gây nên một số thắc mắc vì có nhiều người cho tựa đề đó phải là Ơn Em. Đây chính là dịp để Từ Công Phụng giải thích về sự thắc mắc đó: Thực sự tựa bài thơ là Ơn Em. Sau khi làm xong, tôi thấy có mấy câu ở trong đó ngồ ngộ như kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau thì tôi đề nghị lấy tựa là Giữ Đời Cho Nhau với tác giả bài thơ là Du Tử Lê. Du Tử Lê đồng ý là có một ý tưởng mới lạ trong cái tựa…nhưng khi bài đó hát lên, người ta nghĩ là Ơn Em cũng đúng.?

Từ Công Phụng nói rõ thêm về trường hợp anh đã phổ nhạc từ bài thơ chỉ gồm có 10 câu này nhưng đã gây nơi anh nhiều xúc động khi thấy có những âm hưởng gợi lại lời ru của thân mẫu anh khi anh còn thơ ấu. Vì bài thơ ngắn nên thiếu trường canh cần thiết cho một bản nhạc nên Từ Công Phụng đã thêm hai câu cho đủ, đó là: Ơn em tình những mù lòa, như con sâu nhỏ bò qua rất mùi. Khi phổ xong anh mang lại tặng Du Tử Lê như một kỷ niệm sau khi anh đã từng phổ nhạc từ bài thơ Trên Ngọn Tình Sầu. Cũng với tựa đề Giữ Đời Cho Nhau, Du Tử Lê đã dùng để đặt cho bộ video do trung tâm Diễm Xưa thực hiện riêng cho anh, phát hành trong tháng Tư năm 2000.

Một trong vài thi phẩm của Du Tử Lê được Từ Công Phụng phổ nhạc và trở thành một ca khúc nổi tiếng phải nhắc tới là Trên Ngọn Tình Sầu vào khoảng năm 69, 70. Tựa đề nguyên thủy của bài thơ thật ra là Khúc Thêm Cho Huyền Châu, trong tập thơ của thi sĩ họ Lê ấn hành trong thời gian này. Cũng đề cập đến nhạc phẩm Trên Ngọn Tình Sầu, Từ Công Phụng cho biết thêm một chi tiết về sự anh gọi là bạo dạn trong việc phổ bài thơ của Du Tử Lê: là đã dùng âm vực rất cao. Lên cao và xuống thấp để diễn tả hết những cái nỗi buồn ở trong đó. Ngay vào đầu tôi đã dùng note rất cao. Từ Sol lên tới Fa. Tôi dùng Sol, Fa liền thay vì Mi lên Fa, tức là quá lên một ton nên tạo được một âm hưởng lạ.?

Trong bài thơ đó, Từ Công Phụng cho biết anh đã sửa lại một số câu để đúng với chiều hướng âm thanh: như là hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau.., tôi lập lại ngoài trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng. Trong bài thơ tôi còn nhớ là bầy sẻ cũ hom hem, bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám. Tôi mới thêm hai chữ nữa là bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám rêu xanh. Mái xám mà còn rêu xanh nưa để nó phủ thêm một lớp thời gian. Bởi vì rêu đóng vào cái mái, qua thời gian mưa nắng các thứ, nó thành rêu, nó làm đậm thêm cái nét của hình ảnh.?

Cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương có lần đề cập đến nhạc phẩm này và đưa ra nhận xét là dưới mắt ông, bài thơ Khúc Thêm Cho Huyền Châu không có hơi nhạc mà Từ Công Phụng làm được như vậy thật là rất xuất sắc. Về sự liên hệ gắn bó giữa thơ Du Tử Lê và nhạc Từ Công Phụng, người phổ nhạc bài thơ của Du Tử Lê thành ca khúc Trên Ngọn Tình Sầu cho biết không có vấn đề Du Tử Lê làm thơ để anh phổ nhạc. Anh không chấp nhận điều đó vì chỉ phổ nhạc khi tìm thấy được một sự xúc cảm nơi bài thơ. Anh còn cho biết là đã nhận được rất nhiều thơ của các thi sĩ gửi tới nhờ anh phổ nhạc, nhưng vì nhận thấy không có xúc cảm nên không phổ được.

Qua những lời tâm sự, được biết cuộc sống của Từ Công Phụng nếu không có âm nhạc se rất ư tẻ nhạt. Với âm nhạc, anh đã tìm thấy một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi trong đời sống của mình. Hàng đêm trước khi đi ngủ, anh không thể bỏ được thói quen nghe một vài nhạc phẩm cổ điển hoặc hòa tấu nhẹ nhàng. Đối với anh đó là một nhu cầu rất cần thiết. Cái nhu cầu cần thiết đó, với thời gian đã ẩn tàng trong tâm hồn đầy cảm xúc của anh, để từ đó phát xuất ra một dòng nhạc đặc biệt mang tên Từ Công Phụng.

Vì không chủ trương sinh sống bằng âm nhạc nên Từ Công Phụng không hề bị gò bó để bắt buộc làm những điều anh không thích trong phạm vi nghệ thuật. Từ đó anh cảm thấy thoáng hơn để đi theo cách riêng của mình, kể cả trong kỹ thuật viết nhạc. Tất cả đều thoát thai từ nét bẩm sinh của anh… Cái nét bẩm sinh Từ Công Phụng đó, tự anh không thể phân tích được mà phải đến những người thưởng thức. Bây giờ hễ nhạc của anh tấu lên, mọi người đều dễ dàng nhận ra dòng nhạc của Từ Công Phụng, không thể lẫn lộn với một ai khác như những Mùa Thu Mây Ngàn, Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, Lời Cuối, v.v. Riêng với nhạc phẩm Lời Cuối, Từ Công Phụng đã hoàn tất chỉ trong hai tiếng đồng hồ, thúc đẩy bởi một sự xúc cảm mạnh mẽ về một cuộc tình tan vỡ của anh.

Tuy đầu óc âm nhạc của anh đã ghi nhận được rất nhiều điều học hỏi nơi những người khác, nhưng khi một nhạc phẩm nào đó được Từ Công Phụng hoàn thành, những ảnh hưởng đó phối hợp với sự bẩm sinh của anh đã tạo thành một nét nhạc riêng biệt.

Đối với Từ Công Phụng, biến cố tháng Tư năm 75 đã gây cho anh rất nhiếu mất mát, do đó dùng anh đã dùng nhiều chữ cũng đành trong bài Như Chiếc Que Diêm để diễn tả một sự buông xuôi theo số phận vì không làm gì khác được: Thôi cũng đành một kiếp trăm năm đời người sẽ qua. Cũng đành một thoáng chiêm bao tình người cũng xa… Thôi cũng đành một kiếp phong ba lệ tình cũng sa… Thôi cũng đành như chiếc que diêm một lần lòa lên… Thôi cũng đành như kiếp rong rêu một lần hóa thân…

Tâm trạng chán chường của Từ Công Phụng trong những ngày còn ở lại Việt Nam hơn năm năm sau ngày 30 tháng Tư được anh diễn tả một cách cụ thể: Mỗi buổi sáng thức dậy kiếm được một ít cà phê pha cho mình uống và suy nghĩ về cuộc đời… Vấn đề nghĩ đầu tiên là trong ngày hôm nay tôi có thể làm thế nào kiếm được một ít tiền để cơm nước cho con cái thôi, không có mơ ước gì hơn.

Trong thời gian lưu lại Việt Nam trước khi vượt biển vào tháng Mười năm 80, Từ Công Phụng đã sáng tác được một tình ca, sau này được phổ biến tại hải ngoại và trở thành rất nổi tiếng như Mắt Lệ Cho Người, Trên Tháng Ngày Đã Qua, v.v. Nhạc phẩm sau là một trong những nhạc phẩm anh thích thú nhất. Khi nói về nhạc phẩm mang tựa đề Tình Tự Mùa Xuân của mình, Từ Công Phụng cho biết anh muốn dùng nội dung của nhạc phẩm đó để nói nên niềm mơ ước của những người yêu nhau trong cuộc đời này: Tình Tự Mùa Xuân là tôi viết theo một cái hư cấu về một mối tình giữa đôi tình nhân khi mùa xuân tới thì có những nỗi vui mừng khi họ ngồi gần bên nhau nương tựa nhau ở trong cái cuộc đời. Có những lúc xa mà gặp lại, họ khóc mừng cho một ngày hạnh phúc. Đó là cái mơ ước dành cho những người yêu nhau trong cuộc đời này.

Trước kia, trong thời kỳ chiến tranh, Từ Công Phụng cũng đã từng mang một niềm mơ ước mà anh nhận thấy có tiềm ẩn một tư tưởng phản chiến trong nhạc phẩm Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên: Lúc thời gian chiến tranh khốc liệt, tôi dường như không muốn nghe tới tiếng súng nổ nên nhạc của tôi vẫn là nhạc tình. Trong thế giới này chúng ta cứ chiến tranh mãi thì con người sẽ bị tận diệt nên tôi mơ ước chỉ có tình yêu mới tạo nên sức sống thôi. Tôi vẽ ra một sự mơ ước của tôi là, có một ngày nào đó sẽ đưa người tình lên một chỗ thật là thanh bình, không còn nghe tiếng súng, không còn nghe tiếng đạn, không còn nghe tiếng thở dài, than vắn, mà chỉ sống trong thế giới của tình yêu. Điều đó hơi ích kỷ. Nhưng cái điều mơ ước đó thật ra không ích kỷ. Hồi đó tôi có ý phản đối chiến tranh, nhưng phản đối một cách nhẹ nhàng…

Đúng 40 năm trước, chúng ta đã được nghe nhạc phẩm bất hủ Bây Giờ Tháng Mấy. Nhưng không ngờ 40 năm sau tại hải ngoại chúng ta lại được thưởng thức một nhạc phẩm mang cùng một đề tựa, được viết thành ca khúc thứ hai của anh. Về trường hợp lý thú này, Từ Công Phụng kể lại: Đó là kỷ niệm của thời sinh viên khi tôi còn sống trên Đà Lạt. Lúc bấy giờ bài Bây Giờ Tháng Mấy 1 mà thính giả thường hay nghe được…trên đài phát thanh Đà Lạt, tôi có nhận được nhiều bức thư khen ngợi trong số có một bức thư đặc biệt không ký tên tác giả. Trong đó ngoài những lời khen tặng còn tặng cho tôi một bài thơ cảm hứng theo cái bài Bây Giờ Tháng Mấy.?

Đó là một bài thơ 5 chữ mà anh thấy mang một nội dung lạ nên đã sửa lại bài thơ và làm thành ca khúc 2 của Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 65. Cho đến nay anh vẫn không biết tác giả bài thơ đó là ai. Trước khi chính thức được phổ biến trên CD mấy chục năm sau. Từ Công Phụng nói đùa, với lời nhạc mỗi câu 7 chữ của Bây Giờ Tháng Mấy Ca Khúc 1 người ta có thể đổi từ Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? thành Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em? Với bài thơ 5 chữ, mở đầu bằng Bây giờ là tháng mấy của Ca Khúc 2 có vẻ khó . . . xuyên tạc hơn.?

Với Từ Công Phụng nơi xứ thâm trầm nhiều khi anh quên đi cả bây giờ tháng mấy để vùi đầu vào việc sáng tác ở một góc trời phôi pha này. Bên cạnh anh đã có chị Kim Ái, thành hôn với anh sau khi cuộc hôn nhân giữa Từ Công Phụng và Từ Dung tan vỡ, quán xuyến mọi việc. Một người hướng nội với những suy tư triền miên về cuộc đời, về tình người. Một người hướng ngoại với những suy tính thích hợp với cuộc sống chạy theo kim đồng hồ. Phải chăng đó là một sự kết hợp chặt chẽ để giữ đời cho nhau?

[footer]

Vĩnh Biệt Duy Quang (1950-2012): Trọn Một Kiếp Đam Mê

Vĩnh biệt | Duy Quang || 20/12/2012 | Sài Gòn | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

Rạng sáng nay 20/12/2012 (theo giờ Việt Nam) [dongnhacxua.com] hay tin ca nhạc sỹ Duy Quang vừa qua đời tại California, hưởng thọ 62 tuổi. Sự ra đi của một trong những giọng ca nam hàng đầu của tân nhạc Việt Nam trong hơn 40 năm qua đã để lại nhiều tiếc thương cho người yêu nhạc Phạm Duy nói riêng và dòng nhạc xưa nói chung. [dongnhacxua.com] cầu nguyện cho linh hồn anh mau chóng về chốn vĩnh hằng!

Đúng như lời bài hát nổi tiếng nhất anh sáng tác, anh đã sống “trọn một kiếp đam mê” cho âm nhạc và tình yêu.

Kiếp Đam Mê, sáng tác nổi tiếng nhất của Duy Quang

[footer]

Bóng Nhỏ Giáo Đường (Phượng Linh – Nguyễn Văn Đông)

Trong dòng tân nhạc Việt Nam, nhạc phẩm “Bóng Nhỏ Giáo Đường” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông được ký dưới bút danh Phượng Linh là một trong những bản bất hủ về mùa Noel nói riêng và về tình yêu Thiên Chúa nói chung. Hôm nay nhân dịp Giáng Sinh về, Dòng Nhạc Xưa xin gởi đến bạn yêu nhạc tác phẩm này.

BÓNG NHỎ GIÁO ĐƯỜNG
(Nguồn: bài viết của tác giả Van Phuoc Phan đăng trên GiaoPhanNhaTrang.org)

Mỗi dịp Giáng Sinh về, từ khoảng nửa thế kỷ qua, người ta đã khá “quen” với ca khúc “Bóng Nhỏ Giáo Đường” của NS Nguyễn Văn Đông, nhưng bài này được ông ký với bút danh Phượng Linh. “Bóng Nhỏ Giáo Đường” có thể là một ngôi thánh đường nhỏ bé và đơn nghèo, cũng có thể là bóng dáng người yêu bé nhỏ, một cô nàng nào đó…

Không biết tôi có “duyên nợ” gì với NS Nguyễn Văn Đông hay không mà ngay từ hồi đó, tôi đã cảm thấy “hợp” với nhạc của ông, nhất là bài “Mùa Sao Sáng”. Từ thuở còn là thiếu nhi, tôi thường nghe nhạc nhiều qua làn sóng phát thanh ngày xưa, hầu như nghe cả ngày lẫn đêm, cứ rảnh là nghe, có lẽ nhờ vậy mà tôi biết được nhiều “tên tuổi” thời đó.

Khoảng 20 năm trước, có người muốn biết tông tích NS Nguyễn Văn Đông, người này không biết tìm ông ở đâu nên mới hỏi Hội Âm Nhạc, không hiểu sao người ta lại cho số điện thoại của tôi, dù tuổi tôi và tuổi NS Đông chênh lệch nhau nhiều. Lạ thật!

Vả lại, ngày xưa người ta in những tờ nhạc nhiều lắm, trên các làn sóng giới thiệu rõ ràng tên tuổi tác giả chứ không như ngày nay, người ta thường giới thiệu tên ca sĩ chứ tác giả chẳng được coi ra gì, dù tác giả là người “thai nghén” và “sinh ra” tác phẩm. Chính “cha đẻ” lại bị lãng quên! Ngược lại, trên đài phát thanh hoặc truyền hình, ngày nay người ta “vô tư” giới thiệu bài hát nào đó “của” ca sĩ này, ca sĩ nọ, chứ không phải của nhạc sĩ. Ngôn ngữ sai bét nhè như thế mà người ta không chịu sửa. Tệ thật! Làm văn hóa mà xem chừng lại phi văn hóa quá đỗi!

“Bóng Nhỏ Giáo Đường” là ca khúc được NS Nguyễn Văn Đông viết trong thời chiến, với tâm trạng một binh sĩ tác chiến nơi chiến trường xa. Giáng Sinh đang đến gần, nỗi nhớ nhà và nhớ người yêu da diết, người lính “thăm dò” thế này: “Có ai về miền quê lửa khói cho tôi nhắn vài câu, cách xa lâu rồi không biết em còn giận hờn anh nữa thôi. Chuyện ngày xưa hai đứa thương nhau trong đêm nhiều sao sáng, dưới lầu chuông anh khắc tên nhau chung trong lời khấn xin chan chứa niềm tin”. NS Đông rất thích sao sáng, chắc hẳn sao sáng có gì đó đặc biệt lắm. Đúng vậy, không đặc biệt sao được, vì đó là đêm Con Chúa giáng sinh, và lại là “mốc” kỷ niệm lúc hai người chính thức “là của nhau”.

Tình yêu đã lên ngôi, hạnh phúc tràn trề, kỷ niệm đẹp lắm. Thế nhưng niềm vui lại không trọn vẹn: “Có ai ngờ tình yêu ngày đó gieo ngang trái sầu lo, lửa binh lan tràn hai đứa đôi đàng mộng đẹp kia vỡ tan”. Không phải tại chàng hay nàng, mà tại chiến cuộc. Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! Vì thế, từng hồi chuông giáng sinh ngân vang niềm vui thì lại hóa sầu bi: “Từng hồi chuông tha thiết bi ai vang trong mùa quan tái, tiếng cầu kinh khe khẽ thôi vang khi quân giặc giẫm tan ngôi thánh lầu chuông”. Lòng buồn nhưng anh lính vẫn tin tưởng mà cầu nguyện. Có lẽ ít người dùng từ “quan tái”, nhất là ngày nay. Quan tái là quan ải, chỉ nơi biên cương, bờ cõi. NS Đông “chơi chữ” khi sử dụng cụm từ “mùa quan tái”, ý nói người lính đang phải làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nơi biên giới xa.

Kỷ niệm ùa về khi Giáng Sinh về, không chỉ kỷ niệm vui mà còn cả kỷ niệm buồn: “Nhớ mãi ngày ấy quân cướp xô bừa hạ gác chuông, nước mắt em tuôn xót xa quỳ trên đống tro tàn”. Con gái mau nước mắt là chuyện bình thường, nhưng cô người yêu của anh lính đã khóc vì gác chuông bị quân địch phá đổ. Chính gác lầu chuông đó là nơi anh lính đã chính thức tỏ tình với nàng.

Và rồi chính anh lính cũng đã góp công sức làm lại gác chuông nhà thờ ngày ấy. Kỷ niệm như còn mới nguyên: “Nhớ mãi ngày ấy anh góp tre dựng lại gác chuông, với trí ngây thơ vững tin tầm vông giữ Nhà thờ, kỷ niệm của chúng ta!”. Gác chuông ngày xưa đơn giản thôi, nhất là lại ở vùng quê, tre hoặc tầm vông là vật liệu chính khi xây dựng nhà cửa, tất nhiên với nhà thờ thì cũng vậy thôi. Gác chuông là phần không thể thiếu ở các nhà thờ, và nó cũng không thể thiếu trong ký ức yêu của hai người. Thế mà chiến tranh đã nhẫn tâm phá vỡ! Đúng ra thì không phải lỗi của chiến tranh mà là tội của những người gây ra chiến tranh.

Thời gian cứ vô tình trôi, kỷ niệm vui buồn cũng theo anh lính trên mọi chiến tuyến:“Mấy năm rồi buồn vui ngày đó theo anh giữa trời sông, dẫu xa phương trời nhưng sống muôn đời chuyện lầu chuông thuở xưa. Và từng đêm anh chắp hai tay xin cho tình yêu đó thấm nhuần trong tay Chúa ban ơn anh xây lại gác chuông trên kỷ niệm xưa”. Cái hay của người lính là “chất đạo đức” không vì khổ cực mà phai nhòa, ngược lại còn tăng thêm, anh chứng minh qua việc cầu nguyện hàng đêm, khi không gian và thời gian trở vào tĩnh lặng, dù có thể tiếng bom đạn vẫn không ngừng kêu xé không trung…

Niềm tin vẫn còn thì tất cả vẫn còn. Bóng nhỏ giáo đường nằm sâu là lẩn khuất ở miền quê, nhưng bóng đức tin lại to lớn, có thể che rợp cả bầu trời rộng và lòng người.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con!

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Em Theo Đoàn Lưu Dân: từ thơ đến nhạc

Phạm Hòa Việt | Trần Quang Lộc | Nhật Ngân || 17/12/2012 | Sài Gòn | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]

[dongnhacxua.com] đã nghe qua một nhạc phẩm có giai điệu đẹp và ca từ rất lạ do nhạc sỹ Nhật Ngân sáng tác ‘Bao giờ gặp lạ em’ với câu mở đầu: Em theo đoàn lưu dân … Thế rồi thật tình cờ, chúng tôi lại nghe một bản nhạc cùng có tên ‘Em theo đoàn lưu dân’ của nhạc sỹ Trần Quang Lộc. Một sự trùng hợp thật thú vị! Thế là [dongnhacxua.com] lang thang trên internet và góp nhặt vài thông tin thú vị cho bạn yêu nhạc

Bài thơ ‘Em theo đoàn lưu dân’ của thi sĩ Phạm Hòa Việt (theo blog của nhà văn, nhà thơ Võ Văn Hoa)

Tác giả ” Em theo đoàn lưu dân”, tôi quen thân từ lâu . Cùng công tác một trường, cùng biên tập một tập thơ. Trước 1975, anh đã học xong Cao học văn chương và đã có nhiều thơ văn đăng trên các tạp chí Văn, Bách khoa…
Năm 1981,tổ chức đám cưới vợ chồng tôi, là MC, anh ngẫu hứng:
                 Tuyết ơi ! Nên lấy chồng xa
             Mai kia Hoa sắm honda đưa về.
Mới đó đã gần 3 thập kỷ. Năm ngoái nhân chuyến hành phương Nam về Đồng Nai,tôi có ghé Biên Hòa thăm anh chị. Chuyện đời, chuyện thơ văn vui vẻ.
     Nhân chuyến  anh Phạm Hòa Việt, Chánh văn phòng, Trưởng phòng Văn xã Cục Thống kê Tỉnh Đồng Nai và phu nhân là thầy thuốc ưu tú,Bác sĩ Trần thị Dần về quê lần này , chúng  tôi đã gặp nhau và ôn cố tri tân.
    Xin giới thiệu với bạn bè bài thơ EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN rút ra từ tập thơ DÁNG HOA RỪNG của anh đã xuất bản. Bài thơ được làm từ năm 1972 trong chuyến đi thăm Bình Tuy và đã được nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên và Trần Quang Lộc phổ nhạc!

EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN

I.

Ta theo đoàn lưu dân
Khi mùa xuân vừa ngủ
Khi mùa mưa lại về
Trên môi người góa phụ

Ta ngóng đợi tiều phu
Như niềm khao khát nhỏ
Chân em vẫn ngập ngừng
Trên miền hoang đá cỏ
Trên miền hoang Động Đền
Trên miền hoang biển cả
Ngả bóng chiều không quên
Giữa hai bờ sông Thạch
Ta còn lại sau lưng
Mùi hương quen của đất…

Em theo đoàn lưu dân
Vai son sờn cẩm tú
Ôi tiếng hát xa xưa
Môi thơm bông bí nụ
Ta bên trờ tuổi nhỏ
Lá đông vàng biệt ly…

Em theo đoàn lưu dân
Tóc nghiêng nghiêng sợi đổ
Bàn tay gầy ngón khổ
Ngập ngừng chân bước chân

Em theo đoàn lưu dân
Ta bên trời sóng dạt
Đường chông gai cách mặt
Rừng mưa lạnh đá ghềnh

Em theo đoàn lưu dân
Bỏ ruộng nương hương lúa
Sắn khoai ngày nghèo khó
Cà xanh rau lá đỏ
Miếng ngọt chiều phai hương
Miếng chua chiều lá cọ…

II.

Lưu dân! Đoàn lưu dân!
Mưa vẫn nằm đất lạ
Hai bàn tay trống không
Bới gì trong sỏi đá
Cho ngày tháng đom bông
Cho môi em thêm hồng…

Em theo đoàn lưu dân
Cũng nhọc nhằn tuổi mộng
Bới gì trong đất xanh
Uống gì trong thác xanh
Tay em còn mềm mại
Làm sao ươm trái xanh…

Ta cầu xin, cầu xin
Buổi mai và Đá Dựng
Chuông giáo đường vẫn rung
Có em tìm đất đứng!

Tiếng hát vẫn nhọc nhằn
Đôi làn môi bé nhỏ
Trái rừng là lương khô
Cho những ngày khai phá

Hoa rừng là tinh hương
Cho tuổi hoang Động Đền
Cây rừng là sườn chái
Ta kết lá kè tươi
Trong ngôi vườn trú ngụ
Còn em và biển khơi
Tụ về cơn bão tố…

Mưa rừng là mắt em
Khi đàn chim xa mẹ
Cỏ rừng là tên cha
Khi bỏ quên đồi lá
Giữa bầu trời bao la…

III.

Bàn tay em đã lì
Củi tươi từng đống một
Đốt gì cho chuyến đi!
Bàn tay em đã gầy

Đoàn lưu dân còn đó
Ta cũng nghe sầu cay…
Nhớ quê hương tuổi nhỏ
Nhớ Huế và mưa râm

Ta nhớ cả hoa tràm
Thương con đường nắng mới
Nhớ cát mùa Gio Linh
Sim phơi rừng Cam Lộ

Bàu Đá và Đông Xuân
Giếng trong mùa lá đổ…
Xin góp cả hai tay
Tóc úp đều cổ áo
Đốt lửa cho vườn cây…

Xin hôn em một lần
Để ngày mai còn thấy
Nụ cười em rất xinh
Nụ cười em rất tình…

Bài hát ‘Em theo đoàn lưu dân’ do Trần Quang Lộc phổ nhạc

Nghe ‘Em theo đoàn lưu dân’ do Trần Quang Lộc phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của Phạm Hòa Việt (do Hương Lan và Hoài Nam song ca)

 

Bài hát ‘Bao giờ gặp lại em’ do Nhật Ngân phổ nhạc

Nghe ‘Bao giờ gặp lại em’ do Nhật Ngân phổ từ bài thơ ‘Em theo đoàn lưu dân’ của Phạm Hòa Việt (Khánh Ly trình bày)

[footer]

Hòn Vọng Phu 3: Người Chinh Phu Trở Về

Phần 3 và cũng là phần cuối của trường ca Hòn Vọng Phu là sự trở về của người chinh phu. Với nét nhạc tài hoa và lời ca chắt lọc, nhạc sỹ Lê Thương đã lột tả được hết nỗi đau xót của người chồng, người cha khi biết tin vợ đã không còn nữa. Cũng đâu đó tiếng vó ngựa nhưng trong phần 3 không phải là sự bịn rịn và lòng quyết tâm lúc ra đi trong phần 1 mà là sự nô nức muốn đoàn tụ với gia đình của những người lính trận. Thế nhưng sự nghiệt ngã luôn là một phần không thể thiếu của bất kỳ cuộc chiến nào, từ cổ chí kim!