Trong những ngày xuân Quý Tỵ – 2013, [dongnhacxua.com] nhận được nhiều chia sẻ qua trang web cũng như những hỏi thăm qua điện thoại. Chúng tôi xin cảm ơn tất cả tấm thịnh tình của quý bằng hữu yêu nhạc xưa. Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu bản “Sầu Lẻ Bóng” của nhạc sỹ lão thành Anh Bằng cùng với một nhận xét tinh tế của bạn có nickname là “võ hương”
Trích nhận xét của “Võ Hương: ” … một trong những ca khúc được nhiều người ưa thích là bài Sầu Lẻ Bóng, trong đó có những câu bị nhiều ca sĩ sửa lời làm mất hết ý nghĩa, ví dụ như câu … Mùa thu thương nhớ bao lần đi về với tôi … = Đã nhiều năm (mùa thu) tôi sống một mình lẻ loi trong niềm thương nhớ người … bị sửa thành: Mùa thu thương nhớ bao lần đi về … “có đôi” … trở nên vô nghĩa, không kết nối với câu kế tiếp …mà người còn vắng bóng mãi! Câu tiếp theo “Hay duyên nồng thắm ngày ấy nay đã phai rồi” = câu hỏi: hay là mối tơ duyên mặn nồng ngày xưa ấy nay đã bị lãng quên? bị sửa thành : tơ duyên nồng thắm ngày ấy nay đã phai rồi = câu khẳng định, mất hay!”
Bản nhạc in roneo mà chúng tôi sưu tầm được trên internet cũng có 2 chỗ chưa đúng: (1) “tơ duyên nồng thắm” nên sửa lại thành “hay duyên nồng thắm” và (2) “thầm che đôi mắt” đáng lý nên là “buồn che đôi mắt”
Nghe “Sầu lẻ bóng” qua tiếng hát của “nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh. Theo thiển ý của chúng tôi, đây là bản ghi âm này trung thành nhất với bản nhạc gốc của nhạc sỹ Anh Bằng.
Ca sỹ Lệ Quyên, một tiếng hát trẻ cũng đã có một lỗi nhỏ trong bản thu âm này (xem từ giây 2:16): “có đôi” thay vì “có tôi”
Chuyện những bản nhạc xưa hơn 30-40 năm có nhiều dị bản hay bị ca sỹ hát sai lời cũng là chuyện dễ hiểu. Chúng ta hãy cùng nhau góp ý trên tinh thần xây dựng để thế hệ mai sau có thông tin chính xác nhất về “dòng nhạc của một thời xa xưa”.
Từ Công Phụng || 18/01/2013 | Sài Gòn | [dongnhacxua.com] || [facebook] [googleplus]
Nhân dịp nhạc sỹ Từ Công Phụng về Việt Nam thực hiện đêm nhạc vào đêm 19/01/2013, [dongnhacxua.com] xin chúc anh nhiều sức khỏe và có một đêm nhạc thật thành công.
Photo: vnExpress.net
Sinh năm 1942 tại Ninh Thuận, nhà nhạc sỹ năm nay đã bước sang tuổi “thất thập”. Từng chiến đấu cam go với hai chứng bệnh ung thư, sức khỏe của anh đã yếu đi nhiều trong những năm gần đây. Cho nên anh nhiều lần tâm sự từng giây từng phút với anh bây giờ rất đáng quý, để anh còn làm được thêm một cái gì đó cho đời, cho người yêu nhạc.
Sinh ngày 27.7.1942 tại Văn Lâm Ninh Thuận. Cử nhân luật, cựu biên tập viên đài phát thanh VOF. Rời Việt Nam vào tháng 10.1980 hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Viết nhạc từ năm 1960.
Tình ca của Từ Công Phụng với những nét đặc biệt mang tính chất lãng đãng, bàng bạc nhẹ nhàng đã trở nên thật gần gũi với những người yêu nhạc từ 40 năm qua, kể từ khi anh cho ra đời nhạc phẩm đầu tiên Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 60. Không những thế anh còn có một giọng hát thật trầm ấm như những lời tâm sự chân tình, dễ gây cảm xúc bằng lối diễn tả bằng tất cả chiều sâu của tâm hồn. Với Bây Giờ Tháng Mấy Từ Công Phụng đã thành công ngay từ bước đầu khi người nhạc sĩ sinh quán ở Ninh Thuận này đang theo học lớp đệ nhị nhưng đã mon men đến với âm nhạc bằng cách tự học.
Trước đó Từ Công Phụng thường nghe những loại nhạc hòa tấu qua những chương trình phát thanh với những nhạc phẩm cổ điển hay nhẹ nhàng như của Mantovani, Paul Mauriat. Do sở thích nghe nhạc, anh đã từ từ tìm hiểu về điểm đặc biệt của từng nét nhạc, song song với việc nghên cứu cách viết của những nhà soạn nhạc quốc tế. Về các ca sĩ, anh cho biết thường nghe Andy Williams, Perry Como và Pat Boone. Còn về nhạc khí, anh biết sử dụng guitar và piano, riêng nhạc khí sau anh cho đó là nhạc khí có sức lôi cuốn mãnh liệt nhất đến từ những âm thanh thánh thót.
Về nhạc Việt Nam, Từ Công Phụng thích nghe những bài của Đoàn Chuẩn-Từ Linh. Sau đó anh để ý đến nhạc tình của Phạm Duy. Riêng với nhạc phẩm Bây Giờ Tháng Mấy khi được hỏi có chịu ảnh hưởng gì nơi những nét nhạc anh đã nghe từ trước, người nhạc sĩ họ Từ cho nếu có cũng chỉ là một sự vô tình đến từ sự thẩm thấu của trí nhớ gom góp từ những làn gió của bốn phương tới. Nó thẩm thấu cho mình, mình đâu có biết được. Nhưng mà theo tôi thấy nó vẫn có những nét bẩm sinh riêng.?
Bây Giờ Tháng Mấy sau đó được nhà xuất bản Minh Phát mua và tung ra thị trường. Chỉ trong một thời gian ngắn nhạc phẩm này đã trở nên rất quen thuộc. Sự phổ thông mạnh mẽ của nó đã khiến tựa đề của nhạc phẩm này được truyền khẩu thành Bây Giờ…Mấy Tháng? Từ Công Phụng cho biết đã không hài lòng lắm khi tên đứa con đầu đời của anh bị đổi tên một cách châm biếm như vậy. Nhưng dù sao anh cũng thừa nhận nhờ đó mà tác phẩm đầu tay của anh được nhắc nhở tới nhiều hơn. Một điểm đặc biệt là trước đó, Từ Công Phụng không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống với việc sáng tác mà chỉ muốn coi âm nhạc là một thú tiêu khiển thanh tao. Anh đến với âm nhạc hoàn toàn bằng năng khiếu, cộng với sự chịu khó tìm tòi, học hỏi, hoàn toàn không được ai nâng đỡ trong bước đầu. Sự kiện này lại được anh coi là một sự may mắn để tạo riêng cho mình một nét nhạc đặc thù…
Sau thành công ở bước đầu, trong thập niên 60, Từ Công Phụng đã sáng tác thêm được nhiều nhạc phẩm khác, trong số này có nhiều bài trở thành quen thuộc như Bài Cho Em, Lời Cuối, Mùa Thu Mây Ngàn, v.v. Tổng cộng trong thời gian này, anh sáng tác dược trên 20 bài. Tổng cộng cho đến nay số lượng sáng tác phẩm của Từ Công Phụng đã lên đến khoảng 100 bài, tuy nhiên anh chỉ xuất bản những bài nào anh còn nhớ được lời, sau đó chép lại nhạc.
Những nhạc phẩm được nhiều người ưa thích của anh đã được đưa vào bốn tuyển tập, tuyển tập gần đây nhất mang tựa đề Một Góc Đời Phôi Pha, ra đời cùng một lúc với CD mang cùng tên do chính Từ Công Phụng trình bầy. Trong CD mới nhất này, có một số nhạc phẩm viết từ lâu nhưng chưa được phổ biến như Xứ Thâm Trầm, Một Thoáng Nhìn Nhau, Hóa Kiếp, v.v.
Xứ Thâm Trầm, được hoàn thành vào năm 1968, phổ nhạc từ một bài thơ của Đông Duy, một người bạn thời sinh viên. Về trường hợp ra đời của bài Một Thoáng Nhìn Nhau, Từ Công Phụng viết vào năm 77, từ một bài thơ của Phong Sơn, trong lần gặp gỡ tại buổi sinh hoạt ở Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi các anh em nhạc sĩ đang bàn thảo để tìm một chiều hướng mới thích hợp với chế độ mới. Sau khi phổ bài thơ này của Phong Sơn, Từ Công Phụng đã hát cho tác giả bài thơ nghe. Phong Sơn đã tỏ ra rất xúc động và bật khóc vì đã từ lâu không được nghe những dòng nhạc tình như vậy.
Từ Công Phụng cho biết anh phổ thơ là do kỷ niệm với bạn bè, thật sự anh không chủ trương phổ thơ. Anh cũng không hề đặt ra một tiêu chuẩn nào để phổ nhạc từ thơ, ngoài sự cảm xúc.
Vào năm 79, Từ Công Phụng phổ nhạc một bài thơ của một người bạn là nhà văn Nguyễn Đông Ngạc sau khi được nhà văn này tâm sự về một biến chuyển trong đời sống tình cảm của mình. Đó là bài Hóa Kiếp.
Riêng về phương diện phổ nhạc từ thơ của bạn bè, Từ Công Phụng đã hoàn tất được khoảng 10 bài, trong số đó nhạc phẩm mang tựa đề Giữ Đời Cho Nhau đã trở thành một trong những nhạc phẩm rất được ưa chuộng. Tuy nhiên tựa đề của nhạc phẩm đã gây nên một số thắc mắc vì có nhiều người cho tựa đề đó phải là Ơn Em. Đây chính là dịp để Từ Công Phụng giải thích về sự thắc mắc đó: Thực sự tựa bài thơ là Ơn Em. Sau khi làm xong, tôi thấy có mấy câu ở trong đó ngồ ngộ như kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau thì tôi đề nghị lấy tựa là Giữ Đời Cho Nhau với tác giả bài thơ là Du Tử Lê. Du Tử Lê đồng ý là có một ý tưởng mới lạ trong cái tựa…nhưng khi bài đó hát lên, người ta nghĩ là Ơn Em cũng đúng.?
Từ Công Phụng nói rõ thêm về trường hợp anh đã phổ nhạc từ bài thơ chỉ gồm có 10 câu này nhưng đã gây nơi anh nhiều xúc động khi thấy có những âm hưởng gợi lại lời ru của thân mẫu anh khi anh còn thơ ấu. Vì bài thơ ngắn nên thiếu trường canh cần thiết cho một bản nhạc nên Từ Công Phụng đã thêm hai câu cho đủ, đó là: Ơn em tình những mù lòa, như con sâu nhỏ bò qua rất mùi. Khi phổ xong anh mang lại tặng Du Tử Lê như một kỷ niệm sau khi anh đã từng phổ nhạc từ bài thơ Trên Ngọn Tình Sầu. Cũng với tựa đề Giữ Đời Cho Nhau, Du Tử Lê đã dùng để đặt cho bộ video do trung tâm Diễm Xưa thực hiện riêng cho anh, phát hành trong tháng Tư năm 2000.
Một trong vài thi phẩm của Du Tử Lê được Từ Công Phụng phổ nhạc và trở thành một ca khúc nổi tiếng phải nhắc tới là Trên Ngọn Tình Sầu vào khoảng năm 69, 70. Tựa đề nguyên thủy của bài thơ thật ra là Khúc Thêm Cho Huyền Châu, trong tập thơ của thi sĩ họ Lê ấn hành trong thời gian này. Cũng đề cập đến nhạc phẩm Trên Ngọn Tình Sầu, Từ Công Phụng cho biết thêm một chi tiết về sự anh gọi là bạo dạn trong việc phổ bài thơ của Du Tử Lê: là đã dùng âm vực rất cao. Lên cao và xuống thấp để diễn tả hết những cái nỗi buồn ở trong đó. Ngay vào đầu tôi đã dùng note rất cao. Từ Sol lên tới Fa. Tôi dùng Sol, Fa liền thay vì Mi lên Fa, tức là quá lên một ton nên tạo được một âm hưởng lạ.?
Trong bài thơ đó, Từ Công Phụng cho biết anh đã sửa lại một số câu để đúng với chiều hướng âm thanh: như là hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau.., tôi lập lại ngoài trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng. Trong bài thơ tôi còn nhớ là bầy sẻ cũ hom hem, bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám. Tôi mới thêm hai chữ nữa là bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám rêu xanh. Mái xám mà còn rêu xanh nưa để nó phủ thêm một lớp thời gian. Bởi vì rêu đóng vào cái mái, qua thời gian mưa nắng các thứ, nó thành rêu, nó làm đậm thêm cái nét của hình ảnh.?
Cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương có lần đề cập đến nhạc phẩm này và đưa ra nhận xét là dưới mắt ông, bài thơ Khúc Thêm Cho Huyền Châu không có hơi nhạc mà Từ Công Phụng làm được như vậy thật là rất xuất sắc. Về sự liên hệ gắn bó giữa thơ Du Tử Lê và nhạc Từ Công Phụng, người phổ nhạc bài thơ của Du Tử Lê thành ca khúc Trên Ngọn Tình Sầu cho biết không có vấn đề Du Tử Lê làm thơ để anh phổ nhạc. Anh không chấp nhận điều đó vì chỉ phổ nhạc khi tìm thấy được một sự xúc cảm nơi bài thơ. Anh còn cho biết là đã nhận được rất nhiều thơ của các thi sĩ gửi tới nhờ anh phổ nhạc, nhưng vì nhận thấy không có xúc cảm nên không phổ được.
Qua những lời tâm sự, được biết cuộc sống của Từ Công Phụng nếu không có âm nhạc se rất ư tẻ nhạt. Với âm nhạc, anh đã tìm thấy một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi trong đời sống của mình. Hàng đêm trước khi đi ngủ, anh không thể bỏ được thói quen nghe một vài nhạc phẩm cổ điển hoặc hòa tấu nhẹ nhàng. Đối với anh đó là một nhu cầu rất cần thiết. Cái nhu cầu cần thiết đó, với thời gian đã ẩn tàng trong tâm hồn đầy cảm xúc của anh, để từ đó phát xuất ra một dòng nhạc đặc biệt mang tên Từ Công Phụng.
Vì không chủ trương sinh sống bằng âm nhạc nên Từ Công Phụng không hề bị gò bó để bắt buộc làm những điều anh không thích trong phạm vi nghệ thuật. Từ đó anh cảm thấy thoáng hơn để đi theo cách riêng của mình, kể cả trong kỹ thuật viết nhạc. Tất cả đều thoát thai từ nét bẩm sinh của anh… Cái nét bẩm sinh Từ Công Phụng đó, tự anh không thể phân tích được mà phải đến những người thưởng thức. Bây giờ hễ nhạc của anh tấu lên, mọi người đều dễ dàng nhận ra dòng nhạc của Từ Công Phụng, không thể lẫn lộn với một ai khác như những Mùa Thu Mây Ngàn, Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, Lời Cuối, v.v. Riêng với nhạc phẩm Lời Cuối, Từ Công Phụng đã hoàn tất chỉ trong hai tiếng đồng hồ, thúc đẩy bởi một sự xúc cảm mạnh mẽ về một cuộc tình tan vỡ của anh.
Tuy đầu óc âm nhạc của anh đã ghi nhận được rất nhiều điều học hỏi nơi những người khác, nhưng khi một nhạc phẩm nào đó được Từ Công Phụng hoàn thành, những ảnh hưởng đó phối hợp với sự bẩm sinh của anh đã tạo thành một nét nhạc riêng biệt.
Đối với Từ Công Phụng, biến cố tháng Tư năm 75 đã gây cho anh rất nhiếu mất mát, do đó dùng anh đã dùng nhiều chữ cũng đành trong bài Như Chiếc Que Diêm để diễn tả một sự buông xuôi theo số phận vì không làm gì khác được: Thôi cũng đành một kiếp trăm năm đời người sẽ qua. Cũng đành một thoáng chiêm bao tình người cũng xa… Thôi cũng đành một kiếp phong ba lệ tình cũng sa… Thôi cũng đành như chiếc que diêm một lần lòa lên… Thôi cũng đành như kiếp rong rêu một lần hóa thân…
Tâm trạng chán chường của Từ Công Phụng trong những ngày còn ở lại Việt Nam hơn năm năm sau ngày 30 tháng Tư được anh diễn tả một cách cụ thể: Mỗi buổi sáng thức dậy kiếm được một ít cà phê pha cho mình uống và suy nghĩ về cuộc đời… Vấn đề nghĩ đầu tiên là trong ngày hôm nay tôi có thể làm thế nào kiếm được một ít tiền để cơm nước cho con cái thôi, không có mơ ước gì hơn.
Trong thời gian lưu lại Việt Nam trước khi vượt biển vào tháng Mười năm 80, Từ Công Phụng đã sáng tác được một tình ca, sau này được phổ biến tại hải ngoại và trở thành rất nổi tiếng như Mắt Lệ Cho Người, Trên Tháng Ngày Đã Qua, v.v. Nhạc phẩm sau là một trong những nhạc phẩm anh thích thú nhất. Khi nói về nhạc phẩm mang tựa đề Tình Tự Mùa Xuân của mình, Từ Công Phụng cho biết anh muốn dùng nội dung của nhạc phẩm đó để nói nên niềm mơ ước của những người yêu nhau trong cuộc đời này: Tình Tự Mùa Xuân là tôi viết theo một cái hư cấu về một mối tình giữa đôi tình nhân khi mùa xuân tới thì có những nỗi vui mừng khi họ ngồi gần bên nhau nương tựa nhau ở trong cái cuộc đời. Có những lúc xa mà gặp lại, họ khóc mừng cho một ngày hạnh phúc. Đó là cái mơ ước dành cho những người yêu nhau trong cuộc đời này.
Trước kia, trong thời kỳ chiến tranh, Từ Công Phụng cũng đã từng mang một niềm mơ ước mà anh nhận thấy có tiềm ẩn một tư tưởng phản chiến trong nhạc phẩm Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên: Lúc thời gian chiến tranh khốc liệt, tôi dường như không muốn nghe tới tiếng súng nổ nên nhạc của tôi vẫn là nhạc tình. Trong thế giới này chúng ta cứ chiến tranh mãi thì con người sẽ bị tận diệt nên tôi mơ ước chỉ có tình yêu mới tạo nên sức sống thôi. Tôi vẽ ra một sự mơ ước của tôi là, có một ngày nào đó sẽ đưa người tình lên một chỗ thật là thanh bình, không còn nghe tiếng súng, không còn nghe tiếng đạn, không còn nghe tiếng thở dài, than vắn, mà chỉ sống trong thế giới của tình yêu. Điều đó hơi ích kỷ. Nhưng cái điều mơ ước đó thật ra không ích kỷ. Hồi đó tôi có ý phản đối chiến tranh, nhưng phản đối một cách nhẹ nhàng…
Đúng 40 năm trước, chúng ta đã được nghe nhạc phẩm bất hủ Bây Giờ Tháng Mấy. Nhưng không ngờ 40 năm sau tại hải ngoại chúng ta lại được thưởng thức một nhạc phẩm mang cùng một đề tựa, được viết thành ca khúc thứ hai của anh. Về trường hợp lý thú này, Từ Công Phụng kể lại: Đó là kỷ niệm của thời sinh viên khi tôi còn sống trên Đà Lạt. Lúc bấy giờ bài Bây Giờ Tháng Mấy 1 mà thính giả thường hay nghe được…trên đài phát thanh Đà Lạt, tôi có nhận được nhiều bức thư khen ngợi trong số có một bức thư đặc biệt không ký tên tác giả. Trong đó ngoài những lời khen tặng còn tặng cho tôi một bài thơ cảm hứng theo cái bài Bây Giờ Tháng Mấy.?
Đó là một bài thơ 5 chữ mà anh thấy mang một nội dung lạ nên đã sửa lại bài thơ và làm thành ca khúc 2 của Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 65. Cho đến nay anh vẫn không biết tác giả bài thơ đó là ai. Trước khi chính thức được phổ biến trên CD mấy chục năm sau. Từ Công Phụng nói đùa, với lời nhạc mỗi câu 7 chữ của Bây Giờ Tháng Mấy Ca Khúc 1 người ta có thể đổi từ Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? thành Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em? Với bài thơ 5 chữ, mở đầu bằng Bây giờ là tháng mấy của Ca Khúc 2 có vẻ khó . . . xuyên tạc hơn.?
Với Từ Công Phụng nơi xứ thâm trầm nhiều khi anh quên đi cả bây giờ tháng mấy để vùi đầu vào việc sáng tác ở một góc trời phôi pha này. Bên cạnh anh đã có chị Kim Ái, thành hôn với anh sau khi cuộc hôn nhân giữa Từ Công Phụng và Từ Dung tan vỡ, quán xuyến mọi việc. Một người hướng nội với những suy tư triền miên về cuộc đời, về tình người. Một người hướng ngoại với những suy tính thích hợp với cuộc sống chạy theo kim đồng hồ. Phải chăng đó là một sự kết hợp chặt chẽ để giữ đời cho nhau?
Rạng sáng nay 20/12/2012 (theo giờ Việt Nam) [dongnhacxua.com] hay tin ca nhạc sỹ Duy Quang vừa qua đời tại California, hưởng thọ 62 tuổi. Sự ra đi của một trong những giọng ca nam hàng đầu của tân nhạc Việt Nam trong hơn 40 năm qua đã để lại nhiều tiếc thương cho người yêu nhạc Phạm Duy nói riêng và dòng nhạc xưa nói chung. [dongnhacxua.com] cầu nguyện cho linh hồn anh mau chóng về chốn vĩnh hằng!
Đúng như lời bài hát nổi tiếng nhất anh sáng tác, anh đã sống “trọn một kiếp đam mê” cho âm nhạc và tình yêu.
Kiếp Đam Mê, sáng tác nổi tiếng nhất của Duy Quang
Trong dòng tân nhạc Việt Nam, nhạc phẩm “Bóng Nhỏ Giáo Đường” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông được ký dưới bút danh Phượng Linh là một trong những bản bất hủ về mùa Noel nói riêng và về tình yêu Thiên Chúa nói chung. Hôm nay nhân dịp Giáng Sinh về, DòngNhạcXưa xin gởi đến bạn yêu nhạc tác phẩm này.
Mỗi dịp Giáng Sinh về, từ khoảng nửa thế kỷ qua, người ta đã khá “quen” với ca khúc “Bóng Nhỏ Giáo Đường” của NS Nguyễn Văn Đông, nhưng bài này được ông ký với bút danh Phượng Linh. “Bóng Nhỏ Giáo Đường” có thể là một ngôi thánh đường nhỏ bé và đơn nghèo, cũng có thể là bóng dáng người yêu bé nhỏ, một cô nàng nào đó…
Không biết tôi có “duyên nợ” gì với NS Nguyễn Văn Đông hay không mà ngay từ hồi đó, tôi đã cảm thấy “hợp” với nhạc của ông, nhất là bài “Mùa Sao Sáng”. Từ thuở còn là thiếu nhi, tôi thường nghe nhạc nhiều qua làn sóng phát thanh ngày xưa, hầu như nghe cả ngày lẫn đêm, cứ rảnh là nghe, có lẽ nhờ vậy mà tôi biết được nhiều “tên tuổi” thời đó.
Khoảng 20 năm trước, có người muốn biết tông tích NS Nguyễn Văn Đông, người này không biết tìm ông ở đâu nên mới hỏi Hội Âm Nhạc, không hiểu sao người ta lại cho số điện thoại của tôi, dù tuổi tôi và tuổi NS Đông chênh lệch nhau nhiều. Lạ thật!
Vả lại, ngày xưa người ta in những tờ nhạc nhiều lắm, trên các làn sóng giới thiệu rõ ràng tên tuổi tác giả chứ không như ngày nay, người ta thường giới thiệu tên ca sĩ chứ tác giả chẳng được coi ra gì, dù tác giả là người “thai nghén” và “sinh ra” tác phẩm. Chính “cha đẻ” lại bị lãng quên! Ngược lại, trên đài phát thanh hoặc truyền hình, ngày nay người ta “vô tư” giới thiệu bài hát nào đó “của” ca sĩ này, ca sĩ nọ, chứ không phải của nhạc sĩ. Ngôn ngữ sai bét nhè như thế mà người ta không chịu sửa. Tệ thật! Làm văn hóa mà xem chừng lại phi văn hóa quá đỗi!
“Bóng Nhỏ Giáo Đường” là ca khúc được NS Nguyễn Văn Đông viết trong thời chiến, với tâm trạng một binh sĩ tác chiến nơi chiến trường xa. Giáng Sinh đang đến gần, nỗi nhớ nhà và nhớ người yêu da diết, người lính “thăm dò” thế này:“Có ai về miền quê lửa khói cho tôi nhắn vài câu, cách xa lâu rồi không biết em còn giận hờn anh nữa thôi. Chuyện ngày xưa hai đứa thương nhau trong đêm nhiều sao sáng, dưới lầu chuông anh khắc tên nhau chung trong lời khấn xin chan chứa niềm tin”. NS Đông rất thích sao sáng, chắc hẳn sao sáng có gì đó đặc biệt lắm. Đúng vậy, không đặc biệt sao được, vì đó là đêm Con Chúa giáng sinh, và lại là “mốc” kỷ niệm lúc hai người chính thức “là của nhau”.
Tình yêu đã lên ngôi, hạnh phúc tràn trề, kỷ niệm đẹp lắm. Thế nhưng niềm vui lại không trọn vẹn:“Có ai ngờ tình yêu ngày đó gieo ngang trái sầu lo, lửa binh lan tràn hai đứa đôi đàng mộng đẹp kia vỡ tan”. Không phải tại chàng hay nàng, mà tại chiến cuộc. Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! Vì thế, từng hồi chuông giáng sinh ngân vang niềm vui thì lại hóa sầu bi:“Từng hồi chuông tha thiết bi ai vang trong mùa quan tái, tiếng cầu kinh khe khẽ thôi vang khi quân giặc giẫm tan ngôi thánh lầu chuông”. Lòng buồn nhưng anh lính vẫn tin tưởng mà cầu nguyện. Có lẽ ít người dùng từ “quan tái”, nhất là ngày nay. Quan tái là quan ải, chỉ nơi biên cương, bờ cõi. NS Đông “chơi chữ” khi sử dụng cụm từ “mùa quan tái”, ý nói người lính đang phải làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nơi biên giới xa.
Kỷ niệm ùa về khi Giáng Sinh về, không chỉ kỷ niệm vui mà còn cả kỷ niệm buồn:“Nhớ mãi ngày ấy quân cướp xô bừa hạ gác chuông, nước mắt em tuôn xót xa quỳ trên đống tro tàn”. Con gái mau nước mắt là chuyện bình thường, nhưng cô người yêu của anh lính đã khóc vì gác chuông bị quân địch phá đổ. Chính gác lầu chuông đó là nơi anh lính đã chính thức tỏ tình với nàng.
Và rồi chính anh lính cũng đã góp công sức làm lại gác chuông nhà thờ ngày ấy. Kỷ niệm như còn mới nguyên:“Nhớ mãi ngày ấy anh góp tre dựng lại gác chuông, với trí ngây thơ vững tin tầm vông giữ Nhà thờ, kỷ niệm của chúng ta!”. Gác chuông ngày xưa đơn giản thôi, nhất là lại ở vùng quê, tre hoặc tầm vông là vật liệu chính khi xây dựng nhà cửa, tất nhiên với nhà thờ thì cũng vậy thôi. Gác chuông là phần không thể thiếu ở các nhà thờ, và nó cũng không thể thiếu trong ký ức yêu của hai người. Thế mà chiến tranh đã nhẫn tâm phá vỡ! Đúng ra thì không phải lỗi của chiến tranh mà là tội của những người gây ra chiến tranh.
Thời gian cứ vô tình trôi, kỷ niệm vui buồn cũng theo anh lính trên mọi chiến tuyến:“Mấy năm rồi buồn vui ngày đó theo anh giữa trời sông, dẫu xa phương trời nhưng sống muôn đời chuyện lầu chuông thuở xưa. Và từng đêm anh chắp hai tay xin cho tình yêu đó thấm nhuần trong tay Chúa ban ơn anh xây lại gác chuông trên kỷ niệm xưa”. Cái hay của người lính là “chất đạo đức” không vì khổ cực mà phai nhòa, ngược lại còn tăng thêm, anh chứng minh qua việc cầu nguyện hàng đêm, khi không gian và thời gian trở vào tĩnh lặng, dù có thể tiếng bom đạn vẫn không ngừng kêu xé không trung…
Niềm tin vẫn còn thì tất cả vẫn còn. Bóng nhỏ giáo đường nằm sâu là lẩn khuất ở miền quê, nhưng bóng đức tin lại to lớn, có thể che rợp cả bầu trời rộng và lòng người.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con!
Xin ghi chú nguồn DòngNhạcXưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!
[dongnhacxua.com] đã nghe qua một nhạc phẩm có giai điệu đẹp và ca từ rất lạ do nhạc sỹ Nhật Ngân sáng tác ‘Bao giờ gặp lạ em’ với câu mở đầu: Em theo đoàn lưu dân … Thế rồi thật tình cờ, chúng tôi lại nghe một bản nhạc cùng có tên ‘Em theo đoàn lưu dân’ của nhạc sỹ Trần Quang Lộc. Một sự trùng hợp thật thú vị! Thế là [dongnhacxua.com] lang thang trên internet và góp nhặt vài thông tin thú vị cho bạn yêu nhạc
Bài thơ ‘Em theo đoàn lưu dân’ của thi sĩ Phạm Hòa Việt (theo blog của nhà văn, nhà thơ Võ Văn Hoa)
Tác giả ” Em theo đoàn lưu dân”, tôi quen thân từ lâu . Cùng công tác một trường, cùng biên tập một tập thơ. Trước 1975, anh đã học xong Cao học văn chương và đã có nhiều thơ văn đăng trên các tạp chí Văn, Bách khoa… Năm 1981,tổ chức đám cưới vợ chồng tôi, là MC, anh ngẫu hứng: Tuyết ơi ! Nên lấy chồng xa Mai kia Hoa sắm honda đưa về. Mới đó đã gần 3 thập kỷ. Năm ngoái nhân chuyến hành phương Nam về Đồng Nai,tôi có ghé Biên Hòa thăm anh chị. Chuyện đời, chuyện thơ văn vui vẻ. Nhân chuyến anh Phạm Hòa Việt, Chánh văn phòng, Trưởng phòng Văn xã Cục Thống kê Tỉnh Đồng Nai và phu nhân là thầy thuốc ưu tú,Bác sĩ Trần thị Dần về quê lần này , chúng tôi đã gặp nhau và ôn cố tri tân. Xin giới thiệu với bạn bè bài thơ EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN rút ra từ tập thơ DÁNG HOA RỪNG của anh đã xuất bản. Bài thơ được làm từ năm 1972 trong chuyến đi thăm Bình Tuy và đã được nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên và Trần Quang Lộc phổ nhạc!
EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN
I.
Ta theo đoàn lưu dân Khi mùa xuân vừa ngủ Khi mùa mưa lại về Trên môi người góa phụ
Ta ngóng đợi tiều phu Như niềm khao khát nhỏ Chân em vẫn ngập ngừng Trên miền hoang đá cỏ Trên miền hoang Động Đền Trên miền hoang biển cả Ngả bóng chiều không quên Giữa hai bờ sông Thạch Ta còn lại sau lưng Mùi hương quen của đất…
Em theo đoàn lưu dân Vai son sờn cẩm tú Ôi tiếng hát xa xưa Môi thơm bông bí nụ Ta bên trờ tuổi nhỏ Lá đông vàng biệt ly…
Em theo đoàn lưu dân Tóc nghiêng nghiêng sợi đổ Bàn tay gầy ngón khổ Ngập ngừng chân bước chân
Em theo đoàn lưu dân Ta bên trời sóng dạt Đường chông gai cách mặt Rừng mưa lạnh đá ghềnh
Em theo đoàn lưu dân Bỏ ruộng nương hương lúa Sắn khoai ngày nghèo khó Cà xanh rau lá đỏ Miếng ngọt chiều phai hương Miếng chua chiều lá cọ…
II.
Lưu dân! Đoàn lưu dân! Mưa vẫn nằm đất lạ Hai bàn tay trống không Bới gì trong sỏi đá Cho ngày tháng đom bông Cho môi em thêm hồng…
Em theo đoàn lưu dân Cũng nhọc nhằn tuổi mộng Bới gì trong đất xanh Uống gì trong thác xanh Tay em còn mềm mại Làm sao ươm trái xanh…
Ta cầu xin, cầu xin Buổi mai và Đá Dựng Chuông giáo đường vẫn rung Có em tìm đất đứng!
Tiếng hát vẫn nhọc nhằn Đôi làn môi bé nhỏ Trái rừng là lương khô Cho những ngày khai phá
Hoa rừng là tinh hương Cho tuổi hoang Động Đền Cây rừng là sườn chái Ta kết lá kè tươi Trong ngôi vườn trú ngụ Còn em và biển khơi Tụ về cơn bão tố…
Mưa rừng là mắt em Khi đàn chim xa mẹ Cỏ rừng là tên cha Khi bỏ quên đồi lá Giữa bầu trời bao la…
III.
Bàn tay em đã lì Củi tươi từng đống một Đốt gì cho chuyến đi! Bàn tay em đã gầy
Đoàn lưu dân còn đó Ta cũng nghe sầu cay… Nhớ quê hương tuổi nhỏ Nhớ Huế và mưa râm
Ta nhớ cả hoa tràm Thương con đường nắng mới Nhớ cát mùa Gio Linh Sim phơi rừng Cam Lộ
Bàu Đá và Đông Xuân Giếng trong mùa lá đổ… Xin góp cả hai tay Tóc úp đều cổ áo Đốt lửa cho vườn cây…
Xin hôn em một lần Để ngày mai còn thấy Nụ cười em rất xinh Nụ cười em rất tình…
Bài hát ‘Em theo đoàn lưu dân’ do Trần Quang Lộc phổ nhạc
Phần 3 và cũng là phần cuối của trường ca Hòn Vọng Phu là sự trở về của người chinh phu. Với nét nhạc tài hoa và lời ca chắt lọc, nhạc sỹ Lê Thương đã lột tả được hết nỗi đau xót của người chồng, người cha khi biết tin vợ đã không còn nữa. Cũng đâu đó tiếng vó ngựa nhưng trong phần 3 không phải là sự bịn rịn và lòng quyết tâm lúc ra đi trong phần 1 mà là sự nô nức muốn đoàn tụ với gia đình của những người lính trận. Thế nhưng sự nghiệt ngã luôn là một phần không thể thiếu của bất kỳ cuộc chiến nào, từ cổ chí kim!
Phần 2 của trường ca Hòn Vọng Phu là nỗi mong chồng đến tuyệt vọng của người cô phụ. Tạo hóa chắc cũng cảm động trước sự hy sinh của người phụ nữ trong thời phong kiến xa xưa nên đã ban tặng cho non sông Việt Nam chúng ta nhiều tuyệt tác thiên nhiên mang tính biểu tượng cho nỗi niềm “vọng phu”. Xem thêm Wikipedia
Ở đây nhạc sỹ Lê Thương đã lồng ghép hình ảnh hòn vọng phu với dãy Trường Sơn chạy dọc đất nước và chín nhánh sông Cửu Long, vẽ nên một bức tranh hùng vỹ, gợi nhớ về một thời cha ông chúng ta đã đổ máu để gìn giữ và mở mang bờ cõi.
Nối tiếp chủ đề “Trường ca”, hôm nay chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý vị yêu nhạc xưa bản thứ nhất trong chuỗi ba bản “Hòn Vọng Phu” của cố nhạc sỹ Lê Thương (1914-1996), một trong những cây đại thụ có công khai sáng nền tân nhạc Việt Nam. Mượn hình ảnh “hòn vọng phu”, Lê Thương đã tài tình kết hợp âm nhạc ngũ cung của dân tộc với giai điệu hiện đại của tân nhạc để cho ra đời bản trường ca đầu tiên và cũng được xưng tụng là hay nhất trong nền nhạc Việt.
Trong phần 1, còn có tên “Đoàn người ra đi”, qua nét nhạc hào hùng và lời ca bi tráng, chúng ta nhưng thấy hết được hồn thiêng sông núi qua buổi xuất quân của các bậc tiền nhân.
Như một nén hương thắp cho linh hồn nhạc sỹ Trần Trịnh, [dongnhacxua.com] trân trọng gởi đến quý vị yêu nhạc xưa bài phỏng vấn của cố nhạc sỹ, ký giả Trường Kỳ thực hiện cho chuyên mục “Nghệ sỹ & Đời sống” của đài VOA Hoa Kỳ.
Không những là một nhạc sĩ sáng tác, Trần Trịnh còn là một trong những nhạc sĩ có nhiêu gắn bó nhất với lãnh vực phòng trà và vũ trường của Sài Gòn về đêm trước năm 75. Nhắc đến Trần Trịnh, không ai quên được nhạc phẩm Lệ Đá (do Hà Huyền Chi viết lời) đã dính liền với cuộc đời sáng tác của ông. Ngoài nhạc phẩm điển hình đó, Trần Trịnh còn là tác giả của nhiều nhạc phẩm đặc sắc khác, trong số có nhiều bài cùng với hai người bạn nghệ sĩ là Nhật Ngân và Lâm Đệ được ký dưới tên Trịnh Lâm Ngân trong những thập niên 60 và 70.
Trần Trịnh & Nhật Ngân lúc trẻ
Tuy đã bước vào lớp tuổi 70, nhưng Trần Trịnh vẫn còn nhớ rành mạch rất nhiều chi tiết khi tâm sự với người viết về quá trình hoạt động âm nhạc lâu dài của ông cùng với cuộc sống tình cảm trong cuộc sống thăng trầm của một người nghệ sĩ chịu một ảnh hưởng lớn của nền văn hoá Tây Phương.
Với một giọng kể chuyện say mê, Trần Trịnh cho biết âm nhạc đã quyến rũ ông mãnh liệt khi theo học chương trình Pháp tại trường Taberd Sài Gòn trong suốt 10 năm, từ năm 1945 cho đến khi ra trường vào năm 1955 với mảnh bằng Bacc 2 (Tú Tài 2 Pháp).
Nhưng niềm đam mê nơi ông đã gặp một trở ngại lớn là sự không đồng ý của bố mẹ để chấp thuận cho ông theo ngành âm nhạc, ngoài những giờ học nhạc trong chương trình của trường.
Mặc dù là một nhân viên của tòa đại sứ Pháp theo tây học, nhưng thân phụ ông vẫn tỏ ra không mấy có cảm tình với cuộc đời nghệ sĩ. Và mẹ ông, một phụ nữ người Lào – vợ sau của thân phụ ông – cũng chẳng tỏ ra khuyến khích cậu con trai út trong số 3 người con của mình.
Tuy vậy, cậu học sinh tên thật là Trần Văn Lượng, sinh năm 1936 tại Hà Nội vẫn luôn ấp ủ giấc mơ đến với âm nhạc một ngày nào đó. Trong những năm học ở Taberd, Trần Trịnh đã rất khâm phục sư huynh Rémi mang họ Trịnh, trong những giờ học nhạc do ngài phụ trách. Sư huynh Rémi đã trở thành thần tượng của ông để ông ghép họ của mình với họ của sư huynh Rémi là Trịnh thành nghệ danh Trần Trịnh ngay từ khi sáng tác nhạc phẩm đầu tiên.
Thật ra Trần Trịnh đã mon men đến với lãnh vực sáng tác từ khi mới 14 tuổi nhờ có khả năng thiên phú cộng với một đầu óc nhận xét nhạy bén trong khi theo học những giờ nhạc do sư huynh Rémi hướng dẫn.
Sáng tác đầu tiên của ông là Cung Đàn Muôn Điệu, được viết vào năm 1950 là năm ông được 14 tuổi. Nhưng mãi đến năm 17 tuổi mới được phổ biến bởi nhà xuất bản An Phú. Ba năm sau, vào năm 1956, nhạc phẩm này lại đã được nhà xuất bản Diên Hồng tái bản.
Sau đó, nhạc phẩm này còn được dùng làm nhạc chuyển mục trong một chương trình tân nhạc cùng với bài Chuyến Xe Về Nam, do nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành vào năm 55. Cũng trong năm 1956, Trần Trịnh lại cho ra đời thêm một nhạc phẩm khác là Viết Trên Đường Nở Hoa.
Sau khi đậu bằng Bacc 2 vào năm 1955, Trần Trịnh được gia đình gửi lên vừa học vừa làm tại Nha Kiến Trúc Đà Lạt. Qua năm 1957, ông thi hành nghĩa vụ quân dịch khóa đầu tiên là khoá Ngô Đình Diệm tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đánh dấu cho dịp này, ông đã viết bài Đôi Mươi, do Anh Ngọc trình bày lần đầu tiên.
Trần Trịnh đã phục vụ 2 tháng ở liên đoàn A và 2 tháng ở liên đoàn B và sau đó vào phục vụ trong ban văn nghệ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho đến khi về. Trong thời gian đó, ông đã phổ nhạc cho bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-Gôn.
Sau khi được trở về nguyên quán vào năm 58, Trần Trịnh thực hiện giấc mơ của mình khi ghi tên theo học với thần tượng âm nhạc của ông là sư huynh Rémi, tiến sĩ âm nhạc ở Rome và cũng là tác giả nhạc hiệu của Institution Taberd.
Khi học tại trường, khi học tại cư xá của các sư huynh dòng La San tại Thanh Đa, Trần Trịnh đã được huấn luyện về âm nhạc trong suốt 9 năm trời – từ năm 58 đên năm 67 – nên đã có được một căn bản vững vàng về nhạc pháp cũng như về nghệ thuật sử dụng piano.
Và tuy đã thi hành xong nghĩa vụ quân dịch, nhưng với lòng mê thích âm nhạc, Trần Trịnh vẫn tình nguyện tham gia vào những công tác văn nghệ của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung trong mục đích ủy lạo các binh sĩ. Cũng với ban văn nghệ này, Trần Trịnh đã gặp Nhật Ngân 7 năm sau đó khi nhạc sĩ này thi hành quân dịch ở đây.
Vào những năm học nhạc cuối cùng với sư huynh Rémi, Trần Trịnh đã bắt đầu đi tìm việc làm tại các phòng trà trong vai trò nhạc công sử dụng piano. Sở dĩ ông chọn phòng trà là do ảnh hưởng từ khi còn nhỏ đã bị tiêm nhiễm nhạc dancing và thuộc rất nhiều nhạc khiêu vũ trong thời gian gia đình ông cư ngụ gần vũ trường Au Vieux Cambodge bên Khánh Hội.
Khởi đầu cuộc đời một nhạc công, Trần Trịnh cộng tác với một phòng trà nhỏ tên Lệ Liễu. Sau đó ông bước chân đến với phòng trà Bồng Lai. Và dần dần được mời cộng tác với tât cả những phòng trà và vũ trường khác tại Sài Gòn.
Nhận biết được khả năng âm nhạc của Trần Trịnh sau suốt một thời gian dài cộng tác với ban văn nghệ, đại úy Quốc Hùng, trưởng ban văn nghệ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đã vận động xin được cho ông một chương trình ca nhạc trên đài truyền hình Việt Nam vào năm 67, sau khi sư huynh Rémi qua đời.
Từ đó Trần Trịnh trở thành nhạc trưởng của ban văn nghệ Đống Đa, cùng với ban Vũ Thành và Tiếng Tơ Đồng là 3 ban văn nghệ truyền hình có giá trị nhất vào giai đoạn đó. Riêng ban Đống Đa của Trần Trịnh đã qui tụ được trên 50 nhạc sĩ và một ban hợp ca trên 100 thành viên.
Đến năm 68, nhạc sĩ Trần Trịnh được một người bạn là một nhạc sĩ sử dụng kèn giới thiệu với thi sĩ Hà Huyền Chi, lúc đó đang phục vụ ở phòng báo chí cục Tâm Lý Chiến trong giai đoạn cắm trại 100% sau biến cố Mậu Thân. Hai người nói chuyện với nhau suốt sáng. Và trong một lúc, Trần Trịnh đã lục trong số những bản nhạc do ông sáng tác ra một bản nhạc, sau này trở thành nổi tiếng là Lệ Đá do Hà Huyền Chi viết lời…
Được biết Trần Trịnh cũng đã nhập ngũ từ năm 65 và phục vụ tại đài phát thanh Quân Đội thuộc phòng Tâm Lý Chiến. Ông đã không gia nhập khóa sĩ quan để xin được phục vụ tại đây với điều kiện được chơi nhạc tại phòng trà và vũ trường vào buổi tối…
Trong một lần tham gia công tác văn nghệ tại Bình Long vào năm 1964, Trần Trịnh quen với Mai Lệ Huyền, lúc đó là thành viên trong ban văn nghệ của tỉnh do nhạc sĩ Bắc Sơn làm trưởng ban.
Thời kỳ này Mai Lệ Huyền theo thân phụ sống ở Bình Long vì gia đình chị sở hữu một số đồn điền ở đây ngoài ngôi nhà ở Sài Gòn. Sau khi trở về, hai người thư từ qua lại với nhau và đi dần đến những tình cảm đậm đà.
Trần Trịnh sau đó đề nghị Mai Lệ Huyền về Sài Gòn sống để được gần gũi nhau hơn. Mai Lê Huyền nhận lời. Và chỉ một thời gian ngắn sau tình yêu giữa hai tâm hồn nghệ sĩ đã chuyển thành tình vợ chồng cũng trong năm 1964. Họ có với nhau một con gái tên Lê Trinh, sinh năm 1965, hiện là một ca sĩ ở Sài Gòn.
Sau khi thành vợ chồng, Trần Trịnh đã giới thiệu Mai Lệ Huyền đi hát ở tất cả những phòng trà và vũ trường ông cộng tác, cũng khởi đầu với phòng trà Lệ Liễu. Nhận thấy giọng hát của Mai Lệ Huyền thích hợp với thể loại nhạc tươi vui nên sau đó ông đã cùng với nhạc sĩ Nhật Ngân sáng tác một thể loại nhạc kích động để vợ mình trình bầy cùng với Hùng Cường như Gặp Nhau Trên Phố, Vòng Hoa Yêu Thương, Hai Trái Tim Vàng, vv…
Hùng Cường & Mai Lệ Huyền
Và chính nhờ ở những nhạc phẩm Trần Trịnh vừa kể được ký dưới tên Trịnh Lâm Ngân, cặp song ca kích động nhạc Hùng Cường-Mai Lệ Huyền đã gặt hái được những thành công đáng kể để được mệnh danh là “Cặp Sóng Thần”, một thời làm mưa làm gió trên các sân khấu đại nhạc hội ở Sài Gòn.
Sau hơn 10 năm sống bên nhau, Mai Lệ Huyền đã từ giã chồng con ra đi vào tháng 4 năm 75, trong khi ông không thể đi cùng để bỏ lại song thân đã cao tuổi, cũng là hai người đã nuôi đứa cháu nội từ khi mới lọt lòng. Hai người coi như xa nhau từ đấy.
Hai năm sau khi rời khỏi Việt Nam, Mai Lệ Huyền viết thư về cho con gái, đại ý khuyên Trần Trịnh bước thêm một bước nữa trong khi chị cũng đã đi đến quyết định như vậy.
Vào năm 1977, Trần Trịnh lập gia đình lần thứ hai. Người vợ sau của ông đã cho ông 3 người con trai. Nhưng chả may người con đầu bị thiệt mạng trong một lần đi tắm sông với bạn bè khi mới được 17 tuổi.
Người con thứ nhì của vợ chồng nhạc sĩ Trần Trịnh năm nay 24 tuổi hiên đang phục vụ trong binh chủng hải quân Hoa Kỳ, có khả năng sử dụng kèn trumpet. Trong khi người con út năm nay 22 tuổi cũng rất thích nhạc nhưng không có khuynh hướng đi theo con đường của bố.
Sau biến cố tháng 4 năm 75, Trần Trịnh không còn mấy quan tâm đến công việc sáng tác. Ông chỉ chú trọng đến việc cộng tác với hết đoàn hát này đến đoàn cải lương hay gánh xiệc khác để mưu sinh.
Khởi đầu, ông cộng tác với đoàn cải lương Cửu Long cùng với tay trống Phùng Trọng và vài nhạc sĩ khác. Liên tiếp nhiều năm sau, ông đã đàn piano cho rất nhiều đoàn khác trong những chuyến lưu diễn liên miên tại khắp các tỉnh ở Việt Nam.
Mãi đến năm 1982, khi các phòng trà được phép hoạt động trở lại, ông mới quay về Sài Gòn làm nhạc trưởng tại phòng trà Đệ Nhất Khách Sạn là nơi ông đã từng giữ vai trò then chốt về chương trình từ khi mới khai trương vào đầu thập niên 70. Đây có thể coi như một ban nhạc có một thành phần đông đảo nhất với 11 nhạc sĩ.
Liên tục đóng đô tại phòng trà (sau là vũ trường) Đệ Nhất Khách Sạn suốt gần 10 năm, Trần Trịnh sang cộng tác với vũ trường Maxim’s vào năm 1991.
Nhưng sau hơn 3 năm, ông đã xin nghỉ khi bị tai nạn khi ông đang chạy trên một chiếc xe gắn máy khiến ông bị thương nặng ở chân. Do tai nạn đó, đến nay Trần Trịnh vẫn cần phải dùng gậy trong việc đi đứng.
Sau khi tĩnh dưỡng 6 tháng, vợ chồng Trần Trịnh cùng 2 con lên đuờng sang Mỹ theo diện ODP vào tháng 10 năm 1995 bằng sự bảo lãnh của người chị ruột ông là vợ của cố giáo sư Nguyễn Đình Hòa, được biết đến như một phụ nữ Việt Nam đầu tiên sinh con trên đất Mỹ vào năm 1952, từng được báo chí Mỹ thời đó đề cập tới.
Nhưng chỉ sau 3 tháng ở với gia đình người chị ở San Francisco, gia đình Trần Trịnh quyết định dời xuống Orange County. Một mặt không muốn là một gánh nặng cho vợ chồng người chị, lúc đó đã lớn tuổi cùng với tình trạng sức khoẻ không được khả quan.
Mặt khác, môi trường hoạt động âm nhạc của Trần Trịnh sẽ có cơ hội phát triển hơn ở nơi được coi là thủ đô của ca nhạc Việt Nam hải ngoại.
Nhưng thật sự hoạt động của ông chỉ duy trì được một tầm mức trung bình trong thời gian đầu, khi mà ông còn kiếm được lợi nhuận nhờ làm hoà âm cho một số trung tâm nhạc ở nam California.
Nhưng chỉ một thời gian sau, khi tình trạng băng đĩa từ Việt Nam càng ngày càng đổ qua ào ạt khiến nhiều trung tâm nhạc cũng như nghệ sĩ độc lập phải chùn bước trước trước sự cạnh tranh đáng ngại này. Bởi vậy, khả năng âm nhạc của ông cũng đã không còn được sử dụng.
Tài năng ấy bây giờ chỉ nhắm vào việc hoạt động trong một ban nhạc có tên là The Stars Band gồm một số nhạc sĩ lớn tuổi, hợp nhau lại để trình diễn trong những sinh hoạt có tính cách cộng đồng.
Nhạc Sĩ Nguyễn Hiền (accordeon), Nhạc Sĩ Trần Trịnh (keyboard) và ban nhạc The Stars Band: Eric, Trần Minh, Châu Hiệp, Lý Văn Quý, Phạm Gia Cổn, Thanh Hùng. Photo: CoThomMagazine.com
Ngoài Trần Trịnh, The Stars Band còn có các ca nhạc sĩ Quang Anh, Thanh Hùng, Phạm Gia Cổn (cũng là một vị võ sư!), vv… Không kể trước đó còn có nhạc sĩ Ngọc Bích cùng sự tham gia đặc biệt của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, mà nay cả hai đã vĩnh viễn ra đi. Hiện nay Trần Trịnh chỉ chú tâm vào việc nghiên cứu nhạc để viết cho ban Stars Band trình diễn. Kết quả là nhạc phẩm mang tên Stars Band của ông đã được một trung tâm nhạc của Mỹ thu thanh trên một CD và mới tung ra thị trường vào tháng 11 năm 2006…
Gần đây, một nhạc phẩm hoà tấu do ông là tác giả cũng đã được trung tâm nhạc HillTops của Hoa Kỳ ở Hollywood thu vào CD đã được phát hành rộng rãi khắp nơi. Đó là nhạc phẩm mang tựa đề Forget Me Not.
Cuộc sống hiện nay của Trần Trịnh tương đối vất vả, nhất là vợ ông lại mang một căn bệnh hiểm nghèo, tưởng đã không qua khỏi sau khi giải phẫu vào tháng 6 năm 2006 vừa qua. Tuy vậy Trần Trịnh không tỏ ra bi quan, ngoài việc lo âu những điều không may xẩy ra với ông và gia đình…
Tuy không còn nhiều hứng thú trong việc sáng tác, nhưng gần đây Trần Trịnh đã bất chợt tìm lại được nguồn rung cảm khi được thưởng thức lại bài thơ ông từng học thời trung học là La Dernière Feuille của thi sĩ Théophile Gauthier do người con nuôi ông tình cờ tìm thấy. Liền sau đó, ông đã phổ thành ca khúc bài thơ bất hủ này…
Đối với Trần Trịnh, La Dernière Feuille tức Chiếc Lá Cuối Cùng cũng chính là nhạc phẩm cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhưng dòng nhạc của riêng ông cũng như của Trịnh Lâm Ngân vẫn sẽ mãi được coi là một dòng nhạc đã có những đóng góp đáng kể cho nền tân nhạc Việt Nam.
Đó là chưa kể ngón đàn dương cầm của ông khó có thể phai mờ trong tâm hồn những khách quen thuộc trong thời kỳ vàng son của vũ truờng Sài Gòn ngày nào…