Đầu những năm 2000, người yêu nhạc có dịp thưởng thức một nhạc phẩm với giai điệu đẹp và ca từ khá trau chuốt: ‘Xin làm người hát rong’. Ngày ấy DòngNhạcXưa còn nhớ FM 99.9 của Đài Tiếng Nói Sài Gòn liên tục phát bản này trên các kênh ca nhạc như ‘Làn sóng xanh’. Lúc đó bản này được giới thiệu là một sáng tác của nhạc sỹ Trần Long Ẩn. Tuy nhiên xung quanh ‘Xin làm người hát rong’ có vài chi tiết thú vị mà chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị thông qua một bài viết của tác giả Hoàng Nhân trên báo Thể Thao & Văn Hóa ngày 19/09/2014.
Chuyện ít biết về bài hát ‘Xin làm người hát rong’
(Thethaovanhoa.vn) – Nhân sinh nhật lần thứ 72 của nhà văn – đạo diễn Lê Văn Duy vừa qua, nhiều bạn bè văn nghệ từng làm việc với ông kể lại câu chuyện ít người biết: Bài hát Xin làm người hát rong của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có được từ ý thơ của Lê Văn Duy.
Xin làm người hát rong được phổ biến rộng rãi qua sự trình bày của nhiều ca sĩ, với những câu hát đi vào lòng người:
“Cũng đành xin làm người hát rong Chỉ mong đời không chê trách Chỉ mong chuyến xe muộn màng Không dừng sớm khi đang rong chơi…”
Ai cũng biết bài hát này của nhạc sĩ Trần Long Ẩn, song không mấy ai biết bài hát liên quan đến đạo diễn Lê Văn Duy. TT&VH đã tìm gặp đạo diễn, nhà văn Lê Văn Duy và ông đồng ý kể lại câu chuyện này:
– Chuyện cũng đã lâu rồi, và thực tế, nhạc sĩ Trần Long Ẩn cũng đã có lời xin lỗi nên tôi không muốn nhắc lại. Nhưng bạn bè đã nhắc lại trong sinh nhật của tôi và nhà báo đã hỏi thì tôi trả lời.
Thi phẩm ‘Đắng và Ngọt’ của thi sỹ Trang Thế Hy viết dưới bút danh Minh Phẩm được nhà văn Bình Nguyên Lộc đổi tựa thành ‘Cuộc đời’ và đưa vào số tháng 9/1959 trên tuần báo ‘Vui sống’ ở Sài Gòn xưa. Từ đó, nhạc sỹ Phạm Duy đã lồng vào một giai điệu thật đẹp để hậu thế chúng ta có bản ‘Quán bên đường’. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết với nhiều thông tin có giá trị của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi riêng cho chúng tôi để thế hệ trẻ hiểu thêm về nền thi ca, âm nhạc của một thời xa xưa.
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi cho DongNhacXua.com ngày 2019-09-24)
Vào giữa thập
niên 50 của thế kỷ trước, thuở ấy đất nước bị chia đôi theo một hiệp định vừa
được ký kết, vì thế từ ngữ “chiến
tranh” hiện diện trong tin tức hàng ngày không được người dân quan tâm
mà xem đó như một đe dọa không phản ảnh thực tế.
Nhưng rồi
chiến tranh không còn là sự đe dọa nữa mà đã thật sự bùng nổ. Các xóm làng chưa
kịp hồi sinh bởi những tàn phá của giai đoạn kháng chiến thì nay gặp nguy cơ là
phải đối diện với cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Quê hương sẽ lại một phen chìm
vào tang tóc.
Chúng tôi rất lấy làm vinh dự khi vừa nhận được một bài viết rất có giá trị của một thân hữu yêu thơ nhạc có tên là Nguyễn Hữu Nghĩa viết về bản ‘Ngậm ngùi’ mà Phạm Duy đã phổ nhạc một cách rất tài tình từ bài thơ cùng tên của thi sỹ Huy Cận. DòngNhạcXưa xin chân thành cảm ơn và giới thiệu bài viết đến những người yêu mến dòng thơ nhạc của một thời tiền chiến.
Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com
Tản mạn về ‘Ngậm ngùi’
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi riêng cho DongNhacXua.com ngày 2019-09-16)
Những câu
thơ buồn bã dường như không phân định được đâu là cõi mộng và đâu là thực đã
thâm nhập vào văn học nước nhà từ thập niên thứ tư của thế kỷ trước, nhiều thế
hệ đã thưởng thức và đến nay lời thơ đẹp như ca dao ấy vẫn mê hoặc lòng người.
Thơ hay, được
nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc. Sự phối hợp đã chắp cánh cho thơ vượt qua những sàng
lọc nghiệt ngã của thời gian và ý thức hệ. Ý thơ và giai điệu quấn quýt nhau để
tạo thành cuộc hôn nhân đẹp đẽ.
Giòng văn học
đang trên đà phát triển nhưng cuộc đời cũng bắt đầu thấp thoáng những gập ghềnh.
‘Ngậm ngùi’ cũng không thoát khỏi, tựa đề bài thơ phải chăng cũng là
sự tiên liệu cho số phận của chính nó bởi nó đã bị ai đó nhân danh một hệ văn
hóa nào đó tước đoạt quyền rong chơi trên một phần đất nước trong những giai đoạn
biến động đã qua.
Ngày còn nhỏ,
đã bao lần tôi nghe ‘Ngậm ngùi’. Thuở ấy, nhạc phẩm này từng ngày vang vang trên
đài phát thanh, nơi quán cà phê, phòng trà, tư gia… Các chương trình phát
thanh tiếng Việt ở nước ngoài cũng nhiều lần trang trọng đưa ‘Ngậm ngùi’ lên làn
sóng. Thanh niên các thế hệ đã hòa tiếng hát với tiếng guitare dìu dặt để thổn
thức với ‘Ngậm ngùi’. Tôi cũng thế và làm lây lan ‘Ngậm ngùi’ đến bạn bè và đến cả
người trong mộng. Nay nghĩ lại mà thấy lạ, ngày ấy tuổi còn vị thành niên mà
sao cứ thích đóng vai một kẻ đã từng nếm trải đắng cay!
Nhưng nội dung bài thơ lại không thể hiểu cặn kẽ. Ngay câu đầu tiên “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…” đã là cái gì đó rất đỗi mơ hồ. Tôi thầm mong có ai đó giải thích nhưng chưa biết hỏi ai, đến lúc vừa lớn thì đất nước lại sôi sục biến động, thế là đành xếp lại mộng mơ để chuẩn bị cho một thực tế đầy khác lạ. Kể từ đấy ‘Ngậm ngùi’ bị buộc phải rời khỏi đời sống công khai, nó chỉ còn sống lặng lẽ, lây lất trong tâm hồn những ai từng biết và yêu mến nó.
Ngày tháng
trôi đi, do công việc nên tôi thường xuyên qua lại trên con đường xuyên Việt
vào nhiều thời khắc khác nhau. Trên đường cái quan, tôi mê mải ngắm những di
tích bị bỏ mặc cho hoang tàn, xót xa trước những phế tích tan tác đang oằn oại
gánh nặng nỗi buồn đau quá khứ. Nhưng núi non trùng điệp, nương đồi chập chùng,
biển xanh mênh mông và những cánh đồng tuy nhỏ hẹp nhưng xanh tươi dọc duyên hải
miền Trung lại gây hưng phấn, thích thú cho kẻ có tâm hồn thích ngao du. Không
quá lời khi nói rằng những ai có dịp đi đó đây là những người may mắn, vì chỉ
có thực tế theo cách này mới cảm nhận được
cái đẹp nhiều khi đến sững sờ do thiên nhiên ban tặng. Riêng miền Trung, ngoài
sự hùng vĩ của thiên nhiên thì quanh đó vẫn còn những cảnh sắc, những phận người
buồn đến nghẹn ngào.
Một lần
trên đường từ Bắc về Nam, khi ngang qua vùng Hà Tĩnh vào buổi chiều, một hình ảnh
không lẫn vào đâu được chợt chói lòa trong tâm thức. Theo cách diễn tả của thi
nhân thì khi “Nắng đã xế về bên xứ bạn” chính là lúc mặt trời đã ngả
về Tây, tức là đã vượt chếch qua bên kia dẫy Trường sơn. Lúc này phía Trường
sơn Tây đang còn nắng thì mé Trường sơn Đông, tùy từng chỗ, nắng chỉ còn thoi
thóp hoặc nắng đã không còn. Hoa lá sau những nỗ lực khoe sắc cuối cùng đã ảm đạm
dần đi, mầu hoàng hôn đang bảng lảng.
Chiều xuống
rất nhanh, hơi lạnh từ rừng sâu, từ vách đá bắt đầu lan tỏa rồi vươn mình che mờ
thôn xóm, nương đồi. Nhưng điều muốn nói là trên đường cái quan và những cánh đồng
ven biển; thì ơ hay, nắng chiều còn vương vấn! Thế đấy, chiều đã chia đôi không
gian, nửa còn nắng và nửa đã chiều rồi. Câu lục đầu tiên thoát khỏi sự bí ẩn đã
giúp những câu sau dễ hiểu hơn.
Nhà thơ quê
ở Hà Tĩnh, hẳn là đã chứng kiến không biết bao lần cảnh chiều quê trong không
gian đôi ngả này, thi nhân bồi hồi trước cảnh vẻ buồn bã của mầu thời gian đang
dần phai, ông đã nhuốm lạnh trong không gian se sắt buổi chiều tà thưa thớt người
qua lại, thi thoảng có ai thấp thoáng trên nương đồi thì bóng cũng nhòa đi
trong sương nhẹ; tiếng tù và mộc mạc vang vọng không gian băng qua lũng đồi nhắc
đàn bò đến giờ rồi, về thôi! Chim chóc từng bầy xôn xao quay về nơi ẩn trú. Hoa
lá cũng cuộn mình vào cõi miên man.
Trinh nữ –
loài hoa dân dã, cũng là một vị thuốc dân gian mọc bạt ngàn dọc đôi bờ quốc lộ,
chúng đã đến giờ khép lá nghỉ ngơi để chuyển tiếp một giai đoạn của chu kỳ sinh
học. Đó đây trên cành Trinh nữ; lác đác vài con nhện bắt đầu giăng tơ, rồi từng
con nhện xuất hiện trong nỗi cô đơn như định mệnh của loài nhện mượn cành Trinh
nữ để cộng sinh theo cách đơn giản nhất. Từng đường tơ trải ra, chúng mong manh
rung ring trong gió, từng nút thắt hình thành khởi đầu cho một cuộc sinh tồn.
Cuộc mưu sinh nhẫn nại đến lạ lùng diễn ra trong thinh lặng khi trần gian đã vắng
bóng mặt trời, chỉ có những vệt đêm lấp lánh ánh sao trong gió rừng vi vu,
trong động đậy hỗn mang của núi rừng nguyên sơ và đôi khi dưới ánh trăng sơn cước
tròn đầy theo chu kỳ từ thuở hồng hoang.
Chiều đã
qua, đêm mênh mông đang xuống. Em dịu dàng xếp lá, gió nhẹ nhàng như vuốt ve, dỗ
dành. Em khép mắt nhưng mở lòng đón nhận những ẩn dấu thiên nhiên, những ẩn dấu
vốn chỉ mở riêng ra cho những tâm hồn biết thao thức đang từ từ hé lộ. Em biết
từng đàn chim đã quay về yên lành trong tổ ấm, không gian đã tắt rồi tiếng ríu
rít gọi đàn. Em mỉm cười nhủ lòng ghi nhớ những âm thanh ấy như những lời thủ
thỉ bè bạn hẹn gặp nhau khi ngày mai tươi sáng, sự quyến luyến lúc chia tay đã
nâng tâm hồn em lên một cung bậc mới. Em biết nơi thôn xóm xa mờ kia, những đụn
khói la đà trong sương nặng phủ che đàn bò nằm lặng yên nhơi cỏ. Em biết em có
bạn bè và được họ yêu thương.
Em nhìn lại
và hài lòng với công việc đã làm trong một ngày vừa qua, một công việc được
thiên nhiên giao phó, dù vô cùng nhỏ bé nhưng nhằm đến mục đích chung là hoàn
thành những mắt xích cần thiết cho sự tồn vong của muôn loài trên trái đất này.
Không ai chấm công, nhưng em vẫn làm tốt công việc mình. Em sống và hồn nhiên
đón nhận nguồn sống từ đất mẹ bao dung và em trao lại cho đời thành quả đạt được
cũng hồn nhiên như lúc nhận. Xa hơn nữa phía ngoài kia văng vẳng tiếng gió hòa
theo sóng rì rào từ bờ đại dương băng qua đường cái quan vang lên như tiếng ru
dào dạt, nâng niu. Em thiếp dần, thiếp dần vào giấc ngủ hồn nhiên bình thường,
không mộng mị xa xôi.
Trước đó một
thời khắc; ven sườn đồi, khói lam chiều nhè nhẹ vấn vương trên mái tranh từng
nhà sàn cô quạnh, đây đó vang tiếng giục giã nhau chiều rồi như tiếng lòng hướng
về nơi ấm cúng.
***
Chiều rồi!
Tiếng kêu thảng thốt thổi bùng nỗi nhớ nhà thoáng đến, nó lay động da diết tâm
hồn, khuấy động nỗi bùi ngùi trong tâm cảnh kẻ phiêu du. Nhà thơ hẳn phải buồn
hơn, buồn đến mức đã ngậm cả nỗi bùi ngùi trong tâm tưởng để tế cáo với Trời đất
nỗi buồn muôn thuở “Chiều rồi” trên quê hương bộn bề sỏi đá. Nỗi buồn
ấy không dừng lại mà mỗi ngày mỗi cao, cao dần cho đến khi nỗi buồn vượt qua mọi
đỉnh điểm để tan chẩy rồi kết tụ thành trái sầu như một di sản gây vấn vương
tâm hồn. Khi sầu đã chín, sầu không còn cưu mang nổi chính mình thì lúc đó “ Ngậm
ngùi ” cũng đến kỳ khai hoa nở nhụy!
Tiếng
chuông từ ngôi chùa trơ vơ trên nền phiến đá lớn đang vang trong không gian quạnh
quẽ như lời nhắc nhở “ về thôi ” bởi ngày đã sắp qua, bởi đêm đang dần đến.
Về thôi! về
với gia đình để được cùng quây quần bên bữa cơm chiều ấm áp tình thân.
Về thôi! để
đêm đêm, dưới mái nhà sàn, tình yêu âm thầm triển nở dẫu ai đó vẫn cứ thẹn
thùng.
***
Nhà thơ
không kiếm đề tài nơi xa xôi, chỉ quan sát và nhạy cảm với những thay đổi vốn
có nơi thiên nhiên cạnh kề, ông đã tắm gội trong nguồn cảm hứng vô tận ấy. Một
tâm hồn biết lắng nghe sẽ đón nhận nỗi xúc cảm đang dâng tràn để dệt cho đời những
tác phẩm có giá trị bền lâu…
Nhìn nắng sớm
ngắm sương chiều, nhà thơ đọc được những chuyển dịch của thiên nhiên, người hòa
nhập tâm hồn vào đấy rồi mặc cho thiên nhiên tâm trạng con người, nhân cách hóa
hoa lá cỏ cây để chúng cùng đồng hành với chúng ta trên con đường đi tìm hạnh
phúc dù không là vĩnh cửu. ‘Ngậm ngùi’ không chỉ là nỗi lòng của tâm hồn trước
thiên nhiên hoang sơ vào những thời khắc nhất định mà còn là tâm trạng của
chúng ta khi đối diện với thiên nhiên tuyệt đẹp đang bị đe dọa bởi sự hủy diệt
môi trường đang diễn ra hàng loạt.
Rồi đây các
đô thị càng lúc càng phát triển, các khu công nghiệp rồi cũng thế và tất cả sẽ
tập trung dọc con đường cái quan. Cuộc sống khá giả lên, lòng người không còn
đơn sơ kéo theo những tính toán tất nhiên của đời sống thị dân sẽ làm diện mạo
thiên nhiên thay đổi theo hướng thu hẹp lại, xấu dần đi. Đô thị mở rộng đấy, những
dẫy nhà bê tông san sát nhau, vui vẻ sầm uất đấy nhưng chẳng còn mối liên hệ
nào với thiên nhiên, mà nếu còn thì xin đừng là những liên hệ thảm thiết – như
Formosa chẳng hạn.
Còn có thể
sống hòa hợp với thiên nhiên để được giấc ngủ hồn nhiên như em với chim mộng đầu
giường không? Câu trả lời tùy thuộc vào loài người có còn biết ơn Đấng Tạo Hóa
đã ban cho mình một trái đất đẹp đẽ, đa dạng, phì nhiêu; có còn nhớ rằng mình
có bổn phận quản lý nó như một người quản lý trung tín không ? Và kế tiếp đâu
là chân dung của văn hóa, cách sống, thái độ của xã hội và của từng cá nhân trước
thảm trạng sinh thái đang diễn ra hằng ngày.
Sẽ buồn lắm nếu một mai ‘Ngậm ngùi’ được thế hệ tiếp nối hát lên như oán trách mà kể lại, rằng thời cha ông chúng ta đã xảy ra một loại tội ác!
Sáng nay trời Sài Gòn chợt đổ mưa. Ngồi nhâm nhi ly cafe sáng trong góc một sân trường, nhìn những cánh phượng rơi lả tả, DòngNhạcXưa biết rằng mùa hè đã về. Đây đó, trong các dãy lớp, các cô cậu học trò những lớp cuối cấp, lớp 9 hay lớp 12 (tức đệ tứ và đệ nhất ngày xưa) vẫn còn đang tất bật chuẩn bị cho một kỳ thi đang đến rất gần.
Xin cảm ơn cơn mưa hạ. Cơn mưa đã đưa chúng tôi về với những tháng ngày đã qua với nhiều cảm xúc buồn vui lẫn lộn của hơn 20 năm về trước: chia tay tuổi học trò và chuẩn bị cho một kỳ thi cam go để làm hành trang vào đời. Khi những cuốn lưu bút đã viết xong, chín tháng của một niên học cuối đã khép lại, chúng tôi bỗng chợt nhận ra mình không còn trẻ nữa, đứa nào cũng trở nên chín chắn hơn với bao ước mơ, hoài bão cho một chặng đường dài phía trước.
Trong niềm cảm xúc ấy, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản “Tháng Sáu Mùa Thi” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Hiên qua tiếng hát của nam ca sỹ Khắc Dũng. Xin chúc tất cả các bạn trẻ có một kỳ thi tốt đẹp và tiếp nối thế hệ chúng tôi và bao thế hệ tiền bối khác để dấn bước vào đời và xây dựng quê hương Việt Nam mình tươi sáng hơn!
Hôm nay ngày 12/05/2019, theo văn hóa của Phương Tây thì hôm nay là Ngày Của Mẹ (Mothers’ Day). Nhân dịp này, DòngNhạcXưa xin tổng hợp lại những ca khúc hay về tình Mẹ. Thật ra chúng tôi cũng đã có một chuyên mục về ‘Tình mẫu tử‘ trên trang DongNhacXua.com, nhưng bài viết tổng hợp này sẽ giúp các bạn trẻ nhanh chóng có một danh sách khi cần.
Biết rằng khả năng của mình là có giới hạn nên mọi sự đóng góp, bổ sung luôn được hoan nghênh.
Nhắc đến Y Vân là giới yêu nhạc nghĩ ngay đến ‘Lòng mẹ’ bất hủ dù ông có trên dưới 200 sáng tác thuộc đủ mọi thể loại. TheoDòngNhạcXưa ‘Lòng mẹ’ là bản nhạc hay nhất và tiêu biểu nhất cho tình yêu bao la của người mẹ Việt Nam.
Chỉ với một bản ‘Mẹ tôi’ cũng đủ lưu danh nhạc sỹ Nhị Hà vào nền tân nhạc Việt Nam như là tác giả của một trong những nhạc phẩm hay nhất về tình mẫu tử. DòngNhạcXưa xin giới thiệu đôi nét về nhà nhạc sỹ gốc Huế này để thế hệ trẻ có nhiều thông tin hơn.
Nhạc sỹ Nhị Hà.
Tác giả nhạc phẩm “Mẹ tôi”, một trong vài nhạc phẩm ca ngợi lòng mẹ đặc sắc của tân nhạc Việt Nam đã vĩnh viễn xa rời cuộc sống vào ngày 10 tháng 10 năm 1988 tại thành phố Houston do ung thư gan.
Nhạc sĩ Nhị Hà tên thật là Lê Quang Mại, sinh ngày 24 tháng 08 năm 1935 ở Quảng Bình. Ông là người con thứ 2 trong một gia đình có 5 người con.
Vào năm 1958, Nhị Hà trở ra Huế để lập gia đình tại đây với người bạn gái học chung năm cuối ở trường Khải Định tên Kim Khuê. Hai người có với nhau 7 người con. Năm 1960, ông vào Saigon tiếp tục học. Sau một thời gian sang Mỹ tu nghiệp, ông về Việt Nam làm việc tại Nha Cải Huấn cho đến năm 1975.
Năm 1975, Nhị Hà di tản sang Mỹ và cư ngụ tại tiểu bang Arizona. Sau đó, ông dời về tiểu bang Washington. Sau cùng ông và gia đình về cư ngụ tại thành phố Houston (Texas) vào năm 1979 cho đến khi ông qua đời. Tổng số tác phẩm của Nhị Hà khoảng 20 bài. Nhạc phẩm đầu tiên ông sáng tác lúc mới 13 tuổi là bài “Mẹ tôi”, một sự phối hợp đặc biệt giữa khả năng thiên phú về âm nhạc và lòng thương yêu hết lòng người mẹ đã cả đời tận tụy vì con cái. Một vài nhạc phẩm khác đã đưa tên tuổi của ông lên cao là Trở Về Thôn Cũ và Nhớ Một Mùa Hoa, vv…Tác phẩm cuối cùng của ông là Yêu, viết trước khi qua đời, trong thời gian điều trị tại bệnh viện. “
Tiếp nối dòng nhạc về Tình Mẫu Tử thiêng liêng, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản ‘Nhật ký của Mẹ’, một nhạc phẩm chứa chan tình Mẹ của nhạc sỹ Nguyễn Văn Chung.
Nguyễn Văn Chung kể Nhật ký của mẹ được sáng tác năm 2008, xuất phát từ ý tưởng muốn viết một ca khúc làm quà tặng mẹ anh. Khi ấy, gia đình anh gặp biến cố. Sự quan tâm, chăm lo của mẹ đã khiến anh xúc động. Anh nghĩ lại những điều mẹ đã hy sinh cho các con từ nhỏ và đặt bút viết ca khúc.
Tiếp nối chủ đề ‘Tuổi Trẻ & Nhạc Xưa’, trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về ca từ, hôm nay DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của của nhạc sỹ Thanh Trang đăng trên VOATiengViet.com để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về giai điệu và cấu trúc căn bản của một ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam.
Tìm hiểu cấu trúc căn bản nơi 1 ca khúc trong Tân Nhạc
Chương trình “Ca khúc Việt Nam” do Thanh Trang thực hiện xin kính chào quý vị! Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau thử tìm hiểu về cấu trúc căn bản của một bài hát phổ thông trong Tân Nhạc để qua đó quý vị có thể so sánh rồi đánh giá được cung cách
Quý vị thân mến, hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau thử tìm hiểu về cấu trúc căn bản của một bài hát phổ thông trong Tân Nhạc để qua đó quý vị có thể so sánh rồi đánh giá được cung cách sáng tác ca khúc xưa và nay! Và cũng xin thưa ngay là chúng tôi sẽ tránh sử dụng các loại thuật ngữ chuyên môn về nhạc để những vị nào quan tâm đến đề tài này nhưng không chuyên cứu về nhạc thì chúng tôi vẫn truyền đạt được một số ý chính muốn trình bày!
Trước hết chúng ta cùng nhau coi xem viết một bài hát thì nó khác so với việc viết một bài thơ như thế nào. Ta không so sánh việc viết một ca khúc với một bài văn vì văn với nhạc không gần nhau bằng nhạc với thơ, tuy cả ba thứ đó đều có một điểm chung nhất về mặt đề tài và cách thể hiện, tức người đọc, ở chỗ là người nghe người ta trước hết muốn biết đích xác xem tác giả họ muốn nói cái gì, rồi kế đó là điều muốn nói ra đấy nó hay dở ra sao!
Lúc mới thành lập, Trường Quốc Gia Âm Nhạc ở đường Phạm Đăng Hưng Đakao.
Năm 1958, khi tôi vào học, Trường đã dời về 112 đường Nguyễn Du. Nhạc
sinh gia tăng hằng năm và cần một Hội Trường có sân khấu để nhạc sinh
thực tập, thi cuối năm, thi ra trường hay các nhạc sĩ ngoại quốc đến
trình diễn, nên cần một địa điểm rộng lớn hơn. Lúc bấy giờ, nhà trường
có 2 ban nhạc:
Lời ca hay ca từ chiếm một vị trí rất quan trọng trong một bản nhạc, nhất là đối với các sáng tác của các nhạc sỹ thế hệ trước, những người chú trọng trau chuốt phần lời. Một bài hát thành công, ngoài phần giai điệu đẹp thì lời ca phải biểu cảm và truyền tải một thông điệp có ý nghĩa. Chính nhờ vậy mà những tác phẩm nhạc xưa mới sống mãi với thời gian: ‘Cô láng giềng’ của Hoàng Quý hay ‘Bến xuân’ của Văn Cao – Phạm Duy rồi ra đời vào thập niên 1940 của thế kỷ trước nhưng đến nay chúng ta vẫn còn thấy người mộ điệu ngân nga.
Trong góc nhìn không mang tính nhạc thuật cao của một người yêu nhạc, DòngNhạcXưa nhận thấy lời nhạc được hình thành bằng những cách sau đây: (1) nhà nhạc sỹ tự sáng tạo ra lời nhạc, (2) nhạc sỹ phổ theo một bài thơ, (3) nhạc sỹ dựa theo một câu chuyện lịch sử và (4) nhạc sỹ viết nhạc và một người khác đặt lời.
Nào chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đôi nét về những hình thức này.
Nhạc sỹ hoàn toàn sáng tạo lời nhạc
Có thể xuất phát từ một câu chuyện rất riêng tư của chính bản thân hoặc có thể hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng của một nghệ sỹ, nhà nhạc sỹ sẽ thổi lời ca vào khuôn nhạc. Đây là hình thức phổ biến nhất trong việc đặt lời ca cho những bản nhạc xưa.
Có thể lấy đơn cử một ví dụ là bản ‘Mùa thu trong mưa’ của nhạc sỹ Trường Sa. Theo tâm sự của chính nhạc sỹ khi ấy còn là hạm phó tàu tuần duyên mang tên Trường Sa thì trong một chiều dừng chân ở bến Mỹ Tho, một cơn mưa ập đến và khi cơn mưa chưa dứt, đường phố chưa lên đèn thì ông đã sáng tác xong nhạc phẩm này.
Nhạc sỹ đặt lời theo một bài thơ
Phổ theo một bài thơ để hình thành phần lời ca rất phổ biến trong nền nhạc xưa. Chúng ta có thể kể ra ‘Ngậm ngùi’ được Phạm Duy phổ từ bài thơ cùng tên của Huy Cận hay gần đây hơn là ‘Phượng hồng’ được nhạc sỹ Vũ Hoàng lấy cảm hứng hứng từ bài thơ ‘Chút tình đầu’ của Đỗ Trung Quân.
Có không ít trường hợp các nhạc sỹ lấy cảm hứng từ một sự kiện hay một nhân vật lịch sử để làm nên ca khúc. Đơn cử là bản ‘Hận Đồ Bàn’ của nhạc sỹ Xuân Tiên. Ông đã mượn câu chuyện mất nước của Vương Quốc Chiêm Thành xưa để viết nên một ca khúc đầy ai oán cho một phần lịch sử của dân tộc Chăm
Nhạc sỹ chỉ viết nhạc còn lời ca do một người khác viết