Nguyễn Vũ & Bài thánh ca buồn: nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn

Cứ mỗi độ Giáng Sinh về, giai điệu quen thuộc của bản ‘Bài thánh ca buồn’ của Nguyễn Vũ lại vang lên qua giọng ca rất có chiều sâu của Elvis Phương. Và cứ mỗi lần nghe ‘Bài thánh ca buồn’ thì chúng tôi lại thắc mắc tại sao ‘bài thánh ca’ mà lại ‘buồn’!? Bởi lẽ, đã là Thánh ca thì không có bài nào buồn cả vì đó là những lời ca đem lại nhiều hồng ân Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại, nhất là những bài Thánh ca mùa Noel. Thế rồi DongNhacXua.com chúng tôi hân hạnh được nghe tâm sự của chính tác giả, nhạc sỹ Nguyễn Vũ, trong một dịp ‘trà dư tửu hậu’ vào mùa Giáng Sinh năm 2004 khi ông trải lòng mình với chuyên mục Văn Nghệ của báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh. Thì ra, ‘bài thánh ca’ mà Nguyễn Vũ nói đến chính là bản ‘Đêm Thánh Vô Cùng’ bất hủ và ‘buồn’ là vì ‘Đêm Thánh Vô Cùng’ gắn với một kỷ niệm buồn và đẹp của tác giả với người bạn gái đầu đời!

Nhạc sỹ Nguyễn Vũ.

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ NGUYỄN VŨ
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh. Ông sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời niên thiếu ông sống ở Đà Lạt. Chú ruột dạy vĩ cầm và bạn của bố ông cũng là nhạc sĩ, vì thế từ nhỏ Nguyễn Vũ đã hát cho Ban thiếu nhi Đài Phát thanh Đà Lạt. Năm 12 tuổi, cậu bé Khanh nhận được giải nhất đơn ca thiếu nhi của đài là một cây đàn mandolin – như là một định mệnh – cậu bé đã gắn bó với âm nhạc suốt gần nửa thế kỷ và trở thành nhạc sĩ Nguyễn Vũ sau này.

TÂM SỰ CỦA NHẠC SỸ NGUYỄN VŨ VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ‘BÀI THÁNH CA BUỒN’
“Thuở ấy tôi là một cậu bé 14 tuổi, ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con gà (Đà Lạt), sở dĩ tôi “chịu khó” đi lễ bởi vì phát hiện ra một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc xõa vai mềm bềnh bồng trong gió cao nguyên. Ngày lại qua ngày suốt hơn ba tháng trời tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” cô ấy, kẻ trước người sau đi về mỗi bận trên 3 km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi không dám thốt. “Lòng thành” của tôi chỉ được hưởng một “ân huệ” cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi…

Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng sinh, tan lễ ra thì trời đổ mưa, “đối tượng” của tôi nép vội vào mái hiên trú mưa, tôi cũng… trú tạm bên cạnh, hai người chỉ cách nhau độ một gang tay. Hòa lẫn trong tiếng mưa là giai điệu quen thuộc của bản Thánh ca Đêm Thánh vô cùng (Silent night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy: Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời, se chữ đồng, đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ…. Th. đưa tay hứng lấy những giọt nước mưa và khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát Th. sao mà buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy hết… sợ quê, khẽ đưa tay vuốt nhẹ lên… những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo ấm của Th., bất chợt Th. quay sang tôi nhoẻn miệng cười: “Cảm ơn nghen!”. Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ như “một nửa hồn tôi mất”.

Ba ngày sau gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống, thế là hết. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó mỗi khi chợt nghe bài Thánh ca Đêm Thánh vô cùng lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của “người ấy”. Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại Đêm Thánh vô cùng từ chiếc máy đĩa bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi”.

LỜI BÀI HÁT (SÁNG TÁC 1972, HÃNG ĐĨA SƠN CA GHI ÂM LẦN ĐẦU TIÊN)
Bài thánh ca đó còn nhớ không em
Noel năm nào chúng mình có nhau
Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt
Áo trắng em bay như cánh thiên thần
Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân

Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang
Xin cho đôi mình suốt đời có nhau
Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa
Khẽ hát theo câu đêm thánh vô cùng
Ôi giọng hát em mênh mang buồn…

Rồi mùa giá buốt cũng qua mau
Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu
Rồi một chiều áo trắng thay màu
Em qua cầu xác pháo bay sau

Lời nguyện mình Chúa có nghe không
Sao bây giờ mình hoài xa vắng
Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
 Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu

Rồi những đêm thánh đường đón Noel
Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu
Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn
Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi …

[footer]

Nguyễn Trung Cang & Còn yêu em mãi: khúc tương phùng chỉ mãi là giấc mơ!

Như đã nói trong bài viết về nhạc phẩm ‘Bâng khuâng chiều nội trú‘, những năm tháng cuối cùng trong cuộc đời vắn số của nhạc sỹ Nguyễn Trung Cang là những năm tháng nhà nhạc sỹ sống trong nghèo đói, bệnh tật. Chúng tôi còn được biết thêm thời gian này ông phải sống trong một trại cải tạo ở một vùng rừng núi hẻo lánh. Dường như đã tiên đoán được sức khỏe của mình, đã linh cảm rất có thể không còn cơ hội gặp lại người vợ yêu thương nên Nguyễn Trung Cang đã trút hết nỗi lòng qua ‘chiếc lá cuối cùng’ – nhạc phẩm ‘Còn yêu em mãi’. Đó chính là lời yêu thương nồng nàn nhất và cũng là lời tạ lỗi chân thành nhất gởi đến người bạn đời!

Nguyễn Trung Cang (thứ 4 từ trái sang) trong ban nhạc Phượng Hoàng. Ngoài cùng bên trái là Lê Hựu Hà, thứ 3 là Elvis Phương.

NIỀM HY VỌNG TRONG TẬN CÙNG NỖI TUYỆT VỌNG
Rất nhiều người yêu nhạc cho rằng nhạc của Nguyễn Trung Cang (hoặc viết chung với Lê Hựu Hà trong ban nhạc Phượng Hoàng) là những nét nhạc và lời ca của sự bi quan. Riêng chúng tôi cho rằng như thế là hơi phiến diện: sự bi quan không phải là không có nhưng sâu thẳm bên trong nhạc của Nguyễn Trung Cang là một sự lạc quan mà ‘Còn yêu em mãi’ là một minh chứng.

Giữa chốn rừng sâu heo quạnh, nhà nhạc sỹ vẫn còn ‘biên đầy trang thư’ gởi về cho vợ những tình cảm ‘ấm nồng của thuở nào’. Ngay cả khi sức khỏe đã suy kiệt, con ‘phượng hoàng’ của một thời vẫn có thể ‘dệt lời ca ân tình’ thì quả là nếu không có trái tim lạc quan thì khó lòng nhà nhạc sỹ của chúng ta sáng tác được những lời ca đẹp như thế.

Giai điệu của ‘Còn yêu em mãi’ không quá vui tươi nhưng cũng đủ để cho người nghe thấy được khát khao về một ngày ‘tương phùng’ của Nguyễn Trung Cang mãnh liệt như thế nào. Thế nhưng cuộc đời không là một giấc mơ màu hồng: giấc mơ tương phùng của nhạc sỹ Nguyễn Trung Cang mãi mãi không thành khi ông ra đi mà chưa có giây phút ‘tương phùng’ để nghe người thân ‘khóc cho niềm vui vì hạnh phúc!

DongNhacXua.com mong bài viết này như một lời tri ân mong linh hồn ông mau về miền ‘hạnh phúc tuyệt vời’!

LỜI BÀI HÁT ‘CÒN YÊU EM MÃI’
Yêu anh như thưở nào
Tình yêu còn biên đầy trang giấy
Yêu anh như thưở nào
Tình yêu còn đong đầy trang sách
Dù biết trái tim đã già
Mà những thiết tha chẳng nhòa
Tình cũ vẫn nghe ấm nồng
Gọi tên nhau lúc cô đơn
Để nghe sưởi ấm tâm hồn.

Em ơi đây tiếng đàn
Lời ca dệt ân tình năm tháng
Câu ca hay khúc nhạc
Tình yêu còn đong đầy khao khát
Dù có cách xa mỏi mòn
Mà những dấu yêu mãi còn
Sưởi ấm xác thân héo gầy
Tình yêu như gió đem mây
Gọi mưa giăng kín khung trời.

Này em hỡi, ta mơ ngày sẽ tới, khi tương phùng, em khóc cho niềm vui vì hạnh phúc.
Ngọt hay đắng, trong cuộc đời mưa nắng, ta luôn cười trong giấc mơ hạnh phúc xưa tuyệt vời.

Riêng ta nơi núi rừng
Về đêm càng nghe hồn băng giá
Câu ca hay khúc nhạc
Càng thêm sầu cho tình tan nát
Dù biết cách xa với đời
Dù biết thủy chung chẳng rời
Mà vẫn xót xa tháng ngày
Chờ ta chi nữa em ơi
Còn đâu giây phút tuyệt vời./.

Bâng khuâng chiều nội trú: 30 năm từ thơ đến nhạc

Mặc dù đã hơn 15 năm nhưng chúng tôi vẫn không thể nào quên được cái cảm giác lần đầu tiên được nghe bản “Bâng khuâng chiều nội trú” trong một chiều mưa buồn ở ký túc xá Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức cuối năm 1995. Qua màn mưa, trong nỗi nhớ nhà và trong nỗi nhớ cô bạn sinh viên cũng ở ký túc xá, tiếng hát truyền cảm của Tuấn Ngọc càng làm nhạc phẩm này da diết hơn.

Mãi sau này chúng tôi mới biết được nhạc phẩm này là của nhạc sỹ Nguyễn Trung Cang sáng tác vào năm 1981, lấy cảm hứng từ hai bài thơ của một nữ sinh viên trường Tư Pháp TPHCM (Đại học Luật sau này). Nhạc phẩm này phổ biến ở hải ngoại rồi sau đó mới trở lại Việt Nam và nổi tiếng hơn 30 năm qua.

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ NGUYỄN TRUNG CANG
Trong khi chúng ta biết khá rõ về nhạc sỹ Lê Hựu Hà thì chúng ta lại có rất thông tin về tiểu sử của nhạc sỹ Nguyễn Trung Cang, người bạn thân và cũng là người đã cùng Lê Hựu Hà lập ra ban nhạc trẻ Phượng Hoàng nổi tiếng một thời trước năm 1975. Có thể nói không ngoa rằng, cùng với Lê Hựu Hà, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Kỳ, Jo Marcel, nhạc sỹ Nguyễn Trung Cang đã có công khai sáng phong trào nhạc trẻ Việt Nam.

Về năm sinh và năm mất của ông, chúng tôi chưa có một nguồn tham khảo đáng tin cậy. Theo những gì chúng tôi được biết thì ông sinh năm 1947 và mất năm 1985, hưởng dương chưa đầy 40 năm! Xung quanh cái chết của ông cũng có nhiều giai thoại. Tuy nhiên có một điều chắc chắn đúng là ông đã chết trong nghèo khó và bệnh tật như lời chính mẹ ruột của ông nghẹn ngào tâm sự trong một chương trình video của trung tâm Asia.

ĐÔI NÉT VỀ HAI BÀI THƠ ĐÃ LÀM NIỀM CẢM HỨNG CHO NHẠC SỸ NGUYỄN TRUNG CANG
(Theo một bài báo của tác giả Nguyễn Minh trên báo Tuổi Trẻ)

Tác giả hai bài thơ, chị Hoài Mỹ (ảnh chụp năm 1981)

Câu chuyện bắt đầu từ hai bài thơ được một cô nữ sinh Trường Tư pháp Tp.HCM (nay là Đại học Luật Tp.HCM) viết trong một buổi chiều mưa tầm tã năm 1981. Bạn trai của cô gái ấy là bạn thân của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang. Mối quan hệ “bắc cầu” ấy dẫn đến sự ra đời của bài hát Bâng khuâng chiều nội trú. Bài hát này được phổ biến ở hải ngoại từ trước rồi mới “dội” lại trong nước nên nhiều người vẫn tưởng đây là một ca khúc ra đời trước năm 1975 ở miền Nam chứ không biết rằng nó ra đời vào năm 1981.

Người đã viết ra hai bài thơ Bâng khuâng chiều nội trú (được NS Nguyễn Trung Cang lấy làm cảm hứng soạn ra phần đầu bài hát này) và Mưa (được đưa vào đoạn B trong cấu trúc A-B của bài Bâng khuâng chiều nội trú) là chị Hoài Mỹ, một “thi sĩ nghiệp dư” như cách gọi đùa của bạn bè chị. Nhiều năm trôi qua từ ngày bài thơ và bài hát ấy ra đời và chị gần như quên bẵng câu chuyện chiều mưa ký túc xá ấy thì đến một ngày, khi ấy Hoài Mỹ đang làm việc ở Long Xuyên (An Giang) chị nghe được bài hát này trong quán cà phê, qua giọng hát Tuấn Ngọc và chị mới nhớ lại là sau khi 2 bài thơ ra đời, anh Phương Thái (khi đó là người yêu sau này là ông xã của chị) đã đưa cho nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang xem, và nhạc sĩ đã thích thú phổ nhạc hai bài thơ này và Hoài Mỹ còn nhớ là chị đã được xem bản thảo gốc với chính nét bút của Nguyễn Trung Cang. Nhưng ở thời điểm ấy, những bài như Bâng khuâng chiều nội trú không thể có chỗ trên sân khấu ca nhạc do tính (dễ bị quy là) tiểu tư sản của nó. Dù rằng, lời thơ ban đầu khác khá xa với bài hát sau này.

Lời thơ (trích theo trí nhớ của chị Hoài Mỹ)

Bâng khuâng chiều nội trú

Chiều nội trú bâng khuâng
Trong đôi mắt anh học viên tư pháp
Tôi bắt gặp cái nhìn
Dù tôi đi gần
Dù tôi đi xa
Cái nhìn ấy suốt đời tôi nhớ
Ôi! Cái nhìn thân thuộc quá
Một cái nhìn làm tôi lớn khôn lên

Mưa

Mưa đầu mùa hạt nhỏ long lanh
Mưa tí tách giọt dài giọt vắn
Mưa hỡi mưa ơi có bao giờ nhớ nắng
Sao em buồn lại nhớ thương anh

Mưa tình đầu nghe rất mong manh
Mưa quấn quýt thì thầm trên ngói
Anh có nghe mưa tường chăng lời em nói
Rất nồng nàn tha thiết yêu anh

Như tiếng hát anh xưa
Tiếng hát êm đềm
Như mưa hôm nay
Mưa âm thầm gợi nhớ
Như em yêu anh em buồn vô cớ
Như anh rất gần mà anh rất xa

Chị Hoài Mỹ cũng tiết lộ là bài thơ Bâng khuâng chiều nội trú có một nhân vật chính khác ngoài chị. Đó là một anh bạn cùng trường, học trước chị một khóa. Một chiều mưa đến chơi phòng chị trong khu nội trú. Và ánh mắt của anh, cái nhìn của “anh học viên tư pháp” cùng cơn mưa rả rích bên ngoài đã khiến chị tức cảnh sinh… thơ. Bài thơ ra đời như thế. Còn bài Mưa là một trạng thái cảm xúc khác, một bài thơ dành cho người yêu. Anh bạn tư pháp ngày nào, tên là Chánh, giờ đang công tác tại Tòa dân sự Tòa án Nhân dân Tp.HCM, còn chị Hoài Mỹ giờ không làm trong ngành tư pháp nữa. Mỗi lần nghe lại bài hát này, chị thấy nhớ lại một thời đi học, nhớ lại tình bạn giữa chị và anh Thái với nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang. Chị cũng không quan tâm lắm đến chuyện tên mình có được gắn với bài hát hay không. Đó là một kỷ niệm đẹp với thời đi học, với những người bạn, với anh Nguyễn Trung Cang. Và bài hát này, giúp chị gìn giữ được những kỷ niệm ấy.

Lời bài hát Bâng Khuâng Chiều Nội Trú

Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai ngày nào tao ngộ
Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai vời vợi tha thiết
Ánh mắt thật gần mà cũng thật xa
Ôi yêu thương quá ánh mắt êm đềm
Mong tình yêu cho hồn trở lớn khôn thêm

Là một thoáng mây bay trong đôi mắt ai một ngày nắng đẹp
Là một thoáng giăng mây trong đôi mắt ai một ngày u ám
Ánh mắt mơ hồ phủ kín hồn tôi
Nghe sao chới với có thế quên người
Mưa chiều nay cho hồn tôi luống bâng khuâng

Mưa đầu mùa hạt nhỏ long lanh
Mưa quấn quít giọt dài giọt vắn
Mưa hỡi mưa ơi có bao giờ nhớ nắng
Sao ta buồn lại nhớ thương nhau

Mưa tình đầu nghe rất mong manh
Mưa tí tách thì thầm trên ngói
Em có nghe mưa tưởng chăng lời anh nói
Rất nồng nàn ngọt tiếng: YÊU EM

[footer]

Thà Như Giọt Mưa & ‘người tên Duyên’: từ thơ đến nhạc

Hầu hết những người yêu nhạc như chúng ta biết nhạc phẩm ‘Thà Như Giọt Mưa’ của nhạc sỹ Phạm Duy là phổ từ thơ ‘Khúc Tình Buồn’ của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thế nhưng có đọc bài thơ và nghe nhạc thì mới thấy lời bài hát có nhiều điểm khác với bài thơ.
Ví dụ: trong bài hát chúng ta nghe ‘Người từ trăm năm về ngang trường Luật’ hay’Ta hỏng tú tài, ta hụt tình yêu’. Những ý này hoàn toàn không có trong bài thơ ‘Khúc Tình Buồn’.
Một ví dụ khác là trong đoạn kết của bài hát có nhắc đến một người con gái tên Duyên thế nhưng trong bài thơ hoàn toàn không có chi tiết này.

Mang những thắc mắc đó, DongNhacXua.com đã tìm hiểu và phát hiện ra vài điều thú vị về ‘người tên Duyên’ và chuyện nhạc sỹ Phạm Duy có lẽ đã lấy cảm hứng không chỉ từ ‘Khúc tình buồn’ mà còn cả từ bài thơ khác của Nguyễn Tất Nhiên là ‘Duyên tình con gái Bắc’

Tờ nhạc 'Thà như giọt mưa' xuất bản trước 1975 với chân dung của cố ca nhạc sỹ Duy Quang. Ảnh: GocQue.com
Tờ nhạc ‘Thà như giọt mưa’ xuất bản trước 1975 với chân dung của cố ca nhạc sỹ Duy Quang. Ảnh: GocQue.com

NGƯỜI CON GÁI TÊN DUYÊN
Theo một thông tin trên mạng mà chúng tôi chưa có dịp kiểm chứng thì Duyên là một cô gái gốc Bắc, học chung lớp với nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (tham khảo http://mt9011.multiply.com/journal/item/23/23):

Bài thơ “Khúc Tình Buồn” không nhắc tới tên Duyên như trong nhạc phẩm “Thà Như Giọt Mưa” của Phạm Duy. Cô gái tên Duyên này là một nhân vật có thật và học chung lớp với nhà thơ tại trường trung học Ngô Quyền thành phố Biên Hòa, và tình cảm của ông đối với cô chính là nguồn cảm hứng khiến ông liên tục sáng tác những bài thơ nổi tiếng một thời chỉ để riêng tặng cho cô. Tuổi trẻ thời ấy thích thú với những dỗi hờn rất con nít của tác giả bài thơ khi mong cho người con gái tên Duyên sẽ đau khổ muôn niên, sẽ đau khổ trăm năm…lời lẽ như là chính cô gái đã phụ tình tác giả.

Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào nay sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Cô nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò áo trắng:

“Tụi này học chung với nhau từ năm đệ tứ. Trường đó là trường nam-nữ học chung. Đến khi học sinh đông quá thì họ phân lớp ra, trong đó có một lớp đệ tứ “mix” giữa con trai với con gái. Sau đó tôi lên học ban B thì tôi học luôn đến lớp đệ nhất, học chung với tụi con trai, trong lớp chỉ có vài cô con gái thôi. Tụi này biết nhau từ hồi nhỏ, lúc đó cũng ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản chính. Một bản của Nhiên, một bản cho tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành quyển thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không, nhưng thật ra là chẳng có gì hết, tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ.”

Thật ra chính cái tên Duyên mới làm bài thơ nổi tiếng. Trong tập thơ Thiên Tai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó.

“Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu là mình làm bạn thôi, nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn như tôi.Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm.”

BÀI THƠ ‘KHÚC TÌNH BUỒN’
(Tham khảo http://www.thica.net/2008/02/21/khuc-tinh-buồn/)

(1)
Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

(2)
Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng

(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)
(1970)

BÀI THƠ ‘DUYÊN TÌNH CON GÁI BẮC’
(Tham khảo http://www.thica.net/2008/02/21/duyen-tinh-con-gai-bắc/)

Ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa
Thương lại bóng hình người năm năm trước…

Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt!

Ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết
Nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
Nên yêu đương bằng khuôn mặt khờ khờ
Nên hùng hổ để đợi giờ thua thiệt!

Nghe nói em vừa thi rớt Luật
Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời
Mắt công nương thầm khép mộng chân trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!

(Dù thật sự cũng đáng đời em lắm
Rớt đi Duyên, rớt để thương người!)
Ta – thằng ôm hận tú tài đôi
Không biết tìm ai mà kể lể

Chim lớn thôi đành cam rớt lệ
Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh!
Nếu vì em mà ta phải điên tình
Cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
Tay tre khô mối mọt ăn luồn
Dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
Khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!

Em chẳng bao giờ rung động cũ
Ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu
Nên trở về như một con sâu
Lê chân mỏng qua những tàn cây rậm

Nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm
Lá xanh em chưa dấu lở loang nào
Ðể ta còn thi sĩ nhất loài sâu
Nhìn lá nõn, tiếc, thèm… đâu dám cắn!

Nếu vì em mà thiên tài chán sống
Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời!

[footer]

Đôi mắt người Sơn Tây: từ thơ đến nhạc

Nhạc phẩm ‘Đôi mắt người Sơn Tây’ với giai điệu chậm buồn đầy bi tráng và ca từ đầy chất thơ có lẽ không mấy xa lạ với nhiều người yêu nhạc xưa. Thế nhưng Sơn Tây ở đâu và nguồn cảm hứng nào khiến nhạc sỹ Phạm Đình Chương cho ra đời nhạc  phẩm bất hủ này là điều mà có khi chúng ta ít được biết.

VỀ ĐỊA DANH SƠN TÂY (Tham khảo wikipedia)

Địa danh Sơn Tây ngày nay không còn nữa. Thế nhưng, theo những gì mà wikipedia cung cấp thì có thể tạm hiểu Sơn Tây ngày xưa là một phần của Hà Nội ngày nay.

Sơn Tây là một tỉnh cũ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam.

Sơn Tây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ (năm 1831), dưới thời vua Minh Mạng), gồm phần lớn địa bàn các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, phía bắc tỉnh Phú Thọ, một phần tỉnh Tuyên Quang và thành phố Hà Nội ngày nay. Vốn trước đó là trấn Sơn Tây, tục gọi là trấn Tây hay trấn Đoài (Đoài nghĩa là Tây).

Tỉnh lị: thị xã Sơn Tây. Tỉnh Sơn Tây thường được gọi là xứ Đoài

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

Nhạc sỹ Phạm Đình Chương (1929-1991) sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống văn nghệ ở Hà Nội. Những năm cuối đệ nhị thế chiến, để tránh khói lửa chiến tranh nhiều học sinh đã theo gia đình rời Hà Nội về sống tại các vùng quê. Quê ngoại Sơn Tây của Phạm Đình Chương với ngọn núi Ba Vì nhìn xuống cánh đồng Bương Cấn, với sông Đáy “chậm nguồn qua Phủ Quốc” đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng chàng thiếu niên Phạm Đình Chương. Để rồi sau đó, trong những năm tháng tha hương ở đất Sài Gòn, trong một niềm thương nhớ vô hạn về một vùng quê thanh bình, về những ngày tháng êm đềm đã qua, nhạc sỹ đã rung cảm trước 2 bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” và “Đôi bờ” của nhà thơ Quang Dũng để cho ra đời một trong những nhạc phẩm đẹp và bi tráng nhất về tình cố hương.

Nha Trang Ngày Về: dã tràng ơi sao lấp cho vơi sầu này!?

Sinh ra và lớn lên ở một miền biển gần Nha Trang nên chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn với thành phố này. Từ lúc biết nghêu ngao bản ‘Nha Trang Ngày Về’ của nhạc sỹ Phạm Duy, dường như những lần đến và đi Nha Trang mang lại cho chúng tôi nhiều cảm xúc hơn!

 

Xin hân hạnh chia sẻ với bạn yêu nhạc một bài viết khá hay về ‘Nha Trang Ngày Về’ trên trang iloveNgocLan.com. Nhân đây cũng xin nói thêm một chi tiết thú vị là ca sỹ quá cố Ngọc Lan là một đứa con của thành phố biển Nha Trang.

Nguồn: http://ilovengoclan.com/?p=3533

Phi trường Cam Ranh hiện ra hanh hao trong một màu ánh bạc. Tìm lại biển trời Nha Trang, nước mắt tôi buồn vui chợt trào.

Tôi yêu Nha Trang, luôn tìm về Nha Trang mỗi khi có thể, cũng chỉ vì từ lâu, tôi đã quá mê bài hát “Nha Trang ngày về” của NS Phạm Duy – một câu chuyện tình buồn dang dỡ. Thành phố này tự bao giờ, đã ngấm vào máu thịt tôi như là quê hương ruột thịt. Nơi đó, đã ghi dấu một mối tình tan vỡ. Nơi đó, tôi có người bạn “bản xứ” hồn hậu mến khách. Và cũng từ nơi đó, một tiếng hát thần sầu mà tôi luôn mang theo bên mình trong những chuyến đi xa, đã cất tiếng khóc chào đời. Và tiếng hát ấy khi hát về biển thì đã rất buồn rồi, nhưng mà đến khi nghe cô gửi sầu qua “Nha Trang ngày về” thì thấy càng buồn hơn, như cùng cảm nhận với cô về một cuộc tình bất thành gắn liền vùng biển trời Nha Trang với bao nỗi buồn cô quạnh.

“Nha Trang ngày về. “

Chiều qua phố. Con đường Trần Phú nhộn nhịp mừng rỡ gặp lại dấu chân người quen. Cây thông bên phố năm xưa nay đã già. Đằng xa kia, những tảng đá lớn nhỏ đủ hình hài bình thản nằm trên thảm cỏ mượt mà. Phiến đá có hình mái vòm em tựa vai làm dáng vẫn nằm đây yêu kiều. Lúc sáng, trên chuyến bay, giở đến tập ảnh mới thấy đã có nhiều nơi mình đến, mình đi, nhưng sao ảnh của tụi mình chụp chung ít quá, chỉ đếm trên đầu ngón tay thôi. Mà tấm nào cũng tối tăm như đất. Thế mới lạ chứ. Quán café GMC tiếng nhạc xập xình nhộn nhịp bao nam thanh nữ tú. Phía trước là Hòn Chồng bạc màu nằm chơ vơ giữa thâm sâu bí hiểm. Nhà Thờ Núi vẫn nằm uy nghi giữa lòng phố. Phía bên kia, quán hải sản bình dân đường Ngô Sỹ Liên nườm nượp khách với món gỏi cá mai chấm mắm nêm ngon đến nỗi ăn trừ cơm cũng được nữa là. Góc vỉa hè ngã tư Quang Trung là quán nem nướng thơm phức mà ai đã lỡ ghé một lần rồi thì sẽ ôm mối tương tư. Quán bún sứa Nguyên Chí Thanh nước ngọt sắc mà chổ ngồi chật chội, vừa hít hà vừa phải luôn tay thấm mồ hôi mẹ mồ hồi con nhễ nhại… Còn biết bao con đường nữa, biết bao con đường làm tôi nhớ đến em. Những con đường mình nắm tay một lần cùng nhau rong ruỗi.
“Mình tôi trên bãi kuya”

Biển đêm. Đen. Lạnh. Xa khơi là những chùm ánh sáng đèn màu lung linh của Hòn Ngọc Việt tráng lệ. Một vài vì sao lẻ loi đơn độc lơ lững trên bầu trời. Vẫn duy trì một thói quen riêng tư, tôi miệt mài đi trong biển đêm Nha Trang với chiếc Ipod trong tay, lòng bồi hồi chìm đắm trong bản nhạc phối nhanh dồn dập mở đầu bằng câu hát “Nha Trang ngày về. Mình tôi trên bãi khuya…” Tiếng hát chất chứa buồn của Ngọc Lan khiến tôi bất giác nhăn mặt đau đớn vì cả một trời tiếc nhớ hiện về đổ sụp trong tôi. Lần đó, cũng nơi đây, tôi đã kể em nghe về người ca sĩ có tên Ngọc Lan với hình ảnh bất hủ – cầm trên tay chiếc đèn dầu le lói chân bước mông lung “trên bãi đêm khóc người tình”. Và từ sau đêm đó, “Nha Trang ngày về” của Ngọc Lan đã trở thành nhạc chuông điện thoại của riêng hai tụi mình.

Đêm lặng. Đêm qua nhanh như gió lùa qua kẽ tay. Bản nhạc đã nghe đi nghe lại đến không biết bao lần. Nhạc thì buồn. Còn tôi thì cô đơn. Cảm giác như cái gì đó vừa rơi trong bóng tối trái tim tôi. Một tiếng vỡ như thủy tinh. Tôi nghe đau trong tim mình. Đã lâu rồi, tôi không đau như thế này. Cái đau dịu ngọt… . Tôi mãi miết đi trong biển đêm dưới ánh trăng võ vàng, nhặt tìm những mảnh kí ức chắp nối. Tiếng mời chào ân cần của chị bán hàng rong. Tiếng rì rầm của những đôi tình nhân ngồi tâm sự trên bãi khuya. Giờ đây chỉ còn mình tôi tìm về chốn xưa để “xây lại mộng mơ năm nào”

Đừng mộng mơ nữa, tôi ơi! Cũng năm xưa nơi biển này, tôi đã nguyện cùng em tìm về đây xây tổ ấm mai sau. Cật lực làm việc và dành dụm. Một bức tranh tình yêu được phát hoạ với đầy đủ cung bậc sắc màu của bình yên, hạnh phúc và cả chênh vênh… Nào ngờ bức tranh “lầu vàng” ấy giờ đã thành “bãi hoang”… Em hỏi tôi “vì sao lại chọn nơi đây sinh sống, thành phố mình cũng có biển đẹp ngút ngàn đấy thôi?” Tôi cười thầm giữ bí mật đó cho riêng mình “tại vì biển quê mình tuy đẹp thật, nhưng lại không có nổi một bài hát nào hay và một chuyện tình nào buồn đến như vậy” .

Giờ mình đã xa nhau. Trong tôi là vực thẳm toang hoác. Tôi đã cố sống sót. Đã cố chấp nhận “Ân tình trong lúc đôi mươi. Bao giờ cũng vẫn mau phai” dù trái tim chật chội đau đớn, dù đã “cố nuôi tình tôi” bằng trái tim em lạnh lẽo. Trái tim của tuổi đôi mươi…

Bài hát lặp lại lần nữa, như một lời kinh đêm. Kinh nguyện cầu, cho tâm hồn được bình yên, cho tình yêu đã bị sóng vùi chôn theo dấu dã tràng. Ngày mai, xa Nha Trang rồi. Biết có còn gặp lại. Những kỷ niệm ghi dấu, những mộng mơ năm nào đã khắc chạm trong tâm khảm rồi cũng đành xếp lại trả về ngăn kéo của quá khứ thôi.

Nhưng trời biển ơi! Sầu này, liệu dã tràng có lấp nỗi không?

Xêko

[footer]

 

Pleiku: còn chút gì để nhớ!

Trong ký ức của Dòng Nhạc Xưa, những người sinh sau 1975, qua lời kể của ba mẹ kể về những năm tháng sống ở Pleiku thì Pleiku là thành phố của chiến tranh với căn cứ quân sự, khu gia binh và đủ mọi thành phần lính tráng. Rồi khi chúng tôi lớn lên, các anh chị hát cho nghe giai điệu và ca từ bất hủ của bản ‘Còn chút gì để nhớ’ của nhạc sỹ Phạm Duy để mãi sau này mới biết là  phổ thơ Vũ Hữu Định.

con-chut-gi-de-nho--1-goc-hoc-tro--dongnhacxua.com

con-chut-gi-de-nho--2-goc-hoc-tro--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ VŨ HỮU ĐỊNH
(Nguồn Wikipedia)

Vũ Hữu Định.

Vũ Hữu Định (1942-1981), tên thật Lê Quang Trung. Tên tuổi của ông gắn liền với bài thơ Còn chút gì để nhớ, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc cùng tên.
Lê Quang Trung sinh năm 1942 tại Thừa Thiên – Huế trong 1 gia đình nghèo. Ông từng sống qua nhiều nơi ở Tây Nguyên, Sài Gòn, lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng. Ông làm thơ đăng báo từ khoảng thập niên 1960, với bút danh Hàn Phong Lệ, về sau đổi thành Vũ Hữu Định. Tên Vũ Hữu Định bắt đầu phổ biến từ khi bài thơ Còn chút gì để nhớ của ông được Phạm Duy đem phổ thành nhạc vào năm 1970.

Vũ Hữu Định vào đời sớm, lập gia đình sớm và nghèo nàn trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình. Ngoài làm thơ, ông từng làm cán bộ xây dựng nông thôn ở Đà Nẵng. Ông từng trốn quân dịch nhưng rồi bị bắt lại.

Ông được biết đến là một người mê rượu, tuy nghèo khó nhưng có máu giang hồ, tính tình phóng khoáng.

Ngày 3 tháng 4 năm 1981, sau 1 chầu nhậu với bạn bè, ông bị té cầu thang (có thông tin cho rằng bị té lầu) và qua đời, hưởng dương 40 tuổi.

BÀI VIẾT CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN VỀ NGUYỄN HỮU ĐỊNH VÀ BÀI THƠ ‘CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ’
(Nguồn: XuQuang.com)

Rất nhiều người yêu bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, vì được nghe qua nhạc Phạm Duy. Nghe rồi mới đọc.
Nhiều khi cũng không phải là đọc nữa. Người ta nghe và thuộc lời ca của bản nhạc, từ đó nhớ lại rồi khám phá ra cái hay của bài thơ, cái hay của từng chữ trong bài thơ.

Trước khi có bài thơ của Vũ Hữu Định, không biết có bao nhiêu người đã ước ao được đến Pleiku. Nhưng sau khi bài thơ được phổ nhạc và hát lên, số người muốn được đặt chân, được nhìn thấy tận mắt cái phố núi ấy, không thua gì số người muốn nhìn thấy Thôn Vỹ Dạ vì đọc thơ Hàn Mặc Tử.

Có lẽ người nào đó đã nói đúng khi cho rằng, một thành phố dù đẹp đến đâu, nếu chưa được đưa vào văn thơ, âm nhạc, hội họa… cũng kể như nó chưa có linh hồn vậy.

Và một tác phẩm hiện hữu hay tồn tại được hình như cũng có những cơ duyên của nó.

Phạm Duy cho biết, ông gặp Vũ Hữu Định ở Pleiku trong một chuyến đi tìm cảm hứng cho cuộc sống của riêng ông và nhất là tìm hiểu tâm trạng những nhà thơ trẻ, đại đa số khi ấy đang đi lính hay đang trốn lính.

Phạm Duy cho biết ông đã chọn và phổ nhạc bài thơ của Vũ Hữu Định không thêm bớt một chữ nào. Ông cũng giữ nguyên vẹn cấu trúc [structure] cũng như vận tiết [prosodie] của bài thơ. Ông chỉ dùng một thanh âm có bán cung của dân ca Jarai hay Bahmar để gợi cái không khí cao nguyên và một chuyển giọng [tonalité] ở đoạn cuối để cho bài ca có thêm màu sắc.

Ca khúc Còn Một Chút Gì Để Nhớ thành công thế nào mọi người đã biết. Có thể nói, không một ca sĩ tên tuổi nào của chúng ta khi ấy lại không có lần trình bầy bài hát này.

Và, nghe rồi, người ta hẳn cũng có lúc tự hỏi, nếu không có nhạc của Phạm Duy, liệu bài thơ có thể phổ biến mau chóng và rộng rãi như vậy chăng?

Câu hỏi ấy, dù có bao nhiêu câu trả lời cũng không ích gì.

Ta có một bài thơ hay rồi lại có một bài hát hay, đó chưa đủ là một điều thích thú sao?

Thắc mắc nữa mà chi ?

Đọc bạn bè và những người quen biết kể lại cách sống, những cuộc gập gỡ của họ với Vũ Hữu Định, người ta luôn cảm thấy một nỗi vui buồn lẫn lộn, một cái gì đó hình như quá đà, làm rợn người.

Chỉ sau này, trong một bữa nhậu trên sân trời một căn gác với bạn bè, Vũ Hữu Định cầm ly rượu của mình, không biết say tới cỡ nào, bước ra khỏi hàng lan can của cái sân trời, rớt xuống đất và chết tại chỗ, người ta mới biết, hình như cái chết kinh khủng của Vũ Hữu Định đã được báo trước?

Đinh Trầm Ca hiện còn ở trong nước, đã viết về Vũ Hữu Định [trên báo Khởi Hành số 96, tháng 10, 2004] như sau :

“ Tôi chưa được lần nào diện kiến chị Vân, vợ anh. Nhưng qua Đoàn Huy Giao kể, tôi rất kính trọng chị ấy. Tôi cảm nhận chị ngang hàng với bà Tú Xương. Sanh tiền Vũ Hữu Định

chẳng làm được gì cho gia đình. Anh như một cuồng sĩ lang thang, phiêu bạt. Nghe nói chị vất vả lắm để nuôi mẹ anh, một bà mẹ đã ‘lẫn’ và tật bệnh cùng một đàn con. Ngày xưa tôi không ưa anh lắm vì những điều này. Tôi vốn khắc nghiệt. Tôi không thích những người vô trách nhiệm, thiếu bổn phận… Hai mươi năm nay, tôi lạïi giống anh lúc trước, tôi mới hiểu được và thương anh hơn! Khi tôi hiểu được thì không còn Định, để mời

một chén rượu cảm thông. Tôi không còn nghĩ anh là người ham danh, hay nhẹ nhàng hơn, có chút ưu ái hơn, như các bạn tôi rằng, anh là người say đắm thơ rượu. Tôi biết rằng những tháng năm đen tối, đời anh không nhờ thơ, rượu thì con người anh sẽ ra sao? Và cuối cùng thơ và rượu đã cứu rỗi anh.

Cũng có khi nào anh trở lại
Mai đây, mốt nọ biết đâu chừng
Và có một lời anh sẽ nói
Giữ giùm nhau một chút hồn chung
Tới đây thấy lúa vàng đang chín
Đứng lại nhìn thôn xa khói bay
Không biết nhà ai đâu nấu rượu
Thoang thoảng hương mùa đã muốn say

Anh đã mất 17 năm tròn. Nhưng anh cũng vừa trở lại với chúng ta bằng tập thơ ‘Còn Chút Gì Để Nhớ’. Trong thơ anh, tôi đã nhìn thấy rõ anh hơn những ngày tháng giang hồ lang bạt. Tôi thấy anh quằn quại khổ đau. Tôi thấy cả tấm lòng anh đầy ắp yêu thương gia đình, vợ con. Thơ anh nhân ái, cao cả mà hồn anh thì ray rứt, ngậm ngùi”. Nhân ngày giỗ đầu Vũ Hữu Định, A Khuê đã có một bài thơ khóc bạn và Trần Quang Lộc một người bạn khác của Vũ Hữu Định, đã phổ nhạc thành ca khúc Mộ Trăng.

Đêm không trăng mổ ngực chơi
Giữa tuyệt cùng
Sương hoa đỏ
Linh hồn linh hồn ơi
Mệt bước chân vu
Đi ngất ngất đi lặng lẽ trong đêm dài
Đêm không trăng
Của phố núi cao
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Có thật đã ngủ yên
Trên ngọn núi cao kia
Trong bóng tối ôi lạnh quá đôi chân trần

Độc giả, thính giả, được đọc, được nghe một bài thơ, một bài hát hay, thường thắc mắc tự hỏi, không biết những sáng tác khác của các tác gỉa ấy ra sao?

Đó cũng là điều người ta muốn biết về Vũ Hữu Định.

Trước 75 Vũ Hữu Định có nhiều thơ đăng trên báo chí ở Sài Gòn, nhưng chưa có một tập thơ nào được in thành sách.

Và cũng có thể nói rằng, ngoài bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ, khôngthấy một bài thơ nào khác của Vũ Hữu Định được độc giả nhắc nhở, truyền tụng.

Dù thế nào, chỉ căn cứ vào những bài thơ đăng báo để nói về thơ của một người, không thể tránh được thiếu sót.

Nhất là trường hợp Vũ Hữu Định.

Sau tập Còn Một Chút Gì Để Nhớ vừa được bằng hữu của ông ở trong nước góp công sức xuất bản, người ta mới được biết Vũ Hữu Định còn nhiều tập thơ khác nữa, chưa biết lúc nào mới in ra được.

Dưới đây là bài thơ Đứng Giữa Đồng Không trích trong tập Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định :

một bầy sáo nhỏ qua sông
một em tôi đã cầm lòng đi xa
như con sông nhỏ thật thà
sớm hiu hắt tạnh, chiều sa mưa nguồn
một bầy sáo đã đi luôn
một em tôi đã để buồn lại đây
con chim quyên đã lạc bầy
xuống sông vọc nước đợi ngày xế ngang
một bầy sáo nhỏ bay hoang
một em tôi đã bỏ làng đi xa
tôi ngu ngơ giữa chiều tà
em đi để lại mình ta giữa đồng

Chiều trên phá Tam Giang

Có những địa danh đã đi vào thơ nhạc và để lại những dấu ấn khó phai mờ trong lòng người yêu nhạc qua nhiều thế hệ. Hôm nay xin gởi đến quý vị một trong số đó: phá Tam Giang.

Phá Tam Giang.

Đôi nét về phá Tam Giang (có tham khảo wikipedia)
Phá Tam Giang là một phá nằm trong hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Diện tích phá Tam Giang khoảng 52km², trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc-đông đông nam từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận ba huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà tỉnh Thừa Thiên-Huế. 

Phá Tam Giang chiếm khoảng 11% diện tích đầm phá ven bờ của Việt Nam.

Độ sâu của phá này từ 2-4 m, có nơi sâu tới 7 m. Hàng năm khai thác trên vùng đầm phá hàng nghìn tấn hải sản, cá, tôm các loại. Hiện nay có kế hoạch nghiên cứu đầu tư xây dựng cầu qua Phá Tam Giang để có điều kiện phát triển kinh tế và du lịch tại vùng này.

Phá Tam Giang với cửa Thuận An và sông Hương là thủy lộ chính lên kinh thành Huế nên ngày xưa ai thượng kinh đều phải vượt phá. Tuy là đầm nhưng vì có sóng nên ca dao có câu:

Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biết như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang…

Phá Tam giang ngày xưa hai bên bờ là những đầm lầy đầy lau lách, ở đó có sào huyệt của một nhóm cướp khét tiếng vào thời kỳ bấy giờ. Cho nên thương em mà không dám vô cớ là vậy.

Sự ra đời của nhạc phẩm bất hủ ‘Chiều trên phá Tam Giang’ của Trần Thiện Thanh theo ý thơ Tô Thùy Yên

Theo lời kể của chính nhạc sỹ Trần Thiện Thanh trong một chương trình văn nghệ hát chung với Khánh Ly thì đó là vào khoảng năm 1971 – 1972, tức là khi cuộc chiến Việt Nam đang ở trong thời kỳ khốc liệt nhất mà đỉnh cao là “mùa hè đỏ lửa” 1972, nhạc sỹ Trần Thiện Thanh cùng với nhạc sỹ Phạm Duy, nhà thơ Tô Thùy Yên và vài người nữa từ Sài Gòn đi thăm những vùng tiền đồn.

Chiều hôm đó, trên chiếc trực thăng bay là là trên mặt phá Tam Giang rộng mênh mông, nhà thơ Tô Thùy Yên cùng với Trần Thiện Thanh đã nảy ra ý định sẽ làm một bài thơ hay nhạc về phá Tam Giang này. Thế là không lâu sau đó, bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” ra đời.

Xem toàn bộ bài thơ ở đây

Cũng chính vì cảm tác từ chuyến đi tưực tế mà nhạc sỹ Trần Thiện Thanh đã cho ra đời một nhạc phẩm bất hủ, vượt trên nhiều bản theo dòng nhạc đại chúng của ông.

Chiều trên phá Tam Giang (Trần Thiện Thanh - Tô Thùy Yên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Chiều trên phá Tam Giang (Trần Thiện Thanh – Tô Thùy Yên). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

chieu-tren-pha-tam-giang--1--tran-thien-thanh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com chieu-tren-pha-tam-giang--2--tran-thien-thanh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com chieu-tren-pha-tam-giang--3--tran-thien-thanh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

[footer]

Lê Hoàng Long: cả đời vẫn mãi ‘gợi giấc mơ xưa’

Nhạc sỹ Lê Hoàng Long.

Có nhiều nhạc sỹ cả đời chỉ để lại cho hậu thế vài bản nhạc, thậm chí có khi chỉ một tác phẩm, nhưng đó lại là những sáng tác để đời. Nhạc sỹ Lê Hoàng Long của chúng ta là một trong số đó.

TIỂU SỬ (có trích dẫn từ wikipedia)
Lê Hoàng Long sinh năm 1930 tại Sơn Tây.

Ông từng học violon với thầy Lã Hữu Quỳnh rồi với thầy Lương Ngọc Châu và cũng học hòa âm với giáo sư Tạ Phước.

Từ năm 1950, Lê Hoàng Long học tại Trường âm nhạc Việt Bắc ở Tuyên Quang do nhạc sĩ Văn Cao làm hiệu trưởng, nhạc sĩ Tô Vũ là giáo sư hòa âm.

Năm 1954 Lê Hoàng Long vào định cư tại Sài Gòn, sau đó chuyển về Huế. Ở Huế được hai năm ông lại quay lại tiếp tục sống ở Sài Gòn.

Nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa được ông viết tại Sài Gòn năm 1955 khi người yêu của ông đi lấy chồng. Gia đình cô không đồng ý với tình yêu của hai người vì ông chỉ là một nhạc công violon.

“Ngày mai lênh đênh trên sông Hương
Theo gió mơ hồ hồn về đâu
Sóng sầu dâng theo bao năm tháng
Ngóng về đường lối cũ tìm em…

Anh ơi, đời đã lỡ hẹn thề thì đâu có ngày về
Xa anh đời em tắt nụ cười héo hắt đôi làn môi
Đêm đêm đèn le lói một mình ngồi ôm giấc mộng tình
Kiếp sau đôi tim hòa chào đón ánh bình minh. “

Gợi giấc mơ xưa trở thành một nhạc phẩm nổi tiếng và được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày. Lê Hoàng Long cũng là người có nhiều bài viết, tiểu sử về các nhạc sĩ Việt Nam.

ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ‘GỢI GIẤC MƠ XƯA’
(Nguồn: vnExpress.net)

“Gợi giấc mơ xưa” là bài hát có hương vị thất tình. Ông có thể hé mở đôi chút về mối tình này?

– Tôi bây giờ đã già, con cái đã trưởng thành rồi, còn người ấy cũng đã cùng con cái cháu chắt ở tận phương trời nào. Thành thử tôi chẳng ngại gì mà giấu diếm. Khi còn ở Sài Gòn năm 1954, tôi có quen và yêu một người con gái tên là Lê Thu Hiền. Tình yêu đang đẹp thì bỗng có người đến xin cưới nàng. Ngay lập tức, nàng dẫn tôi đến gặp bố mình. Gặp ông, tôi chính thức xin được làm rể, nhưng ông bảo: “Để hỏi ý kiến xem em nó thế nào đã”. Không ngờ khi tôi ra về, ông quát mắng con gái: “Nếu bằng lòng lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer thì còn gia đình. Còn nếu lấy anh chàng chỉ biết chơi violon tối ngày thì không còn cha con, dòng họ gì hết”. Và thế là thủ tục cưới của họ cứ tuần tự diễn ra. Hôm đó là một ngày chủ nhật cận tết Ất Mùi năm 1955, tôi đau đớn chứng kiến người yêu lên xe hoa. Ngồi chờ đoàn xe đưa cô dâu về nhà chồng trong một quán cà phê ở đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu), tôi thấy nàng ôm bó hoa màu trắng trong lễ phục cô dâu cùng chú rể bước lên xe. Đoàn xe chậm rãi đi qua chỗ tôi ngồi, bánh xe lăn trên đường như nghiến nát hồn tôi. Ngay lúc đó, tâm trí tôi đã hiện lên ý nhạc. Khi đoàn xe đi khuất, tôi trở về căn gác nhỏ ở đường Lý Thái Tổ và hoàn tất bài Gợi giấc mơ xưa, cả phần nhạc lẫn phần lời trong chưa đầy 10 phút.

Câu chuyện xảy ra ở Sài Gòn, tại sao bài hát lại bắt đầu bằng câu “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương…” ?

– Đang làm ở Sài Gòn nhưng tôi quyết tâm xin ra Huế, xa những con đường, góc phố để quên đi. Tuy vậy, sau hai năm sống với sông Hương, núi Ngự, tôi vẫn không sao quên được hình bóng cũ. Giã từ Huế trở lại Sài Gòn, chiều chiều tôi lại lang thang trên lối cũ như một kẻ bị tâm thần giữa Sài Gòn hoa lệ.

Rồi ông có gặp lại cố nhân không?

– Có, nhưng chỉ vô tình gặp giữa đường phố. Hai người chỉ trao đổi ít lời ngắn ngủi về cuộc sống rồi chia tay. Biết nàng đã tay bế tay bồng nên tôi không muốn gặp thêm lần nào nữa để khỏi khuấy động hạnh phúc của nàng. Tôi lập gia đình sau đó và có 6 người con. Vợ tôi mất đột ngột vào năm 1975. Đến năm 1981, tôi tục huyền và có thêm một cháu gái. Chỉ có cô con út này là có máu văn nghệ như bố, cháu hát khá hay và đã đoạt giải nhất cuộc thi hát với organ năm 1999.

[footer]

Vũ Thành An và những bài không tên

Nhắc đến nhạc sỹ Vũ Thành An, có lẽ tất cả những ai yêu nhạc đều nhớ đến khoảng 40 bài ‘không tên’. Tuy nhiên nếu có điều kiện tìm hiểu rõ hơn về nhà nhạc sỹ, chúng ta mới khám phá nhiều điều thú vị về một trong những nhạc sỹ có khuynh hướng sáng tác rất riêng nổi tiếng vào cuối những năm 1960 ở miền nam Việt Nam (cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, v.v.)

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ VŨ THÀNH AN
(Nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/Vũ_Thành_An)

Vũ Thành An sinh năm 1943 tại Hải Hậu, Nam Định.

Năm 1954 ông theo gia đình di cư vào miền Nam.

Năm 1960, ông vào học trường trung học Nguyễn Trãi, có theo học nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên, Đức Huy.

Năm 1961 ông thi hỏng Tú tài và về trường Hưng Đạo học tiếp Đệ nhị.

Năm 1963, Vũ Thành An thi đậu Tú tài toàn phần. Sau đó ông được linh mục Trần Đức Huynh, giám đốc trường Hưng Đạo cho dạy lớp Đệ thất để có tiền học Đại học.

Cuối năm 1963, Vũ Thành An vào làm phóng viên ở Đài phát thanh Sài Gòn, ở đó ông gặp nhà thơ Nguyễn Đình Toàn.

Năm 1965, ông viết Tình khúc thứ nhất, thơ Nguyễn Đình Toàn và nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay đó. Những năm tiếp theo, ông viết nhiều Bài không tên khác.

Năm 1967, Vũ Thành An nhập ngũ khóa 25 Sĩ quan dự bị Thủ Đức và 1969 ông lập gia đình.

Năm 1969, ông phát hành tập nhạc Những bài không tên. Các tác phẩm của Vũ Thành An được yêu thích ở khắp miền Nam khi đó. Người ta có thể nghe tại gần như hầu hết các quán cà phê nhạc của Sài Gòn và những thành phố lớn khác, tại các quân trường và trên các làn sóng phát thanh. Tên tuổi của Vũ Thành An cùng với Tình khúc thứ nhất, Em đến thăm anh đêm ba mươi và các Bài không tên gắn liền với giới trẻ thời bấy giờ. Vũ Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng.

Năm 1971, Vũ Thành An tốt nghiệp đại học Luật khoa Sài Gòn.

Ông tiếp tục làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn với cấp bậc sĩ quan, và trải qua nhiều chức vụ: Trưởng cơ sở dân vận Gia Định 1973, Trưởng phân khối văn hóa, Phụ tá trưởng khối chương trình, Trưởng khối chương trình và Trưởng phân khối kế hoạch hệ thống truyền thanh 1974.

Ngày 30 tháng 4 1975, Vũ Thành An là người cuối cùng rời Đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 giờ sáng. Sau đó ông bị tù cải tạo suốt mười năm dài từ 1975 đến 1985 tại miền Bắc.

Theo lời Vũ Thành An, ông bắt đầu sáng tác Thánh ca, Những Bài Nhân Bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981.

Năm 1991, Vũ Thành An rời Việt Nam và định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1996, ông ghi danh học chương trình Cao học Thần học của Tổng giáo phận Portland, Oregon.

Năm 2000, Vũ Thành An được đào tạo làm chức Phó Tế và phụ trách Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại ở Portland, Oregon. V

ũ Thành An ngừng sáng tác tình khúc và chỉ tiếp tục soạn các bản thánh ca, và tham gia các công việc từ thiện.

“TÌNH KHÚC THỨ NHẤT” VÀ MỐI LƯƠNG DUYÊN VỚI NHÀ THƠ – NHẠC SỸ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Nhạc sỹ Vũ Thành An viết nhạc từ rất sớm: ngay từ khi học lớp đệ tứ, tức lớp 9 ngày nay. Sáng tác đầu tay đã bị người thầy là nhạc sỹ Chung Quân (tác giả bản nhạc bất hủ “Làng tôi” – Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh …) chê, nói chính xác là chê phần lời. Thế là nhà nhạc sỹ của chúng ta chỉ sáng tác phần nhạc và để đó.

Mãi đến khi vào làm việc ở đài phát thanh Sài Gòn và có dịp gặp gỡ rồi làm quen với nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn và được sự giúp đỡ và động viên của nhà thơ thì Vũ Thành An của chúng ta mới tự tin hơn và dần dần tự đặt lời cho những ca khúc của mình. Năm 1965, khi mới 22 tuổi, Vũ Thành An vụt nổi tiếng với “Tình khúc thứ nhất”, phần nhạc Vũ Thành An và phần lời của Nguyễn Đình Toàn. Đây có thể nói là sáng tác đầu tiên của Vũ Thành An được công chúng biết đến.

“BÀI KHÔNG TÊN CUỐI CÙNG” NHƯNG LẠI LÀ BÀI ĐẦU TIÊN TRONG LOẠT NHỮNG “BÀI KHÔNG TÊN”

Cũng trong năm 1965, mối tình đầu của nhà nhạc sỹ tan vỡ. Tâm sự ấy đã được Vũ Thành An gởi gắm vào “Bài không tên cuối cùng”. Chữ “cuối cùng” ở đây mang ý nghĩa đó là kỷ niệm cuối cùng với người con gái mà nhà nhạc sỹ đã thầm yêu.

Theo lời tự sự của chính nhà nhạc sỹ, tác phẩm này vô tình đã gây nhiều đau khổ cho “người con gái” trong cuộc sống. Vì thế cho nên năm 1991, ngay khi đặt chân đến trại tỵ nạn, Vũ Thành An viết ngay “Bài không tên cuối cùng tiếp nối” nhưng là một phần để xoa dịu nỗi đau ngày xưa:

“Này em hỡi, con đường em đi đó, con đường em theo đó đúng đấy em ơi …”

[footer]