Phần lớn nhạc xuân xưa mang tâm sự buồn và vì thế giai điệu thường là chậm rãi, sâu lắng. Tuy nhiên cũng có một số nhạc phẩm vui tươi, làm cho lòng ta thấy phấn chấn, yêu đời hơn. Trên tinh thần đó, DòngNhạcXưa xin trân trọng giới thiệu bản ‘Gió mùa xuân tới’ của nhạc sỹ Hoàng Trọng.
Sau một mùa đông dài, vạn vật đã rất mệt mỏi chống chọi với hanh khô, giá rét…
Rồi mùa Xuân cũng đến với những cơn gió đông ấm áp làm bừng tỉnh sức sống mới. Những cơn gió đông của nửa đầu mùa Xuân, người quê tôi gọi là “Gió đông non”.
Nhưng tại sao lại gọi là gió đông non?
Thứ nhất là do gió đông thổi suốt từ mùa Xuân qua mùa Hạ, đến tận cuối mùa Thu. Vì vậy gió đông nửa đầu mùa Xuân là gió mới, nên gọi là gió đông non.
Thứ hai cũng như gió heo may, thổi cuối mùa Thu mang hơi lạnh yếu từ phương Bắc đến, làm cho thời tiết rất mát và dễ chịu, nhưng càng giáp Đông thì hơi lạnh càng tăng, tiết trời se lạnh và càng lạnh thêm. Lúc này gió heo may được gọi là “Gió heo may cào”. Gió đông non tuy mang hơi ấm từ biển, nhưng chưa đủ để xua tan cái lạnh của mùa Đông. Nếu gió thổi nhẹ thì mát và dễ chịu, nhưng nếu gió thổi mạnh hơn một chút sẽ thấy se lạnh, thậm chí còn rất lạnh.
Người xưa có câu: “Gió đông non là con gió heo may cào”. Nhắc nhở mọi người không được chủ quan, phải chú ý mặc quần áo vừa đủ ấm, tránh bị cảm lạnh. Nhất là người già, trẻ nhỏ và những người có tiền sử bệnh đường hô hấp rất mẫn cảm với kiểu thời tiết này.
Gió đông non mang hơi ấm từ biển với độ ẩm vừa phải, kết hợp với nắng Xuân dịu nhạt…như thúc giục cỏ cây đâm chồi non, lộc biếc, gọi trăm hoa đua nở.
Tiếng chim hót véo von đón bình minh thức dậy. Trên cánh đồng làng, lúa xuân đang thì con gái, những cô thôn nữ khỏe khoắn, xinh tươi đang chăm bón ruộng đồng. Thấp thoáng những cánh cò trắng bay ngang…tô điểm cho bức tranh quê thêm đẹp, thanh bình và lãng mạn vô cùng!
Khi hoàng hôn vừa buông xuống là lúc ếch nhái, côn trùng gọi nhau hoan hỷ…tạo nên bản nhạc đồng quê thật du dương, trầm bổng!
Làng quê mùa “Gió đông non” căng đầy nhựa sống, như chất xúc tác nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng của tuổi trẻ trên con đường lập thân, lập nghiệp. Là ký ức của tuổi già…là nỗi nhớ quê hương của người xa xứ.
Với tôi mùa “Gió đông non” là tiết trời vô cùng đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho con người và vạn vật.
Mấy ngày nay tiết trời thật đẹp, “Gió đông non” thổi nhẹ. Vậy mời mọi người hãy ra ngoài trời tắm nắng Xuân, hoà mình với thiên nhiên…thưởng thức “Gió đông non” mát lành, sảng khoái lắm đấy.
Mùa gió xuân về trong xạc xào tiếng lá. Nghe trong gió hương hoa dại bên đường bung nở, những cánh hoa mỏng manh bay bay trong giọt nắng trong veo miền cổ tích. Ta lang thang trên triền đê lộng gió, nhẩm tính lại tháng ngày chật chội với những bủa vây đời mình. Ta an yên đón ngọn gió mùa ùa vào vội vã như gội rửa lòng mình sau bao ngày tất tả ngược xuôi.
Những ngày đầu năm bình yên đến lạ. Khói lam chiều thê thiết bên sông, nơi góc bếp bình dị mẹ ngồi nhóm lại ngọn lửa nồng nàn cháy bỏng. Ngọn lửa bao lần thắp lại trong ta những chiều xa xứ. Dáng mẹ gầy hao, sợi tóc bạc vương vào chiều buốt giá. Ta về ngồi cùng mẹ, tựa đầu vào vai mẹ để mặc mẹ càm ràm chuyện chồng con. Để ta biết được bình yên nhất vẫn là bờ vai của mẹ. Ba ngồi uống trà trước sân, tách trà thơm khói bốc lên dậy hương đồng gió nội. Ba nhắc nhiều những chuyện đã qua, nhắc con gái mau tìm cho mình một bến bờ để tựa nương, để những thân già không lo nghĩ về đứa con gái long đong những chiều nhạt nắng. Ba không còn vuốt tóc ta như những ngày thơ dại, ba không còn cõng ta qua con đê dài những ngày mưa gió, ba vẫn ngồi đó kể chuyện tháng năm. Thời gian như khuất lấp lòng người, ta bao lần ước mình bé lại, đủ để vòng tay ôm ba những ngày mưa sấm giật.
Bến sông chiều từng ngọn gió xuân thổi tràn cả miền thương nhớ. Con đò nằm ru mình trên bến. Bao người phụ nữ quê tôi đã đứng nơi bến sông chờ những bóng người đã dần xa khuất. Những cuộc chờ chết lặng dưới dòng nước đỏ ngầu váng vất cả mặt sông. Hàng cây bên đường xôn xao mùa gió mới. Trong cái hồ hởi của đất trời, ta đứng lặng trong chiều nhìn những ký ức mờ dần trong tiếc nuối đổ tràn. Nhành hoa tím bên đường ngày nào vẫn tím đến kiệt cùng, ngắt một nhành hoa của ngày xưa khờ dại. Ký ức vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu, chỉ có bóng người đã hun hút miền chân trời xa thẫm. Thả cánh hoa theo dòng nước chảy trôi về nơi xa vắng. Gửi ánh nhìn của người ở lại, giờ khắc ấy một nỗi buồn lại tái sinh trong mùa gió mới.
Mùa gió xuân vụt đám trẻ lớn nhanh, trong chiếc áo còn thơm mùi vải mới, ta thấy lại đời mình trong bầy trẻ quê. Những tiếng cười giòn tan hòa vào nắng xuân rực rỡ. Dắt tay đứa trẻ qua con đường gồ ghề sỏi đá, ta như bước qua thêm một ngõ ngách của cuộc đời. Mẹ ngồi trú nắng bên hiên, chiếc radio vẫn phát những bài hát mùa xuân rộn ràng, nhắc nhớ. Mái nhà xưa nằm nép mình trong xóm nhỏ, ta ngồi nhổ từng sợi tóc bạc cho mẹ như găm vào lòng mình một nỗi buồn chất ngất. Mẹ cười. Những nếp nhăn xô nhau ken dày trên khuôn mặt lam lũ của mẹ. Ta muốn ôm mẹ vào lòng mà gào khóc cho thỏa thuê. Mẹ lại cười. Khi đứa con gái khờ giấu những sợi tóc bạc sau lưng. Ba trở về nhà sau ván cờ cùng mấy chú nhà bên. Nắm tay con gái trong mùa gió xuân cần mẫn, ba dúi vào tay ta một chiếc kẹp tóc xinh xinh. Lòng chợt bình yên đến lại, khóe mắt cay cay và bàn tay vẫn không ngừng siết chặt…
Ngoài kia, những ngọn gió xuân vẫn râm ran vũ khúc của đất trời. Vừa đón tuổi mới trong bình yên ấm áp, ta đón chờ những tháng ngày phía trước. Và dẫu có những do dự khiến lòng ta chùn bước. Nhưng tin chắc rằng, ta vẫn có một nơi để trở về trong nồng ấm chở che…
Nguyễn Thụy Vân Anh
Xin ghi chú nguồn DòngNhạcXưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!
Bài viết dưới đây là lời tâm sự của một Người Cha đã vào tuổi thất thập gởi cho đứa Con Trai, kể về một giai đoạn đau thương của dân tộc Việt Nam. DòngNhạcXưa là thế hệ sinh sau năm 1975, chúng tôi tin rằng những dòng tâm sự rất thật của người viết, một nhạc sỹ đang an hưởng tuổi già ở vùng đất Hoa Kỳ tự do, phần nào giúp thế hệ trẻ có được góc nhìn chân thực hơn về hoàn cảnh đất nước trong những tháng ngày giông tố đã qua!
Xin chân thành cảm ơn tác giả đã cho phép chúng tôi chỉnh sửa vài đoạn và sử dụng toàn bộ nội dung bài viết!
Gởi cho Phong, Con Trai của Ba!
Hình ảnh bên dưới, cùng một loại thuyền đã đưa 17 người chúng ta đến Bến Bờ Tự Do.
Ngày 30/04/1975
Ba đã không có mặt tại Đại sứ quán vào ngày hôm đó! Ba đang ở đơn vị của mình, đơn vị cuối cùng Ba phục vụ trong quân đội. Đó là Trường Tình Báo Cây Mai. Tại nơi này, Ba là phiên dịch viên và giảng viên tình báo cho tân binh. Đây là trường duy nhất ở miền Nam huấn luyện nghiệp vụ tình báo, cách Sài Gòn khoảng 20 km về phía Bắc.
Ba và bạn hữu đã chiến đấu đến phút cuối cùng thì có lệnh của Đại tướng Dương Văn Minh là phải “rời bỏ hàng ngũ, trao trả cho Việt Cộng và về nhà.” Mọi người bỏ vũ khí và cố gắng tìm đường về nhà! Ba làm việc cho các Đơn vị Hoa Kỳ từ năm 1968 đến năm 1973, sau đó chuyển sang Quân đội Việt Nam khi họ bắt đầu rút khỏi Việt Nam!
Lúc đó Ba không muốn rời quê hương vì Ba nghĩ dù chính thể có thay đổi thì tất cả đều là người Việt. Hơn nữa, lúc đó mẹ và con còn ở Sài Gòn nên Ba không thể tự mình bỏ đi. Con chỉ mới được khoảng một tháng tuổi. Trong tâm trí Ba, Ba muốn ở lại quê hương, xây dựng lại đất nước sau những năm tháng chiến tranh. Ba đã sai!
Một chế độ mới, một cuộc sống khác
Sau khi chiếm miền Nam và kiểm soát toàn bộ dải đất hình chữ S, chính quyền mới thông báo trên đài phát thanh, truyền hình rằng tất cả các thành viên chế độ cũ, kể cả quân nhân, đều phải trình diện chính với chính quyền địa phương mới. Họ chỉ được mang theo tiền hoặc lương thực đủ dùng trong 15 ngày để học hỏi về chế độ mới. Và kể từ đó, rất nhiều quân nhân chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đưa đi học tập ở các trại cải tạo trải dài khắp hai miền đất nước.
Ba buôn bán hàng hóa địa phương từ nhiều nơi khác nhau. Ba mua đồ ở thành phố này và bán ở thành phố khác. Như thuốc lá, hải sản, rượu,…bất cứ thứ gì họ muốn. Con và mẹ thỉnh thoảng cùng đi theo Ba! Nhiều người bạn của Ba đã bị bỏ tù một thời gian dài. Một số người trong số họ đã chết; những người khác không thể hoạt động. Ba đã mất liên lạc với họ! Xã hội lúc đó thật khủng khiếp!
Bản thân Ba, Ba đã tiêu hủy tất cả giấy tờ liên quan đến thân phận của mình, trong đó có tất cả những bức ảnh chụp trong thời gian Ba phục vụ trong các Đơn vị Hoa Kỳ. Ba bắt đầu kết nối với những người bạn cũ của mình và Ba đã tạo một vài ID mới và một số Mẫu đơn (Thẻ) mới cho chính mình. (Bây giờ Ba không ngại kể mọi chuyện.) Ba biết Ba cần những giấy tờ đó để đi và về những nơi khác nhau. Vào thời điểm đó việc đi lại thực sự khó khăn. Nếu mình muốn đến thăm ai đó ở một thành phố khác, mình phải nộp đơn qua an ninh thôn, rồi xã, rồi quận… cho họ biết mình sẽ ở đâu, lý do đến thăm và mình sẽ ở đó bao lâu! Ít nhất phải mất 2 ngày. Sau đó mình phải xếp hàng để mua vé xe đò! Có khi đến quầy lại không còn vé nữa! Mình phải đợi chuyến đi tiếp theo. Với giấy tờ đặc biệt của Ba, Ba có thể rời đi bất cứ lúc nào. Hôm nay Ba có thể là viên chức Chính phủ, ngày khác Ba có thể là nhân viên bán hàng cho một công ty tư nhân, ngày khác Ba có thể là giáo viên chính phủ hoặc công nhân xây dựng! Ba đã phải thay đổi danh tính của mình!
Phần lớn thời gian, con ở với Mẹ tại nhà Ông Bà Ngoại ở Sài Gòn. Ông Ngoại và Bà Ngoại của con có một cửa hàng ở Sa Đéc, một địa danh ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ba cũng sống ở đó được vài tháng. Có lần, Ba làm công nhân vận tải cho một công ty xi măng, vận chuyển đá và xi măng đến và đi từ các thành phố khác nhau bằng sà lan (Xi măng Hà Tiên). Chỉ sau một chuyến đi, Ba suýt bị sa thải vì an ninh không xác định được Ba là ai. Ba biết họ đã gửi nhiều yêu cầu đến các cơ quan khác nhau để tìm kiếm quá khứ của Ba, nhưng họ không tìm thấy bất kỳ thông tin nào về Ba. Họ sợ Ba cướp thuyền rồi bỏ chạy. Ba bỏ trốn trước khi họ bắt được Ba.
Trong thời gian phục vụ, Ba đã được rèn luyện cách giữ im lặng. Bây giờ, sau 20 năm, Ba nghĩ sự thật phải được phơi bày. Ba đã tham gia vào Chương trình Phượng Hoàng dưới sự chỉ đạo của CIA, cố gắng tập trung và loại bỏ Cơ sở hạ tầng của Việt Cộng (VC). Ba là Người liên lạc và Thông dịch viên giữa Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, P.R.U. (Đơn vị Trinh sát Tỉnh), Cảnh sát, G2 (Tình báo Quân đội) và Cố vấn Mỹ. Trong 5 năm, Ba đã tham gia nhiều cuộc hành quân. Vui có, nguy hiểm có, phấn khích, và cả sợ hãi…Ba đã nếm trải tất cả. Trực thăng của Ba bị bắn rơi hai lần khi đang quan sát trận chiến. Thật may mắn, Ba vẫn còn sống! Nhiều câu chuyện bí mật hơn về CIA và chiến tranh Việt Nam đã được trình chiếu. Các con nên xem tin tức trên CNN!
Ý định ra đi
Một ngày nọ, Ba trở về nơi Ba sinh ra. Ông Nội đã rất già. Ba dự định ở lại với Ông ấy và em gái của Ba (Cô của con) một thời gian. Đây là một làng chài. Việc di chuyển đến đó rất khó khăn vì chính quyền địa phương sợ người dân lợi dụng nơi này để trốn khỏi quê hương bằng thuyền. Nó đã xảy ra nhiều lần. Ba đã phải liên hệ với bạn Ba (tại chính quyền địa phương) để nộp đơn rằng họ cần Ba về đây vì mục đích giáo dục! Ba phải dạy tiếng Anh vào ban đêm cho trường học cộng đồng và dạy nhạc cho các lính biên phòng! Ba đã được nhận. Sau đó Ba trở thành cư dân của nơi này, một ngư dân hợp pháp! Con và mẹ cũng đi cùng với Ba. Vì vậy, đây là cơ hội để Ba bắt đầu lên kế hoạch cho chuyến đi của mình!
Ba quyết định mình cần phải nghĩ ra kế hoạch trốn khỏi đất nước. Ba và bạn bè đã thực hiện kế hoạch này trong vòng một tháng. Ba và các bạn cần phải có 3 chiếc thuyền; một thuyền mang thức ăn và thuốc men; một thuyền chở dầu ; và chiếc lớn, không chở gì cả (cái thuyền này sẽ vượt đại dương). Một người bạn của Ba mua thức ăn cho thuyền, người khác mua xăng dầu, và Ba có thiết bị định vị, như la bàn và bản đồ đại dương. Kế hoạch diễn ra tốt đẹp, mọi việc di chuyển đều suôn sẻ, nhưng bạn bè Ba, họ không hề quen biết nhau.
Kế hoạch bại lộ
Một tuần trước khi lên đường, Ba quyết định cả bốn người trong tổ chức sẽ gặp nhau và lên kế hoạch chi tiết cho chuyến đi. Đây là lần đầu tiên họ biết ai là người liên quan. Sai lầm tồi tệ! Họ gặp nhau, và 1 ngày trước khi lên đường, 3 người bạn của Ba đã đi theo một người giàu có. Người này đã mua chuộc họ. Với những phương tiện có sẵn, họ đã lên đường và Ba thì ở lại.
Công an địa phương phát hiện ra Ba có liên quan đến chuyến đi này. Ba được thông báo rằng họ đang tức giận và đang tìm kiếm Ba. Ba phải rời khỏi đó càng sớm càng tốt.
Phương án mới
Ba nhanh chóng nghĩ ra một kế hoạch mới. Lúc đó không còn tiền nữa. Vợ Bác Ba giúp Ba liên lạc với 2 gã có tiền. Ba và Bác Ba dùng số tiền này để mua một chiếc thuyền khác, nhỏ hơn nhiều. Sau đó, Ba lại chuyển nhiên liệu và một số thực phẩm lên con thuyền này.
Cuối cùng, vài ngày sau, Ba và Bác Ba quyết định rời đi theo kế hoạch mới của mình. Nếu Ba và Bác Ba bị bắt, Ba sẽ không để bắt Ba và Bác vào cùng một thời điểm và cùng một địa điểm. Ba chia thành 3 nhóm: nhóm của Ba, nhóm của mẹ con (với Vân và hai người bạn) và nhóm của Bác Ba. Ba và mọi người sẽ gặp nhau trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi (Hòn Lao ở Mũi Né). Đêm đã khuya nên mỗi thuyền phải thắp một ngọn đèn nhỏ để Ba và Bác Ba nhận ra nhau.
Ngày định mệnh
Đêm Ba rời đi, Ba phải cho Vân uống thuốc ngủ, Vân mới 3 tháng tuổi để nó không khóc. Nó được 2 người khác cùng mẹ, quấn lưới đánh cá bên ngoài, rời làng đi một hướng khác. Ba đã chứng kiến họ vượt qua tất cả các điểm kiểm tra một cách an toàn. Anh trai Ba (Bác Ba) không ở cùng thị trấn nên đi thuyền khác cùng gia đình và 2 người khách. Họ đã đến điểm hẹn.
Ba rời đi sau nửa đêm, bằng chiếc thuyền mới mua, khoảng 2 giờ sáng. Ba đến hòn đảo và Ba đã tìm thấy anh trai mình. Nhưng Ba không thể tìm thấy vợ Ba. Ba và Bác Ba đợi khoảng một lúc khá lâu và không thấy gì. Ba và Bác Ba bắt đầu tìm kiếm chung quanh hòn đảo và bãi biển.
Sau khoảng nửa giờ vẫn không thấy bóng dáng chiếc thuyền đó. Ba đã rất bối rối. Tất cả mọi người đang đợi đều muốn đi. Ba không muốn rời đi mà không có Mẹ con và con gái, nhưng Ba cũng không muốn ở lại. Bác Ba Gái hỏi Ba quyết định như thế nào ? Ba trả lời là “Tùy Anh Chị, em thật sự không biết phải làm sao.”
Trời sắp sáng nếu không đi thì với số lượng người trên con thuyền bé nhỏ này sẽ là mồi ngon cho công an biên phòng. Bác Ba cho thuyền đi thêm một vòng chung quanh Hòn Lao, rộng hơn những vòng trước. Bất ngờ một người trong thuyền thấy được chút ánh sáng mờ nhạt trong màn đêm tắm tối. Một chiếc thuyền con đang nhấp nhô trước mặt. Bác Ba cho thuyền chậm lại và ghé sát chiếc thuyền kia. Đúng rồi, đúng rồi! Đúng là chiếc thuyền nhỏ bé có Mẹ con và em gái con cùng 2 người đồng hương! Họ đã quên mất cây đèn nhận diện nên không ai có thể nhìn thấy họ. Ba và mọi người hối hả đưa họ lên thuyền rồi rời đi. Hai chữ phép lạ nhiệm mầu ban xuống cho gia đình mình. Ai cũng hớn hở và cám ơn Trời Phật đã phù hộ.
Tuyệt vọng
Sau 32 giờ, con thuyền đi thẳng đến Hải phận Quốc tế như Ba đã dự định. Động cơ bị hỏng! Bác Ba đã cố gắng khắc phục nhưng không thể. Ba đã gặp nhiều tàu quốc tế to lớn. Những con tàu đi qua như đang đi trên đường cao tốc 4 làn xe. Nhiều tàu đi qua nhưng không ai dừng lại giúp đỡ. Điều đó thật tồi tệ.
Khi đó gió và hải lưu dịch chuyển về phía Bắc nên con thuyền không thể đi về phía Nam được nữa. Bác Ba dùng một tấm chăn lớn treo lên như một cánh buồm rồi đi về hướng Bắc. Một tuần trôi qua, không còn thức ăn hay nước uống. Kế hoạch của Ba là chỉ có đủ thức ăn và nước uống trong một tuần. Ba đã lên kế hoạch rằng Ba sẽ được giải cứu trên các tuyến đường vận chuyển quốc tế, nhưng thực tế không phải vậy. Ba thậm chí còn đỡ Vân lên để các con tàu có thể nhìn thấy nó, nhưng họ chỉ đi ngang qua. Lúc đó Ba không biết rằng nếu thuyền bị chìm thì theo luật, một con tàu phải đến cứu. Vì vậy, Bác Ba không bao giờ đánh chìm thuyền.
Thuyền vẫn hướng về phía Bắc. Thuyền không còn thức ăn và nước uống, Bác Ba chặt củi trong thuyền và nhóm lửa để đun nước. Ba cho nước biển vào xoong và sau đó nước sẽ bốc hơi. Ba lau hơi nước trên nắp bằng một miếng vải và vắt từng giọt nước ngọt từ miếng vải lên một cái muổng. Đó là cách để mọi người gượng sống. Mỗi người uống khoảng 2 muổng mỗi ngày – đủ để tồn tại. Có 10 trẻ em và 7 người lớn. Con thuyền bị lạc hướng đi vì không có động cơ. Đại dương tĩnh lặng và Ba đã mất phương hướng.
Sau 1 tuần, con thuyền đã ra khỏi hải phận quốc tế và trôi dạt theo dòng nước. Tất cả những gì có thể nhìn thấy chỉ là đại dương và bầu trời. Trời nóng quá. Để giải nhiệt, Ba buộc một sợi dây quanh eo và nhảy xuống biển. Nó đã giúp một chút. Ba muốn đến Phi Luật Tân, vì nó gần hơn nhưng lại có những khu vực nguy hiểm nên Ba và Bác Ba cứ đi về hướng Bắc.
Một tuần nữa trôi qua. Không có mưa chút nào. Không có thức ăn, Ba và mọi người chỉ còn da bọc xương. Dưới ánh mặt trời, làn da của ai cũng đen đúa. Không ai còn sức lực. Ba ước gì Con có thể tưởng tượng được hoàn cảnh lúc đó. Vào ban đêm, chúng ta chỉ nhìn thấy những ngôi sao, và khi ngày đến, chỉ có biển, bầu trời, và cái nóng… cùng sự tuyệt vọng!
Con kêu Ba, Con muốn về nhà. Con liên tục nói: “Con muốn gặp ông bà Ngoại. Họ sẽ cho con ăn uống.” Con cứ đi tới mép thuyền, Ba không còn sức để giữ con lại nên đành phải trói con vào cột buồm. Con muốn nhảy xuống biển để về nhà. Ba nói với con: “Khi nào Con chết, Ba sẽ để con về nhà”, nghĩa là Ba sẽ ném con xuống biển. Con bảo Ba: “Ba ơi, con chết rồi. Hãy để con đi!” Tất nhiên là Ba không thể làm được!
Để cho Vân ăn, Ba và Mẹ pha một ít mật ong với nước biển vì Mẹ con không có sữa. Đôi khi, tất cả Ba và mọi người đều nghĩ rằng mình sẽ đánh chìm thuyền để tất cả mọi người đều chết cùng một lúc. Ba và Bác Ba không thể làm được!
Một ngày nọ, Bác Ba bắt được một con rùa biển. Ngư dân tin rằng nếu ăn phải loại rùa đó, ngư dân sẽ gặp xui xẻo, nhưng Bác Ba không quan tâm. Bác Ba nấu nó bằng nước biển và chia sẻ với mọi người. Bác Ba phải nấu nó cho đến khi nó thật mềm, vì răng của ai cũng lung lay vì suy dinh dưỡng (thực ra là không có dinh dưỡng.
Ơn trên
Khoảng một giờ sau bữa tiệc rùa, mưa bắt đầu trút xuống. Mọi người dùng bất cứ thứ gì để hứng mưa, từ chảo đến mũ. Mọi người đều khát nước lắm rồi. Vài giờ sau, một tàu đánh cá Đài Loan đã nhìn thấy con thuyền của chúng ta. Họ không nói được nhiều tiếng Anh và Ba cũng không nói được tiếng Đài Loan. Rất khó để giao tiếp.
Tuy nhiên, họ dừng lại, đưa lên tàu và cho mọi người thức ăn. Họ đã cố gắng sửa động cơ nhưng nó đã bị hỏng hoàn toàn. Ba đã cố gắng nói chuyện với họ và họ đã liên hệ với Chính phủ Đài Loan để hỏi họ phải làm gì. Ba không hiểu họ nói gì. Họ bảo Ba quay trở lại thuyền và cung cấp nhiên liệu, nước uống và thực phẩm cho thuyền. Họ bảo mọi người quay lại, ngoại trừ Ba. Họ muốn Ba ở lại trên tàu. Họ buộc một sợi dây vào thuyền và kéo nó. Nhưng Ba đã về lại thuyền của mình.
Hụt hẫng
Họ kéo con thuyền trở lại hải phận quốc tế, chặt dây rồi bỏ đi…Lúc đó trời đã tối. Thế là con thuyền lại chơi vơi giữa đại dương mênh mông. Một lần nữa, không có con tàu nào ghé qua và dừng lại. Lần này mọi người đã có thức ăn nên cảm thấy ổn hơn. Cảm ơn những Ngư phủ Đài Loan. Ngày tháng cứ trôi qua, chỉ biết ngắm nhìn bầu trời và đại dương, không biết phải làm gì nên Ba đã cầu nguyện rất nhiều.
Một cơn bão lớn, cơn bão đầu tiên trong mùa đã đến vào tuần thứ 4 lênh đên trên biển. Nhiều lần suýt đánh chìm thuyền. Mưa thật nhiều và sóng rất lớn. Ba và mọi người phải thức để tát nước ra khỏi thuyền. Bác Ba cho thuyền đi lùi, thả neo để thuyền chậm lại, nếu không sóng sẽ ập vào thuyền và đánh chìm con thuyền. Thuyền rất nhỏ nên khi lọt trong máng sóng, chúng ta có thể nhìn thấy sóng nằm trên đầu mình. Khi con thuyền ở trên đỉnh sóng nhìn xuống giống như nhìn từ tầng thứ 10 của một tòa lâu đài vậy. Ba luôn tự hỏi: “Chúng ta có cần phải trả những cái giá quá đắt nhu thế này cho sự Tự Do không? Tại sao chúng ta phải mạo hiểm mạng sống của mình như vậy?”.
Ánh sáng cuối chân trời
Cơn bão kéo dài khoảng một ngày một đêm. Chúng ta đã trải qua thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời. (Sau này, khi mọi người vào bờ, người dân địa phương nói với Ba rằng đó là cơn bão tồi tệ nhất trong năm). Ba nghĩ cơn bão đã giúp đẩy con thuyền tiến xa hơn về phía Bắc và gần bờ hơn. Một đêm nọ, Ba nhìn thấy ánh sáng rực rỡ ở một góc trời. Bác Ba cho con thuyền hướng về phía ánh sáng đó. Đến nửa đêm, Ba nhìn thấy ánh sáng rõ ràng hơn. Nó trông giống như một thị trấn, nhưng Ba không chắc lắm. Bác Ba cứ đi về phía ánh sáng cho đến sáng hôm sau. Đó là một giàn khoan dầu! Nó quá lớn. Cùng lúc đó, thuyền mình gặp một tàu đánh cá Trung Quốc. Họ đưa cho mọi người thêm đồ ăn và thuốc lá, đồng thời chỉ đường cho Ba (bằng ngôn ngữ ký hiệu) hướng đến Hồng Kông. Trong vòng 12 giờ là tới. Ồ! Ba và mọi người biết rằng đã gần đạt được tự do! Cảm ơn Ngư dân Trung Quốc!
Mọi người thay phiên nhau chèo thuyền. Ngày hôm sau ai cũng nhìn thấy những ngọn núi, rồi bờ biển. Nhưng không có người và không có nhà! Gần bờ hơn, gặp một tàu đánh cá Trung Quốc khác. Họ bảo Ba đừng vào đó! Sau đó, họ buộc dây vào con thuyền và bắt đầu kéo. Không ai biết mình sẽ đi đâu.
Hai giờ sau, Ba và mọi người bắt đầu nhìn thấy nhiều ngôi nhà hơn, nhiều người hơn, nhiều thuyền hơn và nhiều building lớn hơn. Thật là một cảm giác tuyệt vời! Mọi người vui mừng đến nỗi không từ ngữ nào có thể diễn tả được niềm hạnh phúc đó.
Quang cảnh thành phố trông giống như trong phim Tàu. Moi người đều nghĩ rằng con thuyền đã cập cảng Hồng Kông. Khi thuyền vào bờ, tàu đánh cá Hồng Kong ra đi, họ vẫy tay và mỉm cười. Ba và mọi người cũng đã làm điều tương tự, vẫy tay, nhưng không ai nói điều gì. Mọi người không biết nói tiếng Hoa nhưng trong lòng ai cũng tràn đầy cảm kích. Cảnh sát biển đã đến, các phóng viên tin tức cũng như những người làm truyền hình và đài phát than kéo đến đông nghẹt!
Ba phát hiện ra nơi này là Ma Cao, nơi con thuyền cập bến. Ba và mọi người được biết tàu cá Hong Kong không muốn con thuyền mình vào nơi đó vì phần đó thuộc về Trung Quốc! Quả là may mắn!
Vượt biên ngày 25/05/1978. Đến Ma Cao ngày 01/07/1978. 35 ngày vượt biển! Con và Vân phải nằm bệnh viện một tuần.
Và cuộc sống của gia đình mình được tái sinh ở một đất nước tự do!
Vào những ngày Tết, giai điệu vui tươi cùng ca từ đậm chất xuân của bản ‘Ước nguyện đầu xuân’ lại rộn rã vang lên ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, không ít người yêu nhạc vẫn chưa biết bài này nhạc sỹ Hoàng Trang sáng tác vào những năm 1967 – 1968, khi Miền Nam Việt Nam vẫn còn vào hồi chinh chiến.
Bản này được ca sỹ Giao Linh thu âm lần đầu tiên vào đĩa nhựa ‘Hái lộc đầu xuân’ do hãng đĩa Continental phát hành. Ngày ấy, Giao Linh hát chậm, vừa, da diết, đúng với tâm trạng của tác giả muốn gởi gắm.
Nếu để ý kỹ một chút, chúng ta sẽ nhận ra xuyên suốt nhạc phẩm là lời tâm sự của một cô thiếu nữ còn khá trẻ, ước chừng mười tám đôi mươi. Và cũng như bao thân phận khác thời binh đao khói lửa, nàng cũng hướng lòng về người yêu, một quân nhân đang đồn trú ở một tiền đồn xa xôi nào đó. Dưới đây là phần lời ca gốc mà Giao Linh đã chuyển tải trong bản thâu âm trước 1975:
Một rừng hoa mai nở Một bầy chim én đưa tin Chúa xuân giáng trần thật xinh Năm rồi em trăng gầy Năm này mười sáu tròn trăng Đón xuân thấy lòng bâng khuâng Vì em biết yêu rồi chăng?
Thật lòng yêu thương người Người miền chinh chiến chưa nguôi Đón xuân gió lộng rừng xuôi Hương trầm đêm giao thừa Hoa lộc khoe sắc mọi nơi Đơm nụ xuân hồng đôi môi Người tôi mến yêu đầy vơi
Tuy năm nay em lớn Nhưng vẫn thích bao lì xì Thích khoe áo đẹp mẹ cho Thích nghe pháo nổ đây đó
Đêm xuân thiêng xin khấn Cho đất nước em bình thường Ước mơ giấc mộng uyên ương Có đôi cánh thạnh chung hướng
Dù người sang hay nghèo Đều mừng xuân ngát hương say Ý mong phước lộc tròn tay Ôm nàng xuân trong lòng Cho dù minh biết hoài công Thế nhưng vẫn mộng tương lai Làm tin sống cho ngày mai
Vì nhiều lý do khác nhau, hầu hết các ca sỹ thời nay khi hát ‘Ước nguyện đầu xuân’ đều sửa lời làm mất đi tính “người lính, chiến tranh, chia cách” và hát nhanh hơn, rộn rã hơn, vui tươi hơn để theo kịp thời đại.
Đây là phần lời mà ngày nay người yêu nhạc hay nghe:
Một rừng hoa mai nở Một bầy chim én đưa tin Chúa xuân giáng trần thật xinh Năm rồi em trăng gầy Năm này em mới tròn trăng Đón xuân thấy lòng bâng khuâng Vì em biết yêu rồi chăng?
Thật lòng em yêu người Một đời nhân nghĩa cưu mang Ý anh ý đẹp trời ban Hương trầm đêm giao thừa Hoa lộc khoe sắc mọi nơi Đơm nụ xuân hồng đôi môi Tình xuân ngất ngây trần gian.
[ĐK:] Tuy năm nay em lớn Nhưng vẫn thích bao lì xì Thích khoe áo đẹp mẹ cho Thích đi hái lộc đây đó
Đêm xuân khuya em khấn Cho đất nước ta mạnh giàu Ước mơ giấc mộng uyên ương Có đôi cánh đẹp tình thương.
Dù người sang hay nghèo Đều mừng xuân ngát hương say Ý mong phước lộc tràn tay Ôm nàng xuân trong lòng Môi hồng âu yếm nụ hôn Đón xuân ước nguyện đêm nay Đời ta có nhau ngày mai.
Và đây là tờ nhạc do nhóm “Trăm Hoa Miền Nam” phát hành đầu năm 1968.
Ước Nguyện Đầu Xuân (Hoàng Trang). Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com
Trong những ngày giáp Tết, DòngNhạcXưa mời quý vị yêu nhạc xa gần hãy nghe lại cả hai phiên bản “Ước nguyện đầu xuân” của cố nhạc sỹ Hoàng Trang để có những phút giây vui tươi hoặc lắng đọng, để chuẩn bị đón một mùa Xuân Giáp Thìn 2024 đầm ấm.
Trong một bài viết trước, chúng tôi đã giới thiệu đến người yêu nhạc đôi nét về nhạc sỹ Tuấn Hải, tác giả bản ‘Phượng Buồn’ nổi tiếng. Xung quanh nhạc phẩm này, trước đây có một hiểu lầm đáng tiếc.
Băng nhạc Nhã Ca 10, xuất bản tháng 11/1974.
Số là sau khi ghi âm lần đầu tiên qua tiếng hát Hoàng Oanh trong băng nhạc Nhã Ca 10, xuất bản năm 1974 thì xảy ra biến cố 1975, Tuấn Hải ngưng sáng tác và sau đó đi Úc định cư năm 1990.
Trong một bài viết trên trang nhà của nhạc sỹ Tuấn Khanh (nguồn), hiện cũng đang định cư ở Úc Châu, sau nhiều năm im lặng, mãi đến năm 2015, nhạc sỹ Tuấn Hải mới viết một là thư ngỏ để làm rõ về vài hiểu lầm không đáng có.
Bài này tôi viết năm 1974 tại Sài Gòn và đã sắp xếp Hoàng Oanh hát đầu tiên vào dĩa nhựa nhạc ‘Ngày Xanh’ tại phòng thu của một người Hoa ở số 13 đường Bùi Hữu Nghĩa (trước cửa chợ cá Hòa Bình, quận 5 Chợ Lớn cùng trong năm ấy). Đến năm 2004 tôi về Sài Gòn gặp lại một số bạn cũ trong đó có các nhạc sĩ: Ngọc Sơn, Đài Phương Trang, Dzoãn Bình và Vinh Sử. Rồi chúng tôi có cuộc hẹn đi uống bia tại quán Hội Nghệ Sĩ…
Sau khi tặng Vinh Sử một CD ‘Phượng Buồn’ thì người bạn này nói liền: “Xin lỗi anh, em có làm một chương trình có bài ‘Phượng Buồn’ nhưng gặp khó khăn về việc kiểm duyệt tác giả ở nước ngoài nên đã để tên anh Thanh Sơn cho dễ dàng và tiện việc thanh toán bản quyền…” Ngay lúc đó tôi không thấy gì phiền hà vì việc đã rồi. Hơn nữa Thanh Sơn sau này có chút gì vui vui… Thế là vấn đề thông qua.
Sau đó bài Phượng Buồn lần lượt được nhiều trung tâm sử dụng nên việc ”tam sao thất bản” càng lan tràn theo tỉ lệ thuận. Cũng từ đó một số thân hữu của tôi tỏ ra bất đồng về sự im lặng này, cũng có vài người còn suy nghĩ ngược lại. Trong thời điểm này tôi không biết dùng computer nên chẳng muốn bận thêm làm gì. Nay tiện có cháu nội bà xã tôi sang du học tại Australia nên tôi nhờ cháu Thanh Trinh giúp cho việc này.
Cũng xin được nói thêm là giữa tôi và Thanh Sơn đã có thâm tình từ những ngày hai đứa mới vào nghề (nhắc tên bạn ở đây bằng tất cả lòng quí mến). Tôi nhớ rõ là nhạc sĩ Thanh Sơn có mấy bài viết về phượng rất nổi tiếng như: ‘Nỗi buồn hoa phượng’, ‘Hạ buồn’ và ‘Hai cánh phượng buồn’ (bài này ghép mấy bài cũ của Thanh Sơn). Tôi cũng thấy vài trung tâm còn ghi tác giả bài ‘Phượng Buồn’ của Nguyên Vũ hay Nguyễn Vũ. Theo tôi được biết không có nhạc sĩ nào tên Nguyên Vũ, còn nhạc sĩ Nguyễn Vũ và chúng tôi cũng rất thân quen từ những ngày cùng cộng tác ở Continental do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông điều hành. Nhạc sĩ Nguyễn Vũ viết nhiều bài về tình yêu lính biển và mấy bài giáng sinh rất nổi tiếng. Tôi chưa nghe thấy bài nào viết cho phượng.
Như vậy là mọi việc đã rõ.
Tuy nhiên, DòngNhạcXưa cũng cần nói thêm một điều: trước đó, tầm những năm 1967 – 1968, hai nhạc sỹ Thanh Sơn & Song Ngọc đã cho ra đời một bản nhạc cũng có tên là ‘Phượng Buồn’ với giai điệu và ca từ hoàn toàn khác.
Trong làng văn nghệ Việt Nam, tên tuổi của nhạc sỹ Tuấn Hải ít được nhắc đến. Một phần vì ngoài việc sáng tác, ông dành phần nhiều thời gian trước 1975 cho công việc của một chuyên viên âm thanh của Đài Tiếng Nói Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa; một phần cũng vì ông không có sinh hoạt văn nghệ trong nước sau 1975 trước khi định cư ở nước Úc xa xôi vào năm 1990.
Nhạc sỹ Tuấn Hải bên người vợ. Ảnh: ThoiXua.vn
Tuy nhiên nếu như người yêu nhạc biết ông là tác giả của các bản như “Phượng buồn”, “Một trăm phần trăm” hay “Đẹp lòng người yêu” thì chúng ta sẽ không quá xa lạ với nhạc sỹ Tuấn Hải.
Thông qua bài viết này, DòngNhạcXưa chúc ông dồi dào sức khỏe và vui hưởng tuổi già bên người vợ hiền và con cháu nơi xứ xở của những chú kangaroo.
Tuấn Hải (tên khai sinh: Lê Xuân Nghị, 1 tháng 6 năm 1939 tại Hải Phòng) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam trước năm 1975. Ngoài ra, ông còn có những bút danh khác như Lê Kim Khánh (con trai ông), Song Kim và Phụng Anh (trong một số bài).
Tuấn Hải sinh ngày 1 tháng 6 năm 1939 tại Hải Phòng. Ông ham mê âm nhạc từ nhỏ. Vào Sài Gòn năm 1954, những năm sau đó ông có cơ hội trau dồi và học nhạc với hai nhạc sĩ Văn Phụng và Võ Đức Tuyết.
Tháng 6 năm 1961, ông được tuyển chọn vào làm việc ở đài phát thanh Sài Gòn. Ông đã tham gia sinh hoạt ca nhạc thường xuyên trong các ban nhạc Văn Phụng và Nhật Bằng. Ông cũng là chuyên viên âm thanh của đài tiếng nói Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian ấy ông đã được nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông – giám đốc hãng nhạc, giao cho việc phụ trách kỹ thuật âm thanh của hãng dĩa Continental và hãng nhạc Ngày Xanh.
Nhạc sĩ Tuấn Hải đã nhận được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi sáng tác được tổ chức bởi các cơ quan như: Văn Hoá Vụ, Tuyên Úy Phật giáo, Thiếu Nhi, Phòng Vệ Dân Sự, Dân Vệ Đoàn, bộ Thông tin và bộ Tư lệnh Cảnh Sát Quốc gia. Đặc biệt là ông đạt được giải nhất với bài “Mừng Ngày Quân Lực”, trong cuộc thi sáng tác toàn quốc năm 1965, do Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức. Ông đã được sự khen thưởng đặc biệt của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như Địa phương quân và nghĩa quân.
Ông định cư và làm việc ở Úc từ năm 1990. Hiện đang nghỉ hưu trí và sống với người phối ngẫu là bà Lâm Thị Kim Ngân tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland. Ông rất được đồng hương quý mến do tính tình vui vẻ, ôn hòa và khiêm nhường. Hầu hết họ không biết ông là Tuấn Hải, vì ông không tự giới thiệu nhiều về mình.
Năm 2004, ông bị đột quỵ và phải ngồi xe lăn, tuy nhiên ông vẫn lạc quan, yêu đời và giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn tại quê nhà.
Xin ghi chú nguồn DòngNhạcXưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!
Như một nén nhang lòng thắp lên cầu mong cho linh hồn nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn sớm siêu thoát về miền cực lạc, DòngNhạcXưa xin gởi đến người yêu nhạc bản nhạc nổi tiếng mà ông viết cuối thập niên 1970, khi ông còn đang ở trong trại tù cải tạo. Thông qua những bạn tù đã được thả trước đó, nhạc phẩm này vượt đại dương để có mặt trong băng cassette ‘Người di tản buồn’ xuất bản năm 1979 tại hải ngoại.
Có một chi tiết thú vị là trong bản ghi âm này, Khánh Ly đã hát ‘đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh’, trong khi bản gốc mà Nguyễn Đình Toàn muốn viết ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’. Sau này, khi đã sang Mỹ, nhạc sỹ có tâm sự sở dĩ ông dùng tên ‘Khánh Ly’ vì ông và ca sỹ có một mối thâm giao trước đó khi còn ở Sài Gòn; và hơn nữa chữ ‘Ly’ đi có vần hơn với những câu trước:
Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi Tay cầm tay nói nhỏ câu gì Đâu quầy hoa quán nhạc đêm về Đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly
Sài Gòn trước 1975. Ảnh: Tạp chí Life.
Còn riêng Khánh Ly thì cho biết cô không muốn tự hát về bản thân và cũng vì lòng mến mộ với đàn chị Thái Thanh nên trong lần ghi âm đầu tiên cô đã hát hai chữ ‘Thái Thanh’. Sau này, những ai hiểu chuyện đều đã hát đúng nguyên tác: ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’.
Đôi lời góp vui để thấy cái cách đối xử thật tế nhị của giới văn nghệ sỹ thời xưa!
Đêm 28/11/2023 theo giờ California, tức sáng 29/11/2023 theo giờ Sài Gòn, làng văn nghệ Việt Nam lại đón nhận một tin buồn, phải nói là thật buồn. Đó là sự ra đi vĩnh viễn của nhà văn, nhà thơ và nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn.
DòngNhạcXưa cầu mong linh hồn ông mau siêu thoát về miền cực lạc!
Nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn (1936 – 2023)
Nguyễn Đình Toàn (sinh 6 tháng 9 năm 1936, mất 28 tháng 11 năm 2023) là nhà văn và nhạc sĩ người Việt định cư ở Mỹ. Ông còn có bút hiệu là Tô Hải Vân khi viết văn và Hồng Ngọc khi viết nhạc.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn sinh tại huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh (về sau đổi thành quận Gia Lâm tỉnh Hà Nội) và di cư vào Nam năm 1954.
Ông đóng góp nhiều sáng tác văn học nghệ thuật dưới nhiều dạng: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, bút ký. Tác phẩm ‘Áo mơ phai’ đoạt Giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa năm 1973.
Nguyễn Đình Toàn viết nhiều truyện dài đăng thành nhiều kỳ trên các báo chí Việt Nam Cộng hoà như tạp chí Văn, Văn Học và các nhật báo như Tự Do, Chính Luận, Xây dựng, và Tiền Tuyến.
Ông cũng có tay trong việc phát triển tân nhạc Miền Nam qua chương trình phát thanh Nhạc chủ đề trên đài phát thanh quốc gia VTVN mỗi tối Thứ Năm.
Sau năm 1975, ông bị bắt và giam học tập cải tạo 10 năm mới được thả. Năm 1998 ông cùng vợ được xuất cảnh sang Mỹ và định cư ở California nơi ông tiếp tục viết cho báo Viet Tide.
Những nhạc phẩm trứ danh nhất của ông gồm “Sài Gòn niềm nhớ không tên” (nguyên nhan đề là “Nước mắt cho Sàigòn”), “Căn nhà xưa”, “Mưa trên cây hoàng lan”, và “Tình khúc thứ nhất” do Vũ Thành An phổ nhạc. Ca sĩ Khánh Ly đã thâu âm và phát hành hai dĩa hát với những sáng tác của ông.
Ông tạ thế hồi 19 giờ 15 phút ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại tư gia, theo giờ California.
Ngày nay, với sự tiến bộ của kỹ thuật, các xe hàng rong đã trang bị các loại loa phát khác nhau, mỗi người một kiểu, thậm chí người bán còn có thể tự thu âm tiếng rao của mình để phát lại. Dường như hiện đại hơn, có vẻ như tiện lợi hơn. Thế nhưng chính điều này đã tạo ra một mớ âm thanh hỗn độn ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và nhất là TPHCM.
Giữa sự ồn ào náo nhiệt ấy, chúng ta càng nhớ quay quắt những tiếng rao hàng rong mộc mạc ngày xưa: nghe bình dị, vừa phải mà cũng đi vào lòng người. DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản “Gánh Hàng Rong” nổi tiếng của nhạc sỹ Lê Quốc Dũng, người vừa vĩnh viễn chia tay chúng ta đầu năm nay, ngày 11/3/2023, sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi.
Nhạc sĩ Lê Quốc Dũng, hình chụp năm 2012. Ảnh: Lê Quốc Hùng
Ông sinh năm 1963, trong gia đình có cha là nhạc công. Thuở nhỏ, gia đình ông nghèo khó, cha mẹ phải chạy ngược xuôi nuôi cả nhà, do đó không muốn các con theo nghề. Ông tự học bằng cách mượn đàn, trống, học lỏm khi cha dạy học trò.
Ông vốn dự định trở thành nhạc công nhưng sau đó lại mê nghề sáng tác. Lê Quốc Dũng bắt đầu viết nhạc từ năm 17, 18 tuổi với ca khúc đầu tiên là Nắng xuân. Năm 2000, đạo diễn Xuân Phước mời ông viết nhạc cho phim truyền hình Bóng biển. Ông gây chú ý với ca khúc Nữ sinh trong phim truyền hình cùng tên, chuyển thể từ truyện Nguyễn Nhật Ánh, phát sóng năm 2008.
Nhiều ca khúc của ông gây tiếng vang, gồm Gánh hàng rong, Nụ hôn mùa xuân, Tình băng giá, Tuyệt vời khi có em. Trong đó, Gánh hàng rong – ca khúc viết về phận người mưu sinh giữa đô thị – được nhiều ca sĩ thu âm như Phương Thanh, Minh Tuyết, Nhật Tinh Anh, Ngọc Mai, Nguyễn Hồng Ân.
Đạo diễn Lý Hải cho biết những năm 1980, khi anh còn đi hát, Lê Quốc Dũng là nhạc công, cả hai nhiều dịp đứng chung sân khấu. Anh từng thể hiện nhạc phẩm Ngày về do ông sáng tác. “Ngày đó, tôi và anh mê món gà nướng muối ớt, cả hai thường cùng nhau ra quán ăn. Sau này, tôi nổi tiếng rồi làm phim, anh chuyên tâm viết nhạc, không còn dịp nói chuyện nhiều nhưng vẫn luôn quan tâm về nhau”, Lý Hải nói. Trong ký ức của đạo diễn, nhạc sĩ hồn hậu, chất phác, luôn nhiệt tình hỗ trợ đàn em.
Ông bị ung thư phổi nhiều năm qua, bệnh đã di căn đến cổ họng. Trước khi qua đời, nhạc sĩ điều trị ở Bệnh viện Ung Bướu, hồi tháng 2 bác sĩ cho ông về vì sức khỏe quá yếu.
Cuối đời, nhạc sĩ sống trong căn nhà ở ngõ hẻm thuộc phường Cầu Kho (quận 1), mọi sinh hoạt, ăn uống đều phụ thuộc vào em trai. Theo người em, vợ và các con ông đã đi xuất khẩu lao động từ lâu, gia cảnh cũng khó khăn nên không phụ giúp được gì nhiều. Những năm gần đây, dù bệnh tật, Quốc Dũng vẫn chuyên tâm sáng tác mỗi khi thấy khỏe, nhiều bài chưa công bố. Hôm 17/2, đại diện Hội nhạc sĩ TP HCM và nhiều nhạc sĩ kêu gọi chung tay hỗ trợ ông điều trị.
Khoảng thập niên 1980 – 1990, DòngNhạcXưa còn nhớ bản ‘Ngõ vắng xôn xao’ của nhạc sỹ Trần Quang Huy với giai điệu vui tươi và lời ca dung dị trở nên rất thịnh hành qua giọng ca của ca sỹ Bảo Yến, được phát đi phát lại trên radio, đài truyền hình TPHCM và trên rất nhiều chương trình ca nhạc dưới dạng băng cassette.
Nhạc sỹ Trần Quang Huy (1938 – 2009).
Một ngõ vắng xôn xao Nằm trong lòng phố lớn Một tiếng nói yêu thương Cho lòng thêm tơ vương Một đám lá thu bay Rắc vương đầy ngõ vắng Một chùm hoa trưa nắng Xôn xao cả lòng tôi
Tôi yêu đời làm một bông hoa nắng Tôi yêu người làm ngõ vắng dịu êm Trong yên lặng mà lại mênh mông lắm Hãy ngước nhìn kìa trời xanh bao la
Vì nắng mãi nên mưa Gội trưa hè loang nước Vì muốn nói với nhau Nên nhìn nhau thêm lâu Chiều ngõ vắng xôn xao Có thêm bầy bé gái Cùng nhảy dây khoe áo Giăng hoa ngập hồn tôi
Khi con người để lòng yêu ngõ vắng Thêm rung động được đứng ngắm trời mây Ai đã từng một lần qua nơi ấy Khi xa rồi lòng bỗng thấy xôn xao
Ngõ vắng xôn xao (Trần Quang Huy).
Nhạc sỹ Trần Quang Huy sinh năm 1938 và mất năm 2009. Sáng tác của ông chia làm 3 mảng: nhạc cách mạng, nhạc thiếu nhi và tình ca. Chúng tôi còn nhớ thuở nhỏ, đứa trẻ nào cũng thuộc bài hát vui tươi ‘Bông hồng tặng cô’
Còn về tình ca, ngoài ca khúc ‘Ngõ vắng xôn xao’, một bản khác của Trần Quang Huy cũng rất được yêu thích, đó là ‘Tình biển’
Xem thêm thông tin về nhạc sỹ Trần Quang Huy trên Wikipedia.
Trong một bài viết mà DòngNhạcXưa đăng cách đây 10 năm (tháng 06/2013) về nhạc phẩm ‘Bài hát cho người kỹ nữ‘, chúng tôi có đặt ra một thắc mắc về đồng tác giả, nhạc sỹ Duy Trung, là ai và liệu bài hát nổi tiếng này có liên hệ gì với câu chuyện về cô Cẩm Nhung.
Rất may mắn, đầu tháng 11/2023, chúng tôi nhận được phản hồi của chính tác giả Duy Trung và qua đó nhiều chi tiết tưởng chừng mãi mãi bị lãng quên đã được làm sáng tỏ. Trước khi bắt đầu bài viết này, một lần nữa, DòngNhạcXưa xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của nhạc sỹ Duy Trung và chúc ông luôn dồi dào sức khỏe, an hưởng tuổi già bên người thân và gia đình.
Bài ca cho người kỹ nữ. Bản gốc do tác giả, nhạc sỹ Duy Trung gởi tặng DongNhacXua.com
Đôi nét về nhạc sỹ Duy Trung
Nhạc sỹ Duy Trung. Ảnh tác giả gởi tặng DongNhacXua, tháng 11/2023.
Nhạc sỹ Duy Trung tên thật là Trương Văn Trung, năm nay (2023) cũng đã ngoài 70 và đang an hưởng tuổi già ở thành phố Atlanta, Hoa Kỳ.
Sau khi học xong trung học ở trường Phan Bội Châu (Phan Thiết), cũng như bao ‘chàng trai thế hệ’, ông tham gia quân đội và số phận đã đưa đẩy chàng trai trẻ xuôi ra tận Vùng 1 chiến thuật, đóng quân ở Quảng Ngãi.
Năm 1973, ông được thuyên chuyển về Sài gòn, tạm thời làm việc trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. Sau đó Duy Trung lại được chuyển qua Trung Tâm Quân Báo. Cũng trong thời gian này, ông gặp người bạn đời của mình. Sau khi lấy vợ, ông được thuyên chuyển về trường Cây Mai, nằm trong Quân trường Huấn luyện Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Ông làm ở phòng Nghiên Cứu và Sưu Tầm chuyên dịch các tài liệu tình báo ra tiếng Việt.
Sau năm 1975, ông sang định cư ở Hoa Kỳ, học thêm về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng và tiếp tục niềm đam mê với âm nhạc cho đến ngày nay.
Nhạc sỹ Duy Trung và đồng nghiệp trẻ.
Về hoàn cảnh ra đời của bản ‘Bài ca cho người kỹ nữ’
Theo lời tâm sự của chính nhạc sỹ Duy Trung thì bản này là do chính ông sáng tác, với phần hiệu chỉnh của nhạc sỹ Nhật Ngân và tuyệt đối không liên quan gì đến chuyện cô Cẩm Nhung.
Trong thời gian chiến tranh, Chú được đưa ra tỉnh Quảng Ngãi làm việc. Lúc đó Chú còn rất trẻ và độc thân. Một người bạn, sĩ quan trong bộ tham mưu của tướng Toàn, Tư lệnh Sư đoàn 2, đóng quân ở thị xã Quảng Ngãi rủ Chú đi chơi. Hắn đưa Chú vào một Mini Club, nơi giải trí cuối tuần dành cho các sĩ quan trong Bộ Tư Lệnh. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chú mới biết thế nào là vũ trường. Thật là quê ! 🙂
Chú nhớ là không gian ở đây không lớn lắm, có lẽ chứa cỡ 30 người là đầy, nhưng có đầy đủ phương tiện, gồm 1 ban nhạc, quầy bar, một sàn nhảy và vài cái bàn cho khách ngồi. Thật ấm cúng vì đèn màu rất mờ. Khoảng 4 hay 5 người đẹp lúc nào cũng tỏ ra ân cần mời mọc. Lúc đó Chú .. chưa … biết nhảy 🙂 nên chỉ ngồi uống beer và nhìn mọi người dìu nhau theo các điệu Rumba, Tango v.v… Các cô gái thay phiên nhau trò chuyện với từng người rồi đưa nhau ra sàn nhảy, ôm nhau một cách vô tư .. Hình như lúc đó Chú rất thánh thiện: trai gái không phải là tình nhân không được ôm nhau. Cuối cùng Chú cũng được một cô tới chỗ Chú ngồi bắt chuyện. Cô ấy khá xinh, nhỏ người dáng như một học sinh. Chú đoán đúng vì cô ấy tiết lộ là học sinh của một trường trung học. Chú cũng khai thật với cô ta là Chú không biết nhảy (Quê lắm nha!) Nói chuyện được vài phút, cô ta gặp một sĩ quan quen biết và chào hỏi thân thiết . Cô ấy hẹn gặp Chú sau và cả 2 dìu nhau ra sàn nhảy. Đêm đó khi về lại doanh trại, hình ảnh cô gái cứ ám ảnh tâm tư Chú, thôi thúc Chú phải viết ra, cái gì đó để lòng mình nhẹ bớt nỗi ưu tư . Thế là ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ ra đời. Có thể nói đây là sáng tác đầu tiên của một đời người nghệ sỹ! Bài này không có liên quan gì tới vũ nữ Cẩm Nhung mà bà con cứ gán ghép. Chú đọc báo thấy họ cứ nói như thế, nhưng Chú không biết làm sao để đính chính. Rồi thời gian cứ trôi đi, Chú tiếp tục sáng tác nhưng chỉ để đó chớ không biết làm gì .
Còn về mối thân tình với nhạc sỹ Nhật Ngân, nhạc sỹ Duy Trung cho biết thêm:
Khoảng năm 1969-1970, Chú có người anh ruột là Trương Văn Thu. Ông anh của Chú là Nhân viên Kỹ thuật trong ban Tâm Lý Chiến của Quân trường Quang Trung. Anh ấy quen với Nhật Ngân vì lúc đó Nhật Ngân là trưởng ban nhạc trong Ban Tâm Lý Chiến (Nhật Ngân chơi Guitar Bass). Ông Anh của Chú biết Chú có soạn nhạc nên đề nghị Chú gởi tập nhạc về cho anh ấy để anh đưa cho Nhật Ngân. Chú đã gởi về và có nhờ anh ấy chuyển lời cho Nhật Ngân là sửa lời dùm những câu từ nào không hợp trong bài hát đầu tay ‘Bài ca cho người kỹ nữ’ (BCCNKN). Sau một thời gian, Chú không nhớ là bao lâu, bỗng nhiên tới nhà một người quen, Chú nghe được bài hát ‘Bài ca cho người Kỹ Nữ’ được thu trong băng nhựa qua giọng hát của Elvis Phương.
Ôi thật là cảm khoái, sung sướng tuyệt vời. Thế là bài hát này đã được trình làng với tên tác giả là Trần Hoàng Thu!? Chú hơi ngạc nhiên tên Trần Hoàng Thu từ đâu ra 🙂 Sau này Nhật Ngân có giải thích là vì không liên lạc được với Chú cũng như phải thu gấp nên đặt tên này cho Chú 🙂 … (Thật ra Chú cũng không nhớ tự đặt cho mình một bút hiệu )
Nhà nhạc sỹ tiếp tục cho chúng ta thêm một chi tiết thú vị
Nhật Ngân đã chỉnh sửa dùm cho Chú câu “Ta tiếc cho em trong cuộc đời Kỹ Nữ” thành “Ta tiếc cho em trong đèn màu mờ mờ”. Chú cám ơn Nhật Ngân thật nhiều! Bài này do anh Ngọc Chánh soạn hòa âm và thu trong studio của Shotguns. Bài hát này là nguyên thủy do chính Chú viết, Nhật Ngân chỉ sửa có mỗi một câu ở trên mà thôi. Từng chữ một không có gì thay đổi, kể cả tên bài hát. Chú không hiểu sao từ từ thiên hạ tự thay đổi thành ‘Bài Hát Cho Người Kỹ Nữ’, rồi ‘Tình Kỹ Nữ’. Khi ra hải ngoại Chú có gặp Elvis Phương và cám ơn anh ấy đã hát bằng tất cả tâm hồn của một ca sỹ, chuyên chở được nỗi lòng da diết của Chú.
Về nghệ danh ‘Duy Trung’
Tự nhận mình đã già, lúc nhớ lúc quên, thế nhưng khi chúng tôi hỏi về xuất xứ của nghệ danh Duy Trung, nhà nhạc sỹ cho biết:
Chú suy nghĩ, và hồi tưởng lại những chuyện quá khứ xưa thật là xưa …
– Lúc còn bé Chú thường ôm cái máy hát loại “quay dây thiều” để cho gia đình cùng hàng xóm nghe những tuồng tích cải lương . Hát cho đến mòn cây kim luôn 🙂
Có những đêm đầy trăng, Chú cùng các bạn nhỏ hay chơi “tập tuồng”. Nhờ thuộc lòng những tuồng cải lương mà bọn Chú đóng y như hệt … 🙂 Có lẽ trong huyết quảng đã tích tụ dòng máu nghệ sĩ .
– Mẹ Chú hồi còn trẻ, Bà có nhiều sáng tác về thơ văn và hát Chèo. Kể ra cũng lạ. Mẹ Chú đâu có biết chữ Việt mà cũng làm được những bài như thế. Hồi xưa chỉ là truyền miệng chớ không có ai viết lại. Những bài hát Chèo dành cho những cuộc đua thuyền, khích động những thanh niên, thêm sức cho thuyền nhân trong những cuộc đua ở thôn làng .
– Khi vào Phan thiết học Trung học, Chú mới biết mình một ông Cậu là Họa sĩ Duy Liêm. Cậu ấy rất nổi tiếng vẽ những tranh và kiểu chữ lạ lùng không trùng khớp với ai. Chú rất thích những tranh vẽ của Cậu. Nhưng Cậu không còn ở Phan Thiết mà đã dời về Sài Gòn.
– Một Cậu khác là Trần Duy Chánh, diễn viên điện ảnh, anh của Trần Duy Liêm . Sau này khi Chú vào Sài Gòn, Chú thường tới nhà Cậu Chánh chơi. Chú gọi Cậu theo thứ tự là Cậu Tư. Có lẽ Chữ ‘DUY’ Chú dùng để ghép thành nghệ danh cho Chú: DUY TRUNG. HIện tại Cậu Tư còn sống và đang ở Hawaii.