Vĩnh biệt nhạc sỹ Tô Vũ – Hoàng Phú (1923-2014)

Ngày 13/05/2014, tân nhạc Việt Nam chứng kiến sự ra đi mãi mãi của một trong những bậc tiền bối, người đã đặt những viên gạch đầu tiên cho ngôi nhà nhạc Việt. [dongnhacxua.com] muốn nói đến sự ra đi của nhạc sỹ Tô Vũ, tức Hoàng Phú của nhóm Đồng Vọng ngày nào. Qua bài viết này, chúng tôi xin được phép gởi lời chia buồn đến gia quyến nhà nhạc sỹ và cầu chúc linh hồn ông an nghỉ miền miên viễn.

Em đến thăm anh một chiều mưa (Tô Vũ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Em đến thăm anh một chiều mưa (Tô Vũ). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

em-den-tham-anh-mot-chieu-mua--1--to-vu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com em-den-tham-anh-mot-chieu-mua--2--to-vu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ TÔ VŨ
(Nguồn: wikipedia.com)

Nhạc sỹ Tô Vũ. Ảnh: Hà Đình Nguyên (thanhnien.com.vn)
Nhạc sỹ Tô Vũ. Ảnh: Hà Đình Nguyên (thanhnien.com.vn)

Tô Vũ (tên thật: Hoàng Phú, 9 tháng 4 năm 1923 – 13 tháng 5 năm 2014) là một nhạc sĩgiáo sư, nhà nghiên cứu âm nhạcđương đại của Việt Nam. Ông cùng với người anh là nhạc sĩ Hoàng Quý đã có mặt từ những ngày đầu tiên của tân nhạc Việt Namđồng thời là những thành viên sáng lập ra nhóm Đồng Vọng, đại diện cho âm phái Hải Phòng. Hoạt động của nhóm trong làng âm nhạc Việt Nam thời tiền chiến từng tạo nên tiếng vang và để lại ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Nghệ danh Tô Vũ là do các bạn văn nghệ đặt cho ông, mượn tên của nhà ngoại giao Tô Vũ thời Hán Vũ Đế ở Trung Quốc.

Tô Vũ sinh ngày 9 tháng 4 năm 1923 tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang nhưng từ khi còn nhỏ ông đã chuyển về sống tại Hải Phòng cùng bốn người anh em ruột của mình. Hoàng Phú ít hơn người anh Hoàng Quý ba tuổi. Mẹ mất sớm, bố đi làm xa nên chủ yếu gửi tiền về nuôi các anh em ông. Trong số các anh em, Hoàng Quý và Hoàng Phú đặc biệt say mê âm nhạc. Hai anh em học được những kiến thức âm nhạc đầu tiên (violin) qua một phụ nữ người Pháp tên Leprêtre là chủ cửa hiệu Orphée, chuyên bán nhạc cụ và sách nhạc Tây ở Hải Phòng thời đó. Tuy nhiên, người tích cực khuyến khích hai anh em họ Hoàng đi theo “âm nhạc cải cách” (tân nhạc) là thầy dạy môn văn chương Pháp tên là Ngô Đình Hộ (tức nhạc sĩ Lê Thương), để cùng thầy biểu diễn trong các tiết mục văn nghệ của trường.

Năm 1939, Hoàng Quý và Hoàng Phú (Tô Vũ) quy tụ một số bạn bè trong đó có Phạm NgữCanh Thân và Văn Cao để lập ra nhóm nhạc Đồng Vọng. Nhóm Đồng Vọng sinh ra từ phong trào hướng đạo sinh do Hoàng Quý làm trưởng nhóm, lập ra với ý nghĩa như là tiếng gọi tập hợp thanh niên lại với nhau. Từ phương châm này, nhóm Đồng Vọng đã góp phần cổ suý cho nền tân nhạc Việt Nam. Nhóm sáng tác được khoảng 60 ca khúc mang nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng dân tộc. Ngoài ra, một số tình khúc của nhóm như Cô láng giềng của Hoàng Quý và Bến xuân của Văn Cao cho đến nay vẫn được coi như những tuyệt phẩm của nền tân nhạc Việt Nam.

Cũng như người anh Hoàng Quý, Hoàng Phú sớm tham gia Việt Minh. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ tại miền Bắc, Hoàng Phú gia nhập Ban Văn nghệ tuyên truyềnKiến An (Hải Phòng), còn Hoàng Quý cũng tích cực sáng tác và hoạt động cách mạng. Các ca khúc Cảm tử quânSa trường hành khúc của ông đã ra đời trong giai đoạn này. Nhưng vì mắc bệnh nan y nên Hoàng Quý đã qua đời giữa năm 1946 khi mới 26 tuổi. Khi đó Hoàng Phú vẫn hoạt động cách mạng trên địa bàn Hải Phòng. Ca khúc nổi tiếng nhất của ông là Em đến thăm anh một chiều mưa được sáng tác vào năm 1947, khi đơn vị của ông đang công tác tại huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Cũng trong thời kỳ này, nghệ danh Tô Vũ của Hoàng Phú đã được các bạn bè cùng hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ đặt cho ông.

Dù nhận được học bổng du học Pháp nhưng do anh trai là nhạc sĩ Hoàng Quý mất sớm nên Hoàng Phú quyết định ở lại Hải Phòng để lo cho những người em còn lại. Ông xin vào dạy hợp đồng ở trường Bình Chuẩn (tiền thân là Trường Bonnal, nay là Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền). Năm 1948, Hoàng Phú được chọn là đại biểu của Chiến khu 3 đi dự Đại hội Văn hóa Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất. Năm 1950, Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật được thành lập, Tô Vũ được mời tham gia trong ban nghiên cứu âm nhạc do nhạc sĩ Văn Cao làm trưởng ban.

Khác với nhiều tên tuổi của thời kỳ đầu tân nhạc Việt Nam (nhạc tiền chiến) không còn hoặc ít sáng tác về sau, Tô Vũ vẫn tiếp tục sáng tác trong giai đoạn chiến tranh sau này, nổi bật là các ca khúc như Cấy chiêmNhớ ơn Hồ Chí Minh và Như hoa hướng dương. Bên cạnh viết bài hát, ông còn sáng tác nhạc cho các loại hình sân khấu như tuồngchèo,cải lương, múa rối,… và cho điện ảnh. Ông có nhiều công trình nghiên cứu về chèo, cồng chiêngđàn đá, thang âm – điệu thức và âm nhạc dân gian Việt Nam.[1]

Ông cũng từng đảm nhiệm cương vị Viện trưởng Viện âm nhạc cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh, Thư ký Đoàn Nhạc sĩ Khu III đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và là một trong những người đầu tiên góp phần xây dựng Trường Âm nhạc Việt Nam (Nhạc viện Quốc gia sau này). Ông còn là một nhà nghiên cứu có thâm niên và uy tín trong lĩnh vực âm nhạc dân tộc (nhạc truyền thống) cũng như âm nhạc hiện đại. Bên cạnh đó, ông cũng có công lớn trong việc đào tạo nhiều tài năng thế hệ sáng tác nhạc sau này. Sau sự kiện 1975, ông chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh và làm Viện phó Viện Nghiên cứu Âm nhạc, phụ trách bộ phận phía nam.[1] Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt 1 (năm 2001).

Tô Vũ qua đời hồi 3 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 5 năm 2014 tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 92 tuổi.[1]

TÔ VŨ VÀ NHỮNG KỶ NIỆM TỪ CHIỀU MƯA NĂM ẤY
(Nguồn: vnExpress.net)

Hơn nửa thế kỷ trước, ca khúc “Em đến thăm anh một chiều mưa” từng làm xao xuyến bao con tim đang yêu. Tác giả của ca khúc bất hủ này giờ đã bước vào tuổi 80 nhưng vẫn còn rất sung sức. Dưới đây là tâm sự của ông.

– Ông có thể nói đôi chút về hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Em đến thăm anh một chiều mưa”, “Tiếng chuông chiều thu”, “Tạ từ”…?

– Mọi người nhớ nhiều đến những ca khúc này vì nó được phổ biến và lưu truyền ở miền Nam từ lúc ra đời (1947-1948) cho đến nay. Em đến thăm anh một chiều mưa tôi viết năm 1947, khi đơn vị tuyên truyền huyện An Lão chúng tôi tiếp nhận 3 nữ cứu thương của huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, trên đường phục vụ chiến đấu bị lạc đơn vị. Được khoảng 2 tháng thì 3 cô gái ấy phải trở về đơn vị cũ cách chỗ chúng tôi khoảng 8 km đường bộ. Khi chia tay, chúng tôi hẹn sẽ sang thăm nhau vào chủ nhật mỗi tuần. Hôm ấy trời mưa, chúng tôi không thể sang thăm bên kia được. Buổi chiều, trời vẫn mưa, tôi đang ở nhà thì em một mình đội mưa đến thăm… Xúc động, tôi đã viết nên bài hát này. Tuy nhiên, theo thời gian, tôi không nhớ nổi người nào trong 3 cô gái đã hiện ra với tôi trong chiều mưa năm ấy. Còn bài Tạ từ là tôi viết giùm cho một người bạn vào năm 1947, anh ấy tên là Nguyễn Văn Huấn (hiện là bác sĩ, sống ở Pháp) đem lòng yêu tiểu thư người Hà Nội tên là Ánh Hà, theo gia đình sơ tán về Thái Bình, nhưng sau đó gia đình cô này không quay về Hà Nội.

– Anh trai Hoàng Quý của ông rất nổi tiếng với “Cô láng giềng”. Ông có biết gì về cô láng giềng này không?

– Hồi đó, chúng tôi chưa biết viết theo kiểu người thật, việc thật. Có thể có một phần sự thực cộng với ít nhiều hư cấu, bởi xung quanh nhà tôi ở Hải Phòng, chẳng thấy nhà ai có vườn, mà chẳng thấy nhà nào trồng hoa tường vi để đôi ta cùng đứng bên bờ tường vi cả.

– Là một nhạc sĩ xuất phát từ trào lưu tân nhạc, lại là người gốc Bắc, do đâu ông lĩnh hội một cách thấu đáo về cổ nhạc và cả đờn ca tài tử Nam Bộ?

– Tôi là người đầu tiên nghiên cứu về chèo cổ một cách hệ thống, bài bản. Nhưng rồi tôi nghĩ, chỉ biết âm nhạc cổ truyền của một nửa nước thì chưa được, bèn quyết tâm theo GS Lưu Hữu Phước vào Nam làm việc, nghiên cứu về các loại nhạc cụ còn mới mẻ như đàn đá, cồng chiêng Tây Nguyên.

(Theo Thanh Niên)

[footer]

Phản đối Trung Quốc bành trướng trên biển Đông: Gần lắm Trường Sa

Mấy ngày gần đây, Trung Quốc lại ngang ngược đưa dàn khoan vào thềm lục địa của Việt Nam, một hành động leo thang trong nỗ lực thôn tính cả vùng biển Đông. Cũng như hàng triệu người có lương tri, nhất là những người con dân tộc Việt, [dongnhacxua.com] xin góp một tiếng phản đối thông qua một nhạc phẩm ra đời cách đây đã hơn 30 năm: ‘Gần lắm Trường Sa’ của nhạc sỹ Hình Phước Long.

ĐÔI NÉT VỀ BÀI HÁT ‘GẦN LẮM TRƯỜNG SA’ CỦA NHẠC SỸ HÌNH PHƯỚC LONG
(Nguồn: BaiCaDiCungNamThang.net)

Đã gần 30 năm trôi qua kể từ khi bài hát ra đời, nhưng giai điệu thân thương, quen thuộc bài hát “Gần lắm Trường Sa” của nhạc sĩ Hình Phước Long vẫn không bị lãng quên mà ngày càng đi sâu vào lòng người. Bài hát chẳng những là “bài ruột” của người lính Hải quân mà còn là bài hát được nhiều người trên khắp mọi miền Tổ quốc yêu thích. Và mỗi lần biển Đông “dậy sóng” thì giai điệu bài hát lại vang xa, càng nhắc nhở chúng ta luôn hướng về nơi ấy- nơi quần đảo xa xôi đang có những người lính ngày đêm chắc tay súng canh giữ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Nhạc sỹ Hình Phước Long. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net
Nhạc sỹ Hình Phước Long. Ảnh: BaiCaDiCungNamThang.net

Nhạc sĩ Hình Phước Long, sinh năm 1950, tại huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tỉnh Khánh Hòa quê ông ngoài thành phố biển Nha Trang xinh đẹp, còn là nơi đặt bản doanh của Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 4 với vịnh Cam Ranh nổi tiếng về vị trí chiến lược quân sự, nên ông có dịp chứng kiến nhiều hình ảnh cũng như hoạt động của lực lượng Hải quân Nhân dân.

Về hoàn cảnh ra đời bài hát ông cho biết: Trong một lần dự trại sáng tác được tổ chức tại TP Nha Trang, vào năm 1982 của thế kỷ trước, một chiều khi ông đạp xe dọc đường Trần Phú đã bất ngờ bắt gặp hình ảnh một cô gái mặc áo dài đang đứng dõi mắt về hướng biển khơi. Hình ảnh một người con gái đứng cô đơn giữa trời và biển trong ánh hoàng hôn dần buông, đã làm trái tim người nhạc sĩ xúc động thật sự và ông đã tự đặt cho mình câu hỏi: Phải chăng cô gái ấy có người yêu là lính Hải quân đang làm nhiệm vụ tận ngoài quần đảo Trường Sa và cô đang gửi nỗi nhớ thương của mình về phương trời xa xăm ấy?

Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa nằm cách Cam Ranh trên 459Km, nơi mà ông chưa từng đặt chân tới mà chỉ nghe kể lại rằng nơi ấy điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, chỉ có cây phong ba, cánh chim hải âu làm bạn với những người lính trong sóng cuồng, bão giật… Và từ hình ảnh bất chợt ấy, cảm thông với nỗi niềm của một tình yêu đôi lứa phải tạm xa nhau vì nhiệm vụ, một giai điệu mang hơi hướng dân ca đã chợt lóe lên trong đầu ông:

“Không xa đâu Trường Sa ơi! Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh/ Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em…”

Và với cảm xúc tuôn trào, không lâu sau đó ông hoàn thành bài hát “Gần lắm Trường Sa”, qua giọng hát của ca sĩ Anh Đào, trên sân khấu của đoàn Ca múa nhạc Hải Đăng và sau này của những ca sĩ nổi tiếng khác như Thanh Thúy, Long Nhật, Khánh Hòa… bài hát đã nhanh chóng lan tỏa khắp nơi. Dù lúc ấy chưa đặt chân đến Trường Sa nhưng những gì ông mô tả rất thật, rất gần gũi với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của những người lính đảo:

“Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương.
Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh gành trúc san hô.
Trường Sa ơi! Biển đảo quê hương, đôi mắt biên cương, vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão giật, đảo quê hương!”

Bài hát không chỉ thay lời một người con gái gửi lòng thương nhớ về người yêu là lính thủy mà là cả một hậu phương lớn đang ngày đêm cùng hướng về nơi ấy.

“Anh ơi có nghe lời người từ phố biển, khi ngọn triều dâng cao.
Khi cánh hải âu về, khi nắng sáng mùa, nơi gành trúc san hô.
Chiều Nha Trang, sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo, Trường Sa ơi!”

Đến năm 1984, nhạc sĩ Hình Phước Long mới có dịp theo đoàn ra thăm Trường Sa. Những người lính Hải quân đã được tận mắt chứng kiến và nghe chính tác giả hát bài “Gần lắm Trường Sa” cho các anh nghe. Đã gần 30 năm trôi qua kể từ khi bài hát ra đời, nhưng với giai điệu thân thương, quen thuộc, bài hát “Gần lắm Trường Sa” của nhạc sĩ Hình Phước Long ngày càng đi sâu vào lòng người. Bài hát chẳng những là “bài ruột” của người lính Hải quân mà còn là bài hát được nhiều người trên khắp miền Tổ quốc yêu thích. Và mỗi lần biển Đông “dậy sóng” do các âm mưu đen tối gây ra, thì giai điệu bài hát lại vang xa, càng nhắc nhở chúng ta luôn hướng về nơi ấy- nơi quần đảo xa xôi có những người lính đang ngày đêm chắc tay súng canh giữ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đến nay nhạc sĩ Hình Phước Long đã sáng tác 15 ca khúc về Trường Sa, nhưng có lẽ bài hát “Gần lắm Trường Sa” ông sáng tác năm 1982 đã góp phần làm cho Trường Sa- không xa, là một bài hát đưa tên tuổi nhạc sĩ sáng tác, lẫn ca sĩ thể hiện sống mãi với thời gian.

Anh Tiến (TP Vĩnh Long)

Gần lắm Trường Sa
Sáng tác: Hình Phước Long
Trình bày: Hoài Thanh

Mỗi cánh thư về từ đảo xa
Anh thường nói rằng: “Trường Sa xa lắm em ơi !”
Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội thân yêu
Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng, quanh đảo trúc san hô
Trường Sa ơi ! Biển đảo quê hương
Vẫn đứng hiên ngang giữa sóng cồn bão dạt, đảo quê hương
Canh giữ đêm ngày giữa biển khơi
Thương nhớ sao vơi người chiến sỹ Trường Sa ơi !

Không xa đâu Trường Sa ơi !
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em

Mong cánh thư về từ đảo xa
Nơi thành phố này Trường Sa vẫn bên em
Anh ơi có nghe lời người từ phố biển
Khi ngọn triều dâng cao, khi cánh hải âu về
Sóng vỗ điệp trùng quanh đảo trúc san hô
Trường Sa ơi ! Biển đảo quê hương
Vẫn thấy anh đang giữa sóng cồn giữ đảo, đảo quê hương
Canh giữ đêm ngày giữa biển khơi
Thương nhớ sao vơi người chiến sĩ Trường Sa ơi !

Không xa đâu Trường Sa ơi !
Không xa đâu Trường Sa ơi !
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em

[footer]

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Khúc Hát Ân Tình (Xuân Tiên)

[dongnhacxua.com] chúng tôi không có nguồn tư liệu đáng tin cậy để biết được hoàn cảnh mà nhạc sỹ Xuân Tiên sáng tác bản ‘Khúc hát ân tình’. Theo tư liệu trên wikipedia.com thì nhạc sỹ Xuân Tiên sinh năm 1921, tức thuộc hàng “trưởng lão” của nền tân nhạc Việt Nam. Hiện ông đang an hưởng tuổi già ở xứ sở Australia. Theo hiển ý của chúng tôi, có lẽ nhà nhạc sỹ sáng tác ‘Khúc hát ân tình’ sau năm 1954, khi con sông Bến Hải vô tình trở thành chứng nhân bất đắc dĩ cho một trong những cuộc di cư lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Nước Việt Nam đã thống nhất, đúng như mơ ước của nhạc sỹ Xuân Tiên về viễn cảnh “một nhà thân ái”. Nhân bài viết này, [dongnhacxua.com] chúc nhạc sỹ Xuân Tiên và gia đình nhiều sức khỏe và nếu có duyên thì người yêu nhạc thuộc thế hệ trẻ như chúng tôi có thêm nhiều tư liệu về bản nhạc nổi tiếng này để cung cấp cho quý vị.

Khúc hát ân tình (Xuân Tiên). Ảnh: http://phammusic.free.fr/
Khúc hát ân tình (Xuân Tiên). Ảnh: http://phammusic.free.fr/

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ XUÂN TIÊN
(Nguồn: phammusic.free.fr)

xuan-tien--phammusic.free.fr--dongnhacxua.com

Ngày sinh 28 tháng giêng, 1921
Nơi sinh Hà Nội, Việt Nam

Quá trình rèn luyện kỹ năng sử dụng nhạc cụ và kiến thức nhạc học

1927 Mandoline, nhạc lý Tây phương và Trung Hoa

1936 Clarinette, Saxophone và Sáo Tây, hoà âm tây phương

1941 Các nhạc cụ cổ truyền Việt Nam, Thái Lan, Lào và Cam Bốt

Khảo sát âm nhạc ba miền Bắc, Trung, Nam

1941-46 Trumpet, Trombone, Banjo, Guitar, Violin, Xylophone, Vibraphone, Piano, Accordeon, Button accordeon, Bandoneon.

Trình tấu

1941-42 Trình tấu Clarinette, Saxophone và Sáo Tây từ Bắc chí Nam

Xuất bản

1949 Các sách Tự học Kỹ Thuật Ðộc Tấu Clarinette, Saxophone và Sáo Tre

Cải tiến sáo tre

1950 Cùng với bào huynh là nhạc sĩ Xuân Lôi cải tiến sáo tre thành hai loại 10 lỗ và 13 lổ có khả năng bao gồm nhiều âm giai khác nhau, kể cả âm giai dị chuyển. Hai loại sáo này hiện được tàng trữ tại Musée de l’Homme, Paris, France.

Ðiều khiển dàn nhạc

1944-46 Hà Nội: Victoria, Muolin Rouge, Hotel Splendide và Lucky Star

1951-52 Nam Ðịnh: Văn Hoa

1952-75 Sài gòn: Văn Cảnh, Ðại Kim Ðô, Blue Diamond, Eden Rock, Palace Hotel, Bách Hỷ

Làm việc với các đài phát thanh

1952-75 Pháp Á, Sàigòn, Quân Ðội, Mẹ Việt Nam

Sáng chế các loại nhạc cụ mới

1976 Sáng chế cây đàn 60 dây có khả năng bao gồm tất cả các âm giai. Kỹ thuật trình tấu tương tự như cây đàn Tranh, nhưng tay phải để gảy giai điệu và tay trái để đệm hợp âm 

1980 Sáng chế căy đàn bầu mới với trái bầu dài làm bằng hộ khuếch âm. Ðàn này đã được đem ra trình tấu nhiều lần ở Úc Ðại Lợi.

dan-bau-xuan-tien

Những ca khúc phổ thông nhất

1939-42 “Chờ một kiếp mai”, “Trên kiếp hoa”

1952-62 “Khúc hát ân tình”, “Hận Ðồ Bàn”, “Về dưới mái nhà”, “Duyên Tình”

1963-83 “Ðường đi lối về”, “Xa quê hương”, “Ðất Việt”

1987-95 “Lòng người xa quê”, “Tiếng bình minh”, “Tiếng trống trong rừng sâu”

[footer]

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Giấc Mơ Hồi Hương

Trong ký ức của nhiều thế hệ người miền Bắc, đặc biệt là những người con của Hà Nội, phải lìa xa miền quê yêu dấu để di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954, bản ‘Giấc mơ hồi hương’ của nhạc sỹ Vũ Thành vẫn mãi là những khắc khoải khó phai mờ trong tâm trí. Không phải ai cũng có thể thuộc được bài này và không phải ca sỹ nào cũng có thể hát tròn trịa được hết các nốt nhạc, thế nhưng ‘Giấc mơ hồi hương’ như là một cái gì đó thật đặc biệt, thật lôi cuốn để cho tất cả những ai ‘lìa xa thành đô yêu dấu’ nuôi hoài một ‘giấc mơ hồi hương’.

Nhân bài viết này, [dongnhacxua.com] xin kính chúc linh hồn nhạc sỹ Vũ Thành thảnh thơi an nghĩ nơi chốn xa xăm!

Giấc mơ hồi hương (Vũ Thành). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Giấc mơ hồi hương (Vũ Thành). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

giac-mo-hoi-huong--1--vu-thanh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ VŨ THÀNH
(Nguồn: wikipedia.com)

nhac-sy-vu-thanh--dongnhacxua.comNhạc sĩ Vũ Thành sinh năm 1926 tại Hà Nội. Vũ Thành vừa là nhạc trưởng vừa là một nhạc sĩ sáng tác. Trước năm 1954, nhạc sĩ Vũ Thành là công chức và là nhạc trưởng trong ban nhạc “Việt Nhạc” của đài phát thanh Hà Nội. Chính thời kỳ này nhạc của Vũ Thành được hát nhiều nhất. Âm hưởng thanh tao, óng ả của những dòng nhạc tuyệt vời của Vũ Thành đem đến một luồng không khí mới mẻ cho nhạc Việt, lúc đó còn nặng những âm điệu ủ ê, sướt mướt của cung Ré thứ trong hầu hết nhạc của Đặng Thế Phong, của Văn Chung và một số của Văn Cao. Sau năm 1954, Vũ Thành di cư vào Nam. Ông có thời gian làm chỉ huy trưởng ngành quân nhạc của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và từng giữ chức vụ chủ sự phòng văn nghệ Đài phát thanh Quốc gia Sài Gòn. Sau năm 1975, ông định cư và mất tại Hoa Kỳ năm 1987.

Ngoài tài năng của một người viết “Giai điệu” ông còn là người soạn “hòa âm phối khí” có công nhất với tân nhạc Việt Nam. Công việc này trái với sáng tác ca khúc, ông làm rất nhiều. Có thể nói hầu hết các ca khúc của Phạm DuyDương Thiệu TướcThẩm OánhCung Tiến được ông làm đẹp bằng những hoà âm công phu, tuyệt diệu. Ông đã nâng những ca khúc phổ thông lên hàng tác phẩm nghệ thuật.

Nhạc sĩ Phạm Duy viết về Vũ Thành (trong bài “Phòng Trà Đầu Tiên ở Hà Nội”):

“Tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, có thêm Phòng Trà Tuyết Sơn với Vũ Thành thổi sáo tây và đánh guitare tay trái. Nói về nhạc sĩ Vũ Thành thì ông là một trong những người viết nhạc đầu tiên của Tân Nhạc.

Đầu thập niên 40, nhạc Việt còn nặng những âm điệu ủ ê, sướt mướt của cung Ré thứ trong hầu hết nhạc của Đặng Thế Phong, của Văn Chung và một số của Văn Cao. Ca khúc Vũ Thành có nét nhạc thanh tao, óng ả đem đến một luồng không khí mới mẻ cho Tân Nhạc. Lấy ví dụ bài Say Nhạc Canh Tàn:

Gió xuân đưa mây chiều về
Nắng Xuân đưa tin nhạn về
Giờ này hương lúa thương gợi tình quê
Lòng người tha hương khóc biệt ly
Gió Xuân đưa hương ngập trời.
Ý Xuân thiết tha nghẹn lời
Giờ này ngân phím loan nặng tình phai
Đàn buông lãng du hồn u hoài…
Đêm tha hương lắng trong ly rượu ngát hương
Giấc cô miên canh trường
Hồn người chinh phụ cuốn theo mây nơi sa trường
Âm thanh xưa lả lướt trên đường tô
Nằm gieo mối cùng sầu lai láng mơ hồ
Ôi quê hương thấu chăng bao niềm luyến thương
Biết chăng bao đêm trường,
Nhẹ lần đường tơ phím, quan sa tình hờ
Ôi than chi còn nhắc chi tình xưa
Hồn say tiếng đàn hòa thêm khúc đàn lắng mơ hồ…

Cũng vẫn là tình cảm chung của các nhạc sĩ thời đó, nói tới tình quê, tiếng tơ, mối sầu (không hiểu vì sao mà sầu?), ca tụng thiên nhiên… nhưng ca khúc Vũ Thành không nằm trong thể tangorumba hay slow fox mà mang tính chất bán cổ điển Tây Phương, nghe rất sang trọng, quý phái. Tôi tin rằng ca sĩ thời đó như Minh Đỗ là phải chọn nhạc Vũ Thành để hát tại phòng trà…”

[footer]

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Người Đầu Tiên Hát ‘Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương’

Lang thang trên mạng internet để tìm tư liệu cho loạt bài ’60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014)’, [dongnhacxua.com] thu lượm được một tư liệu quý về dòng nhạc xưa ở miền Bắc.

Nghệ sỹ Văn Hanh với 2 chiếc đĩa rất hiếm hoi còn giữ được, thu âm những bài hát của mình từ năm 1957. Ảnh: Hà Tùng Long
Nghệ sỹ Văn Hanh với 2 chiếc đĩa rất hiếm hoi còn giữ được, thu âm những bài hát của mình từ năm 1957. Ảnh: Hà Tùng Long

NGƯỜI ĐÂU TIÊN HÁT ‘CÂU HÒ BÊN BỜ HIỀN LƯƠNG’
(Nguồn: tác giả Hà Tùng Long đăng trên GiaDinh.net.vn )

Giadinh.net – Lâu nay, mỗi lần nhắc đến bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” là người ta nghĩ ngay đến giọng hát ngọt ngào, trong trẻo của nữ Nghệ sỹ Nhân dân Thu Hiền. Thế nhưng ít ai biết được, người đầu tiên hát ca khúc này lúc bài hát vừa “ra lò”, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt lại là nam ca sỹ Văn Hanh – một trong những nam ca sỹ khá nổi tiếng của Đài Tiếng nói Việt Nam lúc bấy giờ. Người ca sỹ ấy giờ đã ở vào tuổi ngoại bát tuần, thế nhưng mỗi lần nhắc đến “Câu hò bên bờ Hiền Lương” , trong ông lại trỗi dậy bao kỷ niệm. 

“Say” hát quên cả ngủ

Tiếp chúng tôi trong phòng khách nhỏ bé của căn hộ tập thể thuộc khu tập thể Đài Tiếng nói Việt Nam, nghệ sỹ Văn Hanh bắt đầu câu chuyện với chúng tôi bằng lời giải thích về một sự nhầm lẫn mà bao nhiêu năm qua người đời không hay biết, đó là chữ “bến” và chữ “bờ” trong tựa đề bài hát. Theo ông, lúc nhạc sỹ Hoàng Hiệp gửi bài hát này đến Ban biên tập âm nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam, chính ông là người đã nhìn thấy tận mắt trong bản thảo nhạc và lời của bài hát đề chính xác là “Câu hò bên bờ Hiền Lương”. Và tựa đề đó không chỉ đúng theo cách đặt của tác giả bài hát mà còn đúng với thực tế lúc bấy giờ. Ông nói: “Vào năm 1957, khi bài hát ra đời, đất nước ta đang bị chia cắt làm đôi lấy cầu Hiền Lương làm nơi phân chia ranh giới. Ở phía nam cầu Hiền Lương là đất của địch và ở phía bắc của cầu là đất của ta. Bởi thế, giữa hai bên chỉ có hai bờ đất nhỏ bé chạy dài dọc theo sông Bến Hải chứ làm gì có bến nào để thuyền bè đỗ lại như bây giờ đâu; vậy mà bao năm qua, người ta lại có thể nhầm thành “Câu hò bên bến Hiền Lương…”.

Ông kể, ông đến với bài hát này vừa là một sự tình cờ nhưng cũng như một cái duyên. Vào một buổi tối buồn, ngồi một mình trong phòng chẳng biết làm gì nên ông lang thang lên phòng biên tập xem có bài hát nào mới để tập hát vu vơ cho đỡ buồn. Thường ở phòng biên tập của ban âm nhạc, bao giờ cũng có một phòng để các bài hát, bản nhạc của các nhạc sỹ ở các nơi gửi về. Trong mớ giấy tờ lộn xộn, ông cầm đại một tờ lên, lần giở ra xem thì gặp đúng bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” – bài hát đầu tay của nhạc sỹ Hoàng Hiệp vừa mới gửi về được mấy hôm. Xem qua ca từ, nốt nhạc của bài hát, ông như bị cuốn hút bởi thứ âm điệu rất đặc biệt của bài hát này. Ông mang đàn ra vừa tập hát vừa tự đệm nhạc cho mình thì phát hiện là bài hát này rất phù hợp với chất giọng của ông. Ông lại một mình say sưa với bài hát cho đến lúc gà gáy báo sáng mới sực nhớ là mình quên đi ngủ.

nghe-si-van-hanh--tap-album--giadinh.vn--dongnhacxua.com

“Lúc đó, tôi có cảm tưởng như bài hát này nhạc sỹ Hoàng Hiệp sáng tác để dành cho riêng tôi hát vậy. Bài hát mang âm hưởng dân ca đồng thời lại nuột nà, tình cảm, nó rất phù hợp với khả năng thể hiện của mình. Ngay sáng hôm đó, tôi đã đề nghị với đồng chí phụ trách đoàn ca nhạc của đài cho tôi được hát thu âm bài hát và đã được đồng chí trưởng đoàn đồng ý. Tôi mừng đến nỗi rơi cả nước mắt” – ông bồi hồi nhớ lại.

Theo đúng quy trình, mỗi khi nhận được bài hát từ nhạc sỹ gửi đến, ban biên tập sẽ gửi đến cho ban biên tập nhạc để họ soạn tổng phổ (bản ghi các nốt nhạc đệm của tất cả các loại nhạc cụ dành cho một tác phẩm âm nhạc để các nhạc công nhìn vào đó mà đệm nhạc cho phù hợp hoặc chỉ huy nhìn vào đó để chỉ huy dàn nhạc). Sau đó, ca sỹ sẽ tập hát và ráp nhạc với ban nhạc rồi mới đi thu âm. Thế nhưng với bài hát này, ông đã được phá lệ, bỏ qua khâu soạn tổng phổ mà tập hát và ráp nhạc luôn với nhạc công. “Khi nghe tôi hát thử một vài lần, các anh trong đoàn đã gật đầu đồng ý cho phép ráp nhạc luôn với nhạc công mà không cần tổng phổ. Người đệm đàn cho tôi lúc đó là anh Hoàng Mãnh một pianist khá nổi tiếng thời bấy giờ. Và hai anh em chúng tôi thu âm bài hát này chỉ trong vòng 4 lần là hoàn thiện, sau đó thì được Đài Tiếng nói phát rộng rãi khắp miền Bắc”.

Khóc theo khán giả

Sau khi bài hát được phát sóng rộng rãi trên khắp miền Bắc, Ban biên tập đã nhận được rất nhiều lời yêu cầu phát lại trong chương trình “Hộp thư yêu cầu” của Đài. Nhiều lá thư gửi về cám ơn nhạc sỹ, ca sỹ đã mang lại cho họ một ca khúc thật ý nghĩa, khiến ông vui mừng khôn tả. Trong số những lá thư của khán giả gửi về, ông đã được ban biên tập cho xem bức thư đầy cảm động của một cô gái miền Nam tập kết ra Bắc mà cho đến bây giờ ông vẫn còn nhớ được mấy dòng: “Khi nghe bài hát này, mấy chị em chúng tôi đã ôm nhau khóc nức nở. Càng khóc bao nhiêu, nỗi căm thù giặc Mỹ lại dâng tràn bấy nhiêu. Từng lời ca ngọt ngào, ấm áp mà thiết tha của ca sỹ như đưa chúng tôi trở về với những kỷ niệm của những ngày còn sống trên đất quê hương. Nỗi nhớ quê hương làm cả mấy chị em ngẹn ngào không nói được lời nào… Thay mặt mấy anh chị em người miền Nam đang tập kết ra Bắc cám ơn Đài tiếng nói, cám ơn ca sĩ đã mang đến cho chúng tôi những lời ca tuyệt vời đến thế…”. Vì đây là bài hát mang âm điệu buồn mà lúc bấy giờ chiến trường lại cần những bài mang âm hưởng hào hùng, mạnh mẽ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân nên ông đã không được phép hát bài này trong mỗi lần biểu diễn ở chiến trường.

Ông còn nhớ lần đầu tiên ông biểu diễn bài hát này ở vườn hoa Chí Linh (Hà Nội), lúc ông đang hát lời 2 thì thấy ở phía dưới sân khấu rất nhiều chị em khóc. Ông càng hát, họ lại càng khóc nhiều hơn. Nhìn chị em khóc, ông đã không thể cầm lòng và định không hát nữa, thế nhưng nhìn những người khác đang say sưa nghe ông hát thì ông không thể dừng lại được. Và không hiểu sao những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má ông cho đến khi ông hát xong bài hát. Lạ thay, khi nhìn thấy nước mắt của ông, nhiều chị em đã không còn khóc nữa mà hướng ánh nhìn ngưỡng mộ về phía ông. Buổi biểu diễn hôm đó, khán giả đã yêu cầu ông hát đi hát lại bài hát này đến 3 lần. Sau mỗi lần ông hát xong là hàng tràng pháo tay ròn rã cất lên, kéo dài hàng chục phút không ngớt. Ông tâm sự: “Đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà một người ca sỹ như tôi lúc đó có được. Tối hôm đó, tôi đã không ngủ được vì quá vui sướng”.

Sau này, mỗi lần đi biểu diễn ở các tỉnh, cứ hễ lên sân khấu là khán giả lại yêu cầu ông hát bài “Câu hò bên bờ Hiền Lương”. Và đã một thời, cái tên Văn Hanh nổi lên như một “hiện tượng âm nhạc đặc biệt” mà trong suốt cuộc đời ca hát của mình, ông không bao giờ quên.

 

[footer]

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Chuyến Đò Vỹ Tuyến

Nếu như ‘Câu hò bên bờ Hiền Lương’ là tiếng lòng của người dân Việt ở bờ bắc sông Bến Hải thì ‘Chuyến đò vỹ tuyến’ là tiêu biểu cho tâm tình của những người anh em ở bờ Nam. Nhạc sỹ Lam Phương sáng tác bản ‘Chuyến đò vỹ tuyến’ độ năm 1956-1957, khi cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền đã gần như đi vào ngõ cụt và sự chia cắt không biết bao giờ mới chấm dứt.

Sinh năm 1937, nhạc sỹ Lam Phương khi đó chỉ mới là chàng trai trẻ, vừa tròn 20 tuổi. Thế nhưng qua nét nhạc tài tình và một tâm hồn nhạy cảm với hoàn cảnh đau thương của dân tộc,  ông đã cho ra đời một nhạc phẩm để đời mà 60 năm sau, khi các ‘vết thương chia cắt’ đã lành thì ‘Chuyến đò vỹ tuyến’ vẫn mãi là khúc ca êm đềm ‘sưởi ấm cõi lòng’.

Hình ca sỹ chắc là cô Hoàng Oanh? Ảnh: sưu tầm từ http://clarabeille.blogspot.com
Hình ca sỹ chắc là cô Hoàng Oanh? Ảnh: sưu tầm từ http://clarabeille.blogspot.com

Khi nhắc đến ‘Chuyến đò vỹ tuyến’ sẽ là một thiếu sót nếu như không nhắc đến ca sỹ Hoàng Oang, người đã gắn liền tên tuổi trong hơn 40 năm qua với bản này. Theo cá nhân chúng tôi thì có lẽ Hoàng Oanh không phải là ca sỹ đầu tiên thể hiện ‘Chuyến đò vỹ tuyến’  vì cô sinh năm 1950 mà thời điểm bản nhạc ra đời là khoảng 1956-1957. Tuy nhiên có một điều mà không một thính giả yêu nhạc xưa nào phủ nhận là Hoàng Oanh là người thể hiện thành công và lột tả được cái hồn của bản nhạc.

Nhân dịp này, Dòng Nhạc Xưa xin chúc nhạc sỹ Lam Phương nhiều sức khỏe. Mong ông có được một lần về thăm lại Việt Nam và ghé thăm dòng sông Bến Hải, vỹ tuyến 17, nơi mà hơn 50 năm trước ông đã gởi gắm tâm sự trong một nhạc phẩm để đời.

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương

Nếu như trong ‘Tình lỡ’ (Thanh Bình) hay ‘Tình ca’ (Hoàng Việt) mà [dongnhacxua.com] đã giới thiệu trước đây đã gián tiếp nói đến sự chia cắt sau Hiệp định Genève thì trong ‘Câu hò bên cầu Hiền Lương’, nhạc sỹ Hoàng Hiệp đã đề cập cụ thể đến con sông Bến Hải và chiếc cầu Hiền Lương. Có thể nói nhạc phẩm sáng tác năm 1956 này là bản nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam viết đề đề tài “chia cắt hai miền – 1954”.

60 năm sau, tiếng súng đã chấm dứt gần 40 năm trên quê hương chúng ta, chiếc cầu chia cắt cũng đã nối liền hai bờ. [dongnhacxua.com] cầu mong hòa bình, ấm no và hạnh phúc cho nước Việt xinh tươi!

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Ành: wikipedia.com
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Ành: wikipedia.com

RƠI NƯỚC MẮT CÂU CHUYỆN ‘CÂU HÒ BÊN CẦU HIỀN LƯƠNG’
(Nguồn: VTC.vn)

(VTC News) – Ca khúc nổi tiếng rất xúc động Câu hò bên bờ Hiền Lương được chính nhạc sĩ Hoàng Hiệp tiết lộ cũng xúc động không kém khiến người đọc có thể rơi nước mắt.

Nhạc sỹ Hoàng Hiệp. Ảnh: vtc.vn
Nhạc sỹ Hoàng Hiệp. Ảnh: vtc.vn

Nhạc sĩ Hoàng Hiệp qua đời hôm qua (9/1) đã để lại thương tiếc trong lòng nghệ sĩ và người yêu nhạc nhưng những tác phẩm của ông còn sống mãi theo thời gian. 

Một trong những ca khúc nổi tiếng, xúc động nhất của nhạc sĩ Hoàng Hiệp là Câu hò bên bờ Hiền Lương (lời Hoàng Hiệp và Đằng Giao) nhưng ít ai biết hết về hoàn cảnh sáng tác của nó cũng rất xúc động. 

VTC News trích đăng lại bài viết về hoàn cảnh sáng tác ca khúc Câu hò bên bờ Hiền Lương do chính nhạc sĩ viết năm 1987, được in trong cuốn Nhạc và Đời (Lê Giang – Lưu Nhất Vũ chủ biên, NXB Tổng hợp Hậu Giang, 1989):

Đó là vào những ngày cuối năm 1956.

Ngồi trên xe đò từ Hà Nội và Vĩnh Linh, tôi lặng thinh, day dứt vì nỗi nhớ quê nhà.

Nhìn thời cuộc lúc này, tôi hiểu rằng sẽ không có hiệp thương tổng tuyển cử gì hết. Nhưng phải làm thế nào đây thì tôi không biết.

Tôi hồi tưởng lại quang cảnh ngày các má, các chị, các anh và các em thiếu nhi tiễn đưa chúng tôi xuống ghe để ra vàm sông Đốc, lên tàu tập kết mà không cầm được nước mắt.

Tôi ra đi cũng không gặp lại được ba má và các em tôi sau gần 9 năm xa cách. Gia đình tôi hiện giờ đang ở đâu?

Những ngày đầu ở phía Bắc bờ Bến Hải, tôi sống trong một đồn biên phòng nằm cách cầu Hiền Lương chừng trăm thước.

Ban ngày, tôi đội mưa đi dọc theo bờ sông, đôi mắt đăm đăm nhìn sang bờ Nam. Tôi bắt gặp nhiều em, nhiều chị từ bên ấy, hình như cũng nhìn thấy tôi nên giả đò ra song rửa chân tay để được nhìn lại tôi. Chắc họ muốn nhận coi tôi có phải là người thân hay người quen cùng làng đã đi tập kết hay không.

Phần tôi, tôi đâu có hi vọng gặp được người quen ở chốn này. Bởi quê tôi ở tận cùng phía Nam đất nước.

Xóm làng, chợ búa ở đây cũng không giống như ở quê tôi. Mặc dầu vậy, tôi vẫn cố nhìn, cố nhận dạng những hình vóc, những gương mặt mà tôi cảm thấy rất gần gũi, yêu thương. Và trong lòng thầm nhủ “biết đâu đấy!”.

Ban đêm, tôi hỏi chuyện các chiến sĩ biên phòng. Những người này cũng chỉ cho tôi biết những tin tức mà tôi đã nghe qua. Đồn này quá ít người. Họ lại thay phiên nhau đi làm nhiệm vụ luôn. Họ còn là những người rất ít lời. Hết nằm xuống, tôi lại ngồi dậy. Bởi giấc ngủ không chịu đến với tôi.

Tôi muốn viết một cái gì đó nhưng tâm trạng ngồn ngang nên cũng không viết được. Nhiều ý nghĩ cùng đến một lúc, không biết chọn cái nào và bắt đầu từ đâu.

Đã thế, lại còn tiếng nhạc và những lời xuyên tạc sự thật từ các loa phóng thanh bờ Nam dội sang. Nó tra tấn tôi không ít qua các đêm ở đây.

Một lần nữa, tôi lại bước ra hiên đồn, nhìn về phía cầu Hiền Lương, chiếc cầu ban chiều tôi đã đặt chân lên đó. Tuy nhiên, tôi chỉ được phép đi ở nửa cầu phía Bắc, vì nửa kia là thuộc về miền Nam rồi. Thuộc về cái chính quyền đang quyết tâm và ra sức chia đôi đất nước.

Cây cầu lúc này đang bị màn mưa che phủ. Nó như ẩn như hiện, như thực như hư. Dầu vậy, nó vẫn là vật biểu hiện cụ thể nhất của sự chia cắt.

Từ giã đồn biên phòng, tôi đi ra cửa Tùng và đến sống với những người chài lưới ở một tập đoàn đánh cá.

Khác với các chiến sĩ biên phòng, những người dân miền biển đều ăn to nói lớn. Họ đối với chúng tôi cởi mở hơn. Họ cũng thích bắt chuyện với tôi vì tôi là người từ xa đến, nhất là từ thủ đô Hà Nội.

Tuy vậy, có một anh trong số họ khiến tôi có phần e dè và đặc biệt để ý. Bởi anh rất ít nói. Anh cũng không hay cười, kể cả khi mọi người ngồi quanh chén rượu, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui nhộn. Anh cũng là một xã viên của tập đoàn. Ngoài nhiệm vụ ra khơi đánh bắt, anh còn được giao một công việc nữa. (Được gia hay tự xung phong nhận lãnh tôi cũng không rõ). Đó là công việc của người gác đèn ở Cửa Tùng.

Một buổi chiều, thấy anh sửa soạn trèo lên nơi đặt đèn, tôi xin anh cho tôi theo lên và đã được anh đồng ý.

Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (áo trắng, đứng giữa - Ảnh tư liệu) . Ảnh: vtc.vn
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (áo trắng, đứng giữa – Ảnh tư liệu) . Ảnh: vtc.vn

Và cũng như mọi khi, kể từ lúc chúng tôi trèo lên thang cho đến khi anh thắp sáng ngọn đèn, anh cũng không mở miệng nói với tôi một câu nào. Tôi cũng không gợi chuyện để nói bởi vẻ mặt của anh lúc này càng biểu lộ sự đau khổ hơn lúc nào hết. Tôi còn cảm thấy như đôi lúc anh quên rằng có tôi đang ở bên cạnh anh.

Buổi chiều, ở trên cao nên càng vắng lặng. Chúng tôi nhìn ra biển khơi sóng vỗ, nhìn đàn chim hải âu đang bay, nhìn những cánh buồm đang từ từ trôi dạt vào cửa sông. Bỗng nhiên anh nói:

– Đồng chí có biết không? Nhà tôi ở ngay chỗ chòm dương có những cây cao nhứt đó… Tôi cũng như đồng chí, tập kết ra Bắc từ hơn hai năm nay… Tôi sang đây để lại vợ con bên ấy… Vì vậy, tôi lên đây không phải để làm nhiệm vụ thôi mà còn để nhìn về quê tôi. Vài lần, tôi đã rông thấy ai như vợ con tôi đang từ trong nhà ra bãi để nhận cá mang ra chợ bán. Tôi muốn kêu to lên, nhưng kêu sao cho tới…

Một lần, vừa mới tang tảng sáng, tôi đang đứng ở đây thì nghe tiếng súng nổ bên ấy. Rồi thì tôi thấy khói bốc lên ở đúng ngay xóm tôi. Đồng chí thử tưởng tượng coi, ruột gan tôi lúc đó như thế nào! Tôi đã tìm đủ mọi cách để biết được nhà cửa, vợ con tôi bây giờ ra sao. 

Nhưng không có cách gì hết. Tôi muốn lén đi về bên ấy một lần. Chỉ một lần thôi rồi ra sao thì ra… Đồng chí có biết bao giờ thì mình được về bên ấy hay không? Trước đây tôi là du kích. Bây giờ tôi chỉ muốn cầm súng. Thà chết còn hơn sống hoài trong cảnh thế này…

Một lúc sau, chúng tôi lẳng lặng quay về tập đoàn.

Và bài hát Câu hò bên bờ Hiền Lương của tôi được bắt đầu ngay từ cái đêm hôm đó.

TP Hồ Chí Minh, 18/4/1987
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp

[footer]

60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014)

60 năm chỉ là một khoảnh khắc trong dòng chảy thời gian, của 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng đó cũng là một quãng thời gian đủ dài, ít ra là cũng gần trọn một kiếp người. Trong những ngày này, nhìn lại lịch sử của đất nước, trước khi bắt đầu một số bài viết về những bản nhạc liên quan đến biến cố  “1954 – chia cắt hai miền Nam – Bắc” [dongnhacxua.com] xin mạn phép trích dẫn vài thông tin để thế hệ trẻ có cái nhìn rõ nét hơn về một giai đoạn lịch sử của dân tộc.

ĐÔI NÉT VỀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE – 1954
(Nguồn: có tham khảo Wikipedia)

Sau khi căn cứ địa Điện Biên Phủ bị thất thủ vào ngày 07/05/1954, Pháp chính thức trở thành kẻ bại trận trong cuộc chiến tại Đông Dương. Hiệp định Genève 1954 là hiệp định được kí kết để khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Được kí kết tại Thành Phố Genève của Thụy Sỹ. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.

Nguyên ủy, Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.

Hội nghị Genève, 1954. Ảnh: wikipedia.com
Hội nghị Genève, 1954. Ảnh: wikipedia.com

Thành phần tham dự:

  • Phái đoàn Anh, do Anthony Eden làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Hoa Kỳ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Liên bang Xô viết, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ.
  • Phái đoàn Vương quốc Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Vương quốc Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
  • Hai phái đoàn Pathet Lào và Khmer Issarak không được chính thức tham gia hội nghị mà chỉ có quan hệ với phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các nguyện vọng của hai đoàn này được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trình bày trước hội nghị.

Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Xô và Anh.

Hiệp định Genève có nội dung cơ bản như sau:

  • Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước.
  • Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương
  • Các bên tham chiến thực hiện cam kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh
  • Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong thời gian quân đội hai bên đang tập kết
  • Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự,vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Nước ngòai không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương
  • Thành lập Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương (tiếng Anh: International Control Commission, ICC; tiếng Pháp: Commission Internationale pour la Surveillance et le Contrôle, CISC) gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch.
  • Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. Khoản a, điều 14 ghi rõ: “Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy.”

Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.”

Hiệp định Genève không có điều khoản nào quy định chi tiết về thời điểm cũng như cách thức tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956.

Lực lượng vũ trang tập kết và dân chúng di cư

Những người di cư bằng thuyền năm 1954 từ miền Bắc. Ảnh: wikipedia.com
Những người di cư bằng thuyền năm 1954 từ miền Bắc. Ảnh: wikipedia.com
  • Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng vừa giành được thắng lợi quan trọng tại chiến dịch Điện Biên Phủ, tập kết về miền Bắc.
  • Tuy không ký kết Hiệp định Genève và đã tách ra khỏi Liên hiệp Pháp trước khi Pháp ký Hiệp định Genève nhưng lực lượng Quốc gia Việt Nam vẫn theo quân đội Pháp tập kết về miền Nam. Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc được sự trợ giúp cũng như ảnh hưởng tuyên truyền của Mỹ đã di cư vào Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc), và 140.000 người từ miền Nam (phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Minh) tập kết ra Bắc[22].
  • Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam trong 2 năm và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.

[footer]

Lời tình buồn (Chu Trầm Nguyên Minh – Vũ Thành An)

Trong niềm tiếc thương nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh, tác giả của bài thơ ‘Lời tình buồn’ (sáng tác năm 1967) mà sau đó nhạc sỹ Vũ Thành An đã phổ thành bản nhạc nổi tiếng mãi hơn 40 năm qua. Một lần nữa  [dongnhacxua.com] cầu chúc linh hồn ông mau hưởng niềm vui bất tận nơi miền miên viễn.

LỜI TÌNH BUỒN
(Nguồn: tác giả Trương Văn Dân đăng trên bbqt.com)

Lời ngỏ

Bài này viết vào đầu tháng 1/2014, lúc anh Tâm (CTNM) nhập viện. Lúc đó đã có 2 bản dịch ra tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena. Dù rất mệt nhưng anh Tâm cũng cố gắng viết và gửi cho tôi bài viết về nguồn gốc và những liên quan về “lời tình buồn” để làm tư liệu.

Vừa rồi khi đến thăm anh ở bệnh viện Triều An anh Tâm nói còn thiếu bản dịch sang tiếng Anh. Tôi có nhờ HKO nhưng lúc này chị rất bận. Anh nhờ tôi thay anh viết mail nhờ nhà thơ Đặng Lệ Khánh.Mới đầu chị Khánh cũng hơi ngại việc dịch thơ nhưng khi biết tình hình sức khỏe của anh Tâm đang chuyển biến xấu … thì ngay chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch qua mail. Mừng quá, tôi copy vào bài viết và gửi cho anh. Nhưng lúc này anh đã phải thở oxy và không mở mail được.

Hôm 18/2/2014 tôi gọi điện thăm anh nhưng mãi đến chiều mới liên lạc được. Chị Tùng Vân cho hay là lúc đó anh đang ngủ. Chị cho biết là lúc sáng chị có mở mail và đọc lại bài viết này cho anh nghe. Anh rất vui và xúc động.. 16h ngày 19/2 thì nghe tin anh đã từ giã bạn bè…

Tôi xin gửi bài viết này như thắp một nén nhang không màu khói để tiễn anh về cõi vô thường. Và tưởng nhớ những ngày chung sống cùng anh và các bạn văn ở nhà bs Thiện tại Paris.

Ảnh: luanhoan.net
Ảnh: luanhoan.net

Gần 50 năm trước bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh xuất hiện như một lời chia tay trong tâm trạng bấp bênh, mang đầy nuối tiếc của kẻ ra đi mà chẳng biết ngày về… “Anh đi rồi” vang lên như lời than thở của kẻ đang giã từ đời sống bình yên để bước vào cõi đạn bom. Cuộc ra đi đó là dấu chấm hết của đời thư sinh, xếp bút nghiên để cầm lấy súng. Bản tính hiền hòa, CTNM mang súng mà có lẽ chắc chẳng biết phải dùng súng để làm gì. Trong lòng anh chỉ mang nặng những âu lo, trước mắt anh chỉ có một bầu trời đầy sa mù nên lời thơ của anh âm thầm vang lên như một nỗi buồn thân phận. Cá nhân. Nhưng cũng là tập thể, của những trai tráng cùng thời…

Chỉ với câu thơ đầu : “ Anh đi rồi còn ai vuốt tóc”…. Bài thơ đã ngân lên như một khúc nhạc nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy day dứt, xót xa khi phải xa cách trong tình yêu.

Chỉ một từ “đi” thôi nhưng sao nó làm nỗi buồn như kéo dài đến vô tận! Từ “đi ” ở đây không hẳn là chuyển động… mà còn là sự chia ly, là kéo dài khoảng cách không gian giữa hai kẻ yêu nhau, sẽ không còn thấy, không còn gặp, không còn được tình tự, âu yếm nhau nữa.

Một cảm giác cô quạnh khi hai người không được sống bên nhau. Sự chia ly làm kẻ ra đi buồn da diết và tình yêu sâu sắc của anh dành cho người ở lại lúc này đang lớn lên như biển như trời. Những câu hỏi kế tiếp chính là nỗi băn khoăn của kẻ ra đi: “đêm xuống rồi em buồn không hỡ?” Trời sa mù tầm tay với âu lo…

Chắc chắn là chỉ trước lúc xa nhau con người mới cảm nhận hết tình yêu thương, sự mất mát và nỗi cô đơn. Ý tưởng không mới, cũng chẳng lạ… thế nhưng người đọc thơ anh cứ nghe lòng buồn da diết – Có lẽ nó giải bày niềm khát khao hạnh phúc và nỗi đớn đau lúc chia ly trong tình yêu bằng cảm xúc rất thật, rồi ngôn ngữ và nhạc điệu đã làm cho cảm xúc thăng hoa? Đọc thơ anh, không khó nhận ra là lời thơ tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn không cường điệu hay cố gắng tạo ra những tiếng kêu thê thiết… mà âm vang vẫn man mác, trầm buồn.

Anh đi rồi còn ai đưa đón…

Nỗi lo lắng đơn giản mà xúc động. Những câu hỏi sau đó còn được anh liên tiếp, phóng bút đưa ra, dồn dập… như sự hốt hoảng này chính là nỗi buồn/nhớ đang giăng ngập hồn mình. Nó chiếm lĩnh trọn tâm hồn kẻ ra đi.

Bởi ra đi trong thời khói lửa chiến tranh là sự ra đi một đi không trở lại.

Quá khứ không quay về… Có còn lại chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa. Những hoài niệm làm người đi day dứt… nên “đi rồi” mà như vẫn đứng đó, ngẩng nhìn về phía sau, vì, chỉ một chút nữa thôi là không còn chi nữa. Không còn mái tóc xanh “trùng dương sóng lượn” không còn cả ngôn ngữ để “ nói hết yêu thương”.

Đi, mà lòng vẫn ao ước được ở bên em… ở đâu cũng được, dưới thấp hay trên cao, thậm chí lơ lửng giữa bầu trời như một đóm sao…miễn là được nhìn thấy em, chiêm ngưỡng em… chăm lo cho em mọi thứ. Nhưng đi rồi…thì không gian xa khuất… nên lòng “..chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng”

Bâng khuâng. Và lo sợ. Vì ngày mai biết đâu anh sẽ không còn sống, hay sống sót trở về mà một phần xương thịt đã gửi lại núi rừng.

Bài thơ chỉ có vỏn vẹn 112 chữ nhưng chứa đựng bao điều muốn nói. Ngắn, nhưng cô đọng những tâm tình, những âu lo, mất mát, của tuổi thanh xuân chìm sâu hun hút theo dòng lịch sử của một thời chinh chiến.

Bài thơ khi đọc lên, tự nó đã thấy buồn. Rồi qua lời hát nó còn da diết hơn. Thê thiết hơn. Ngôn ngữ trữ tình thanh thoát còn được bay lượn trên làn sóng âm thanh làm lòng người nghe cảm nhận một cảm giác chơi vơi. Đó có phải là ký ức về một thời trai trẻ, về mối tình đầu… mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ giữ mãi? Cho dù ngày sau có ra sao đi nữa…có chết đi…thì vẫn hạnh phúc vì đã có được một tình yêu nồng thắm… “Phúc yêu em dấu lần quá khứ ”…Âm thanh du dương cao vút rồi khép lại bằng “ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô” …

Rồi tất cả chìm vào hư không… Còn lại chăng chỉ là một nỗi buồn, tiếc, nhớ… mênh mang…

&

Thơ là một dòng suối mà ngôn ngữ là con thuyền chuyên chở cảm xúc, nhờ thứ ngôn ngữ cô đọng đó nên “cái bên trong” của nhà thơ… lan ra bên ngoài…tưới mát tâm hồn và chạm đến trái tim người đọc. Thế nhưng xưa nay hiếm có những bài thơ mà âm vang dừng lại thật lâu, đọng lại trong tâm người thưởng thức..

Phần lớn những vần thơ đến với chúng ta chỉ trong một thoáng, nó như bức tranh mây đa sắc xuất hiện giữa bầu trời…và hình như chỉ khi nào có một họa sĩ tài hoa bằng nghệ thuật độc đáo của mình, nắm bắt được hình ảnh bất chợt, vẽ lên tranh thì hình tượng ấy mới trở nên cụ thể, hư ảo và sắc màu cùng hiện thì cảm xúc của nhà thơ mới được hình tượng hóa : và người yêu thơ mới có thể cảm nhận hết sự cộng hưởng của giai điệu và lời ca.

Bài thơ Lời Tình Buồn của CTNM nhẹ nhàng và ngôn ngữ tự nó có mang theo âm tiết như một bài ca. Nhưng phải nói thêm là tiếng vang của nó sẽ vụt tắt nếu không bắt gặp bàn tay tài hoa của Vũ Thành An. Chính có sự gặp gỡ này thì ngôn ngữ và âm thanh mới giao thoa và những cung bậc cảm xúc được vang lên bằng một thứ âm thanh len lỏi vào trái tim người nghe, ngân vang và được lưu giữ mãi.

Bài hát đã chắp cánh cho những vần thơ ngọt ngào, da diết … bay cao, lay động lòng người.

Nhiều năm sau nghe lại Khánh Ly (*)…giọng hát có lúc trầm buồn, có khi cao vút, khơi dậy trong lòng người nghe những nỗi nhớ của một thời yêu thương, lòng vấn vương bao kỷ niệm của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước… Lời Tình Buồn cuốn hút, mang tâm hồn tôi bay ngược về quá khứ, hất tung những hình ảnh bị che mất dưới lớp bụi mịt mờ của thời gian…

Trương Văn Dân
Sài Gòn 1/2014

Trong cảm xúc ấy, xin ghi lại ở đây bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh:

LỜI TÌNH BUỒN

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc
Lời tình thơm sách vở học trò
Đêm xuống rồi em buồn không hở
Trời xa mù tầm tay với âu lo

Anh đi rồi còn ai đưa đón
Áo em bay khuất mất thiên đường
Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi
Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng
Cổ em cao tay mười ngón thiên thần
Tóc em xanh trùng dương sóng lượn
Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng

Anh đi rồi còn ai tình tự
Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ
Phúc yêu em dấu lần quá khứ
Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.

Chu Trầm Nguyên Minh

…và bản dịch sang tiếng Anh của Đặng Lệ Khánh :

Love Blue

Once I am away, no one will softly touch your hair
Loving words – sweet as school years – no longer murmured to your ears
Night is falling now, are you feeling heartbroken
Misty fog is dripping down filling your arms with worriment

Once I am away, no one will pick you up and see you off
Paradise becomes unreal, so is your fluttering dress
Being twenty something, we are waiting for embraces
No word, nor language can describe my love enough

Once I am away, no one will adore your graceful neck
And your fingers so heavenly delicate
Your long hair flows like soft waves in the ocean
Standing here, in sudden sadness, I am longing for none

Once I am away, there will be no one to share your love
The night sky is filled with songs of remembrance and sorrow
The joy of loving you will soon be flowing into the past
And our first kiss will be falling into emptiness

và hai bản dịch sang tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena Pucilo Truong

Les paroles tristes pour un amour
Je suis parti ….Qui te caressera les cheveux ?
Les mots d’amour parfument encore les cahiers
Tu seras triste quand tombera la nuit

Et le ciel brumeux te remplira de souci
Je suis parti…Qui t’accompagnera ?
Vole la bande de l’ao dai , en voilant le paradis
A vingt-ans , les bras sont ouverts en attendant un amour

Par quels mots je pourrais exprimer tout mon sentiment?
Je suis parti….Qui adorera
Ton long cou et tes doigts d’ange
Tes cheveux, fluctuants comme une vague de l’océan?

Et le regard se perd dans la tristesse…avec émotion
Je suis parti….à qui tu t’es confieras ?
Le ciel nocturne murmure la nostalgie mélancolique
La chance de t’avoir aimée , maintenant me fait oublier notre passé

Et le premier baiser sombre déjà dans le rien…

Bản dịch sang tiếng Ý :

Le parole tristi per un amore
Sono partito, chi ti accarezzera’ i capelli ?
Le parole d’amore profumano ancora i quaderni
Sarai triste quando calera’ la notte

E il cielo nebbioso ti riempira’ di preoccupazione.
Sono partito..chi ti accompagnera’?
Il lembo di ao dai vola, velando il paradiso
a vent’anni , le braccia sono aperte in attesa di un amore

Con quali parole potrei esprimere tutto il mio sentimento?
Sono partito… chi adorera’
Il tuo lungo collo e le dieci dita d’angelo
I tuoi capelli, fluttuanti come l’onda dell’oceano?

E lo sguardo si perde nella tristezza…con emozione
Sono partito… con chi ti confiderai ?
Il cielo notturno sussurra la malinconica nostalgia
La fortuna d’averti amato ora mi fa dimenticare il nostro passato

Ed il primo bacio già sprofonda nel nulla…

[footer]

Nhong nhong nhong … Cha làm con ngựa (Thế Hiển)

Tiếp nối chủ đề “Ngựa trong âm nhạc Việt” [dongnhacxua.com] xin giới thiệu tiếp một sáng tác vui và nhiều ý nghĩa của nhạc sỹ Thế Hiển, bản “Nhong nhong nhong”. Hình ảnh người cha làm ngựa để vui đùa với con cái chắn hẳn là một kỷ niệm khó phai đối với tất cả chúng ta, dù ở bất kỳ độ tuổi nào, mỗi khi nhớ về một thời tuổi thơ, để thấy yêu thương các bậc sinh thành nhiều hơn.

CHA LÀM CON NGỰA
(Nguồn: tác giả Thụy Bình đăng trên BaoPhuYen.com.vn)

“Nhông nhông nhông cha làm con ngựa, để cho con, con cưỡi con chơi…” để cho con, cho con thật nhiều, nhiều như lá, như cây, như thác nước đại ngàn, như núi Thái Sơn bao la hùng vĩ…

 cha-lam-con-ngua--baophuyen.com.vn--dongnhacxua.com

Bây giờ con đã lớn khôn nhưng tuổi thơ con mang nặng tình yêu thương của ba còn mãi vẹn nguyên, tình yêu thương của ba dành cho con, tiếp cho con sức mạnh cứ mãi tròn đầy… Thế sao bây giờ ba không còn đủ sức chỉ để tự trở mình, chỉ để hé mắt nhìn đứa con gái thân yêu nơi xa về khi nghe tin “ ba bệnh nặng”?

…Con tròn 5 tuổi, vì nhiều lý do ba phải nghỉ “ hưu non” để mẹ con “đương chức”. Tháng hai lần, mẹ gồng gánh lương thực, thực phẩm thời bao cấp từ cơ quan cách hàng chục cây số về với bốn cha con, cả gia đình có được ngày Chủ nhật sum vầy. Những ngày còn lại trong tuần, bốn cha con “ nhông nhông” với nhau, ngựa con, ngựa bố sớm tối vui vầy. Ba nóng tính như lửa rơm, chóng cháy chóng tàn, trực tính, tầm phào và tốt bụng. Ba gánh vác nắng mưa, gánh vác nỗi niềm cho con trẻ, cho con sức mạnh, cho con niềm tin vững chãi bước đi trong cuộc đời. Con dần lớn khôn, giống mẹ-con yếu mềm, con hay tủi thân, hay khóc, hay mủi lòng… Ba vực con dậy trong nhiều lần vấp ngã, non nớt nào đâu con biết, ba cho con sức mạnh nhưng ba lại quay lưng giấu đi gương mặt méo xệch vìø cảm xúc…

Con nhớ, khi lên lớp 5, ba cho con lên trường huyện theo học lớp bồi dưỡng văn dự thi cấp tỉnh. Con bé nhỏ trên chiếc xe đạp quá khổ tuổi lên mười, với con, ba mạnh mẽ đi kèm sát bên cạnh như một sự che chở khôn cùng… thế mà con vụng về yếu đuối để chiếc xe thồ va quệt suýt té. Không yên lòng, ba cố công dỗ dành để con đồng ý không theo học nữa. Nhưng con tiếc, con buồn, con khóc và thầm giận ba suốt tháng dài… Vẫn cương quyết vô cùng nhưng ba lại thao thức, trăn trở thương con hiếu học! Ngày con dự thi tốt nghiệp cấp II, rồi cấp III, ba bỏ công việc, lo lắng, bồi hồi ngồi chờ con suốt buổi trước cổng trường, nhen thêm cho con ngọn lửa của sức mạnh, của niềm tin cho đến ngày tên con có trên “ bảng vàng”, ánh mắt ba bừng sáng mừng vui… Ngày con vào đại học, ba đưa con ra bến xe, lần đầu tiên con cảm nhận nhiều lắm về cuộc đời vì lần đầu tiên con đi bên cạnh người cha đang khóc, nước mắt ba mềm nhũn lòng con suốt quãng đường đưa tiễn, để 4 năm dài chốn giảng đường và mãi sau này con luôn mang theo hình bóng của ba ngày đó, nhớ về những giọt nước mắt của ba để con có thêm sức mạnh, để con hiểu rằng: buồn vui, hờn giận cũng phải biết nén lòng…

… Con đủ lông, đủ cánh bay đi, con cứng cỏi lên nhiều cũng là lúc con không được cùng ba nữa trong tuổi xế, tuổi chiều…. Ba cho chúng con trong hành trang mang theo cuộc đời mình có sự mạnh mẽ, tính nóng như lửa rơm, chóng cháy chóng tàn, trực tính, tầm phào và tốt bụng, tình yêu thương khôn cùng như  núi Thái Sơn bao la hùng vĩ…

THỤY BÌNH

[footer]